Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) áp dụng phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu vào đọc hiểu bài thơ cảnh ngày hè của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.32 KB, 18 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Một trong những mục tiêu quan trọng của môn ngữ văn ở trường PTTH hiện
nay là bồi dưỡng và nâng cao năng lực cảm nhận tác phẩm văn học, đặc biệt là
năng lực đọc hiểu văn bản. Chính vì vậy chương trình được xây dựng theo hai trục
tích hợp: đọc văn và làm văn. Theo tinh thần này dạy học văn có nhiệm vụ: thơng
qua dạy kiến thức mà trang bị và rèn luyện cho học sinh cách đọc, phương pháp
đọc để học sinh có thể tự mình đọc và hiểu những văn bản khác.
Có thể nói, đọc hiểu là một cách thức quan trọng để phát huy tính chủ động
của học sinh, biến việc dạy, việc tiếp nhận tác phẩm văn học của một người thành
của nhiều người, tránh được cách dạy truyền thống đọc chép cuả thầy và trò.
Chương trình văn học Trung Đại Việt Nam chiếm một phần tương đối lớn
trong chương trình ngữ văn bậc PTTH. Cùng với VHHĐ, VHTĐ có đóng góp
khơng nhỏ vào tiến trình phát triển văn học nước nhà và đạt được những thành tựu
rực rỡ cả về nội dung và nghệ thuật. Góp phần vào nội dung phong phú đó chúng ta
phải kể đến những tác giả có tên tuổi: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện
Thanh Quan…và không thể không nhắc đến Đại thi hào Nguyễn Trãi, danh nhân
văn hóa, anh hùng dân tộc.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi rất phong phú và đa dạng, đặc biệt là
những sáng tác bằng chữ Nôm, tiêu biểu là “Quốc Âm Thi Tập”. Tập thơ gồm 254
bài thơ, là minh chứng hùng hồn cho ý thức trở về cội nguồn, ý thức dân tộc hóa
văn chương, nhân dân hóa thơ ca của Nguyễn Trãi. Tập thơ còn là minh chứng về
cảm xúc, tâm hồn của một “vĩ nhân” trong lịch sử là sự cách tân về ngôn ngữ và
cấu tứ…
Cũng giống như đặc trưng cơ bản của văn học trung đại, thơ Nguyễn Trãi có
“ khoảng cách tiếp nhận” ( PGS- TS Nguyễn Thị Thanh Hương) so với chúng ta
hiện tại, đây chính là “ khoảng cách thẩm mỹ, đó là độ chênh lệch, sự cách xa giữa
tiếp nhận thẩm mỹ của bạn đọc trước một văn bản văn học”. Điều này đòi hỏi
người giáo viên dạy văn phải là một nghệ sĩ trên lớp học. Khả năng diễn đạt, dẫn
dắt người học để các em tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả. Thơ Nôm Nguyễn
Trãi được sáng tác theo thể đường luật, nhưng có nhiều cải biến, trong thơ ơng sử


dụng nhiều từ ngữ cổ, nhiều điển tích, điển cố…Điều này bắt buộc chúng ta phải có
cách tiếp cân phù hợp, từ đó hướng dẫn, định hướng học sinh tìm hiểu một cách sâu
sắc nhất tác phẩm.
Thơ Nguyễn Trãi được đưa vào chương trình PHTH gồm 2 bài, “ Bình Ngơ
Đại Cáo” ( Thơ chữ Hán) và “Cảnh ngày hè ” (Bảo kính cảnh giới số 43 - Thơ Chữ
Nơm). “ Bảo kính cảnh giới số 43” thuộc tập thơ “ Quốc Âm Thi Tập” đã chuyển
tải đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: một người gắn bó sâu sắc với thiên nhiên,
con người và cuộc sống dân dã. Bài thơ cũng thể hiện khát vọng ước mơ về cuộc
sống an lành cho nhân dân. Để chuyền tải một cách sinh động nội dung đó tác giả
1


đã có những cải biến thể thơ đường luật, cách sử dụng từ ngữ sáng tạo, sử dụng
nhiều từ cổ, điển cố…mang đậm vẻ đẹp dân tộc và gợi được nhiều ý nghĩa. Tuy
nhiên để hiểu hết những điều nhà thơ gửi gắm không phải điều đơn giản. Xuất phát
từ những lý do trên tôi thấy áp dụng phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu vào đọc
hiểu văn thơ Nguyễn Trãi nói chung, bài thơ “ Cảnh ngày hè ” ( Bảo kính cảnh
giới số 43 )là cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Thơng qua việc nghiên cứu tài liệu liên quan đến phương pháp đọc hiểu, cụ
thể là phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu đề xuất cách thức góp phần nâng cao kỹ
năng đọc hiểu bài thơ “ Cảnh ngày hè ” ( Bảo kính cảnh giới số 43 ) của Nguyễn
Trãi.
- Thiết kế giáo án cụ thể, dạy thể nghiệm và đánh giá thể nghiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Thi pháp thơ Trung đại.
- Thơ văn Nguyễn Trãi.
- Phương pháp đọc hiểu, cắt nghĩa, chú giải sâu.
- Hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh lớp 10B1- TTGDNNGDTX Như Thanh.
- Tác phẩm “ Cảnh ngày hè ” (Bảo kính cảnh giới số 43 ) của Nguyễn Trãi.

4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh, chú giải, cắt nghĩa…
II. Nội dung sáng kiến.
1. Cơ sở lý luận.
Trong bài viết: “đọc hiểu văn bản- một khâu đột phá trong nội dung và
phương pháp dạy học hiện nay” in trên tạp chí văn nghệ giáo sư Trần Đình Sử đã
nói: “ Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc để học sinh có thể đọc bất cứ văn
bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn bản trực tiếp cảm nhận các giá trị văn học, trực
tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngơn từ
hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ”.
Dạy đọc- hiểu là vừa dạy cách thức tiếp xúc với văn bản, hiểu nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trị của các lớp nghệ thuật, tư
tưởng tình cảm của tác giả gửi gắm trong tác phẩm, vừa hình thành cách đọc văn,
phương pháp đọc theo thể loại để dần dần các em có thể tự đọc văn, hiểu tác phẩm
văn học một cách khoa học, đúng đắn.
Tuy nhiên mỗi thể loại có một cách đọc riêng, thơ Trung đại khác thơ Hiện
đại. Đối với VHTĐ Việt Nam nói chung, thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng, xuất hiện
khá xa so với chúng ta hiện nay, do đó dạy đọc hiểu văn bản thơ đã khó, đọc hiểu
thơ trung đại là vấn đề nan giải đối với giáo viên và học sinh. Việc hình thành cho
học sinh phương pháp đọc hiểu thơ Trung đại là hết sức cần thiết. Và trong bài viết
2


này người viết tập trung khai thác, nhấn mạnh phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu
và áp dụng nó ở một bài cụ thể, bài thơ “Cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43)
của tác giả Nguyễn Trãi.
2. Thực trạng vấn đề.
2.1 Thuận lợi và khó khăn.
a. Thuận lợi.

Trong nhiều năm tham gia các lớp tập huấn công tác đổi mới phương pháp
dạy học của sở giáo dục và đào tạo, bản thân tôi đã được tiếp thu những kiến thức
bổ ích, sát thực trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Được trao đổi kinh
nghiệm từ các bạn đồng nghiệp, các tổ chun mơn, từ đó hình thành cho mình
những tri thức nhất định.
Bản thân là một giáo viên tận tâm với nghề, có ý thức bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực sư phạm, ln trăn trở trước những vấn đề khó
của bộ mơn, từ đó tìm tịi những giải pháp và quyết tâm chinh phục.
Trung tâm đã trang bị đầy đủ các thiết bị, đồ dung học tập cần thiết …đáp
ứng tương đối tốt những tiết dạy của giáo viên khi cần thiết bị dạy học.
Học sinh đã được tiếp xúc với văn học Trung đại nói chung và thơ văn
Nguyễn Trãi nói riêng từ bậc THCS.
b. khó khăn.
Khó khăn lớn nhất đối với chúng ta hiện nay đó chính là đối tượng học sinh,
đa số các em khơng cịn có thiện cảm đối với mơn ngữ văn, các em ít chịu khó tư
duy, sức ì và sự ỉ lại rất lớn.
Một số giáo viên vẫn còn bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng nhưng chưa phát
huy tất cả các đối tượng hoặc không chú ý đến các điều kiện dạy học khi xây dựng
mục tiêu bài dạy nên dẫn đến lựa chọn phương pháp dạy học chưa thích hợp với
năng lực tiếp thu của học sinh.
Đánh giá nhận xét của giáo viên đối với học sinh còn chung chung, chưa
bám chuẩn kiến thức, kỹ năng nên chưa giúp học sinh tự nhận biết khả năng ở mức
độ nào.
2.2 Thành công, hạn chế.
a. Thành cơng.
Bản thân tơi đã có nhiều cố gắng để tìm hiểu để nắm bắt và thực hiện yêu
cầu đổi mới của chương trình SGK về phương pháp dạy học, đánh giá, sử dụng
thiết bị dạy học…và tổ chức linh hoạt các hoạt động chiếm lĩnh chuẩn kiến thứckỹ năng trên lớp cho học sinh.
Học sinh bước đầu có hứng thú và tham gia tích cực.
b. Hạn chế.

Những sáng tác của đại thi hào Nguyễn Trãi vô cùng phong phú và đa dạng,
song học sinh chưa có cơ hội được biết đến nhiều thơng qua chương trình SGK.

3


Tài liệu về VHTĐ nói chung và thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng cịn chưa đến
được nhiều đối với giáo viên và học sinh.
Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu, giáo viên ít chú ý đến tích hợp, khi dự giờ
trao đổi với đồng nghiệp, có tình trạng chưa thực sự hiểu sâu sắc về đặc điểm thơ
Nôm Nguyễn Trãi ( Ví dụ chưa chú giải sâu một số từ ngữ cổ mà tác giả sử dụng
trong bài), về tập thơ “Quốc Âm Thi Tập”…tất cả những điều này là rào cản học
sinh ít có cơ hội cảm nhận thơ văn Nguyễn Trãi nói chung và “ Cảnh ngày hè ”
(Bảo kính cảnh giới số 43 ) nói riêng.
Về phía học sinh một phần do khả năng tiếp nhận kiến thức hạn chế, một
phần do hoàn cảnh thời đại và yếu tố tâm lý tác động không nhỏ tới việc học các
sáng tác VHTĐ nói chung và thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng. Chính vì vậy dẫn đến
tình trạng tìm hiểu của học sinh về phần này còn hạn chế, việc học đối với các em
cịn mang tính đối phó.
2.3 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.
VHTĐ Việt Nam dù chiếm tỷ lệ ít hơn so với VHHĐ song có ý nghĩa vơ
cùng to lớn trong tồn bộ tiến trình phát triển Văn học nước nhà. Là gạch nối giữa
văn học dân gian và văn học hiện đại, tiếp thu những tinh hoa văn học dân gian và
là nền tảng để văn học hiện đại tiếp tục phát triển. Song do cấu trúc chương trình
hạn hẹp, học sinh có ít cơ hội được tiếp xúc với VHTĐ, các em chỉ được biết đến
qua một số tác giả tiêu biểu…Việc học, cảm nhận những sáng tác của Nguyễn Trãi
nói chung và bài thơ “ Cảnh ngày hè ” (Bảo kính cảnh giới số 43 ) nói riêng khơng
chỉ có ý nghĩa về giá trị nội dung tư tưởng nghệ thuật mà hơn nữa một lần nữa
khẳng định sự phát triển tinh hoa văn học dân tộc, nét đẹp tâm hồn dân tộc qua thơ
Nguyễn Trãi. Từ đó hình thành ở học sinh lịng u q hương, tự hào về vẻ đẹp

dân tộc…Chính vì lẽ đó việc học sinh được tiếp xúc và cảm nhận thơ văn Nguyễn
Trãi là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa to lớn.
Khoảng cách tiếp nhận thơ ca VHTĐ đối với học sinh hiện nay là rất lớn,
ngay cả với giáo viên, đã có rất nhiều giáo viên giỏi, tâm huyết với nghề, nên đã
chịu khó tìm tịi những phương pháp giảng dạy, tìm tịi nguồn tư liệu liên quan đến
văn bản tác phẩm, và cuộc đời tác giả. Vì vậy họ đạt được những thành cơng trong
q trình giảng dạy VHTĐ nói chung thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng. Tuy nhiên
vẫn cịn một số trường hợp giáo viên ngại dạy phần văn học trung đại, do đó đầu tư
ít về thời gian, cơng sức để tìm hiểu và tìm ra phương pháp dạy phù hợp cho phần
văn học này, dẫn tới tình trạng dạy qua loa, chất lượng tiếp thu bài của học sinh còn
hạn chế.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1 Phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu.
Trong văn học ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn bản, ngôn ngữ trở thành
những vật liệu xây dựng nên những hình tượng, diễn đạt tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn, nhà thơ. Nếu học sinh nhận thức được những đặc trưng về ngôn ngữ trong
4


một số tác phẩm văn học thì các em sẽ cảm nhận sâu sắc về nghệ thuật, nội dung tư
tưởng tác phẩm đó. Nếu khơng, ngược lại các em chỉ chú ý đến chủ đề mà không
chú ý đến ngôn ngữ tác phẩm, tuy vẫn tri giác được nó nhưng các em mới chỉ có ấn
tương chung, một sự đánh giá chung chứ chưa có những hình tượng nhất định để
hiểu và cảm nhận một cách sâu sắc. Mặt khác trong tác phẩm văn chương Trung
Đại nói chung, thơ Nguyễn Trãi nói riêng thì khó khăn đầu tiên khi tiếp nhận tác
phẩm đó là vấn đề ngơn ngữ. Việc dạy học các tác phẩm VHTĐ so sánh văn bản
gốc( Hán, Nơm) là điều rất khó khăn. Bởi lẽ rất ít giáo viên có trình độ tiếng Hán
cổ, hay chữ Nơm để có thể giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm trên văn bản gốc.
Trong khi đó ở các bản dịch tác phẩm VHTĐ, có một số tác phẩm dịch sát, hay với
văn bản gốc, nhưng một số văn bản thì chưa chuyển tải hết nội dung ý nghĩa từ ngữ

mà tác giả muốn đề cập. Đối với một số tác phẩm viết bằng chữ Nơm vẫn cịn gây
nhiều khó khăn đối với học sinh PTTH hiện nay.
Bài thơ “ Cảnh ngày hè ” (Bảo kính cảnh giới số 43 ) được tác giả sáng tác
bằng chữ Nôm, trong văn bản nhà thơ có sử dụng nhiều từ cổ, sử dụng điển cố.
Việc sử dụng từ ngữ xưa, nay có sự khác nhau. Một số từ ngữ trong văn bản cổ
hiện nay hầu như khơng cịn hoặc rất ít khi sử dụng trong ngơn ngữ tồn dân. Vì
vậy khi từ ngữ đó xuất hiện trong tác phẩm, học sinh sẽ trở nên lúng túng, khó hiểu.
Điều này địi hỏi khi dạy giáo viên cần quan tâm tới việc chú giải, cắt nghĩa từ khó
để học sinh có thể hiều được ý nghĩa của từ, từ đó mới có thể phân tích được nội
dung mà tác giả muốn truyền tải.
*Vậy chú giải từ là gì? Theo tơi, chú giải là làm cho từ ngữ đó được hiểu
một cách rõ ràng, nói cách khác là làm cho học sinh hiểu từ và thông nghĩa, hiểu
câu sau đó mới có cơ sở để cảm thụ văn chương. Học sinh chưa hiểu từ thì khơng
thể hiểu câu và càng không thể cảm thụ văn chương.
*Chú giải điển tích, điển cố.
“Điển cố” là lấy xưa để nói nay,nhắc lại việc xưa bằng một vài chữ mà gợi
lên sâu sắc các tầng ý nghĩa khiến lời văn thêm sinh động.Với học sinh, các điển cố
trong văn học khiến các em khó hiểu hoặc khơng hiểu hết dụng ý nghệ thuật của tác
giả. Hoặc phần lớn các em chỉ hiểu hời hợt bên ngồi mà khơng thấy cái hay, chất
văn chương “ý tại ngôn ngoại” “ cái gợi” mà điển cố mang lại. Chú giải điển cố là
giúp học sinh tái hiện nội dung văn bản, ý nghĩa của nó đối với người xưa, từ đó
giúp các em tự tư duy để hiểu tác phẩm.
Khi chú giải điển cố, bước đầu tiên là chú giải nghĩa đen của điển cố, nghĩa
là giúp học sinh hiểu nghĩa gốc của điển cố. Sau khi chú giải nghĩa đen giáo viên
cần phân tích giá trị thẩm mỹ của điển cố bằng việc đặt vào trong câu thơ, trong
văn bản để cắt nghĩa ý nghĩa câu thơ từ đó tìm ra ẩn ý mà nhà thơ gửi gắm.
* Bên cạnh việc chú giải từ, điển cố, công việc tiếp theo để giải mã văn
bản là cắt nghĩa. Nếu đọc văn bản mà không hiểu nghĩa từ, câu và mối quan hệ

5



của chúng trong văn bản thì các em khơng thể hiểu được ý đồ nghệ thuật của tác
giả.
*Cắt nghĩa là tìm ra ý nghĩa của văn bản, thơng qua việc cắt nghĩa các yếu
tố: hình ảnh, từ, câu, các bộ phận trong chỉnh thể của mạch văn làm cho chúng bộc
lộ ý nghĩa riềng của từng tác phẩm. Thông qua quá trình cắt nghĩa, giáo viên sẽ làm
sáng tỏ được những từ ngữ, câu, hình ảnh mà người viết đề cập.
Mặt khác việc cắt nghĩa phải đi liền với việc phân tích và chú giải từ. Bởi lẽ,
nhờ có phân tích mà cắt nghĩa mới có thể làm sáng tỏ những điểm tiếp nhận độc
đáo của tác phẩm, góp phần phát triển ngaỳ càng cao năng lực sáng tạo của học
sinh. Điều cần lưu ý thêm đó là khi cắt nghĩa, chú giải từ phải quan tâm tới yếu tố
ngữ cảnh, phải chú giải, cắt nghĩa từ trong điều kiện ngữ cảnh, nếu khơng quan tâm
tới vấn đề này thì nhiều khi từ ngữ được chú giải sẽ không được hiểu chính xác.
Khơng những thế nếu khơng gắn chúng với từng hồn cảnh thì vai trị của giáo viên
trong giảng dạy cũng khơng cịn nhiều. Bởi lẽ lúc này học sinh chỉ cần xem chú giả
trong SGK, hoặc trong từ điển là có thể tra ra khơng cần tới giáo viên.
Tóm lại: Phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu là một trong những phương
pháp đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, tâm huyết, bởi lẽ những
từ ngữ, hình ảnh mà chúng ta chú giải, cắt nghĩa có khoảng cách thẩm mỹ đối với
người đọc, người học hiện tại. Phương pháp này có thể áp dụng vào việc đọc hiểu
các văn bản VHTĐ Việt Nam nói chung và một số văn bản trong chương trình ngữ
văn lớp 10. Trong khuôn khổ của bài viết này tôi đề cập đến việc áp dụng vào đọc
hiểu bài thơ “ Cảnh Ngày hè ” ( Bảo kính cảnh giới số 43) của đại thi hào Nguyễn
Trãi.
3.2 Áp dụng phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu vào đọc hiểu bài thơ “
cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43) của Nguyễn Trãi.
3.2.1 Mục tiêu.
Giúp học sinh hình thành phương pháp đọc hiểu một cách tích cực, sáng tạo
và chủ động.

Tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn ngữ văn.
Giúp học sinh tiếp nhận sâu sắc các giá trị tư tưởng nghệ thuật tác phẩm “
cảnh ngày hè” ( bảo kính cảnh giới số 43).
- Hình thành ở học sinh tình cảm, thái độ trân trọng đối với văn bản “ Cảnh
ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43), khắc sâu tình cảm đối với đại thi hào Nguyễn
Trãi.
3.2.2 Nội dung và cách thức thực hiện.
3.2.2.1 Những chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
a. Chuẩn bị về phương pháp.
Chuẩn bị tốt các phương pháp như: Chú giải sâu, cắt nghĩa, phát vấn, thuyết
trình, phân tích, bình giảng…Đặc biệt chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, khoa
học, chính xác, phong phú, phù hợp với đối tượng học sinh. Hệ thống câu hỏi từ dễ
6


đến khó, trong đó có câu hỏi tái hiện, câu hỏi phát hiện, câu hỏi tư duy, câu hỏi gợi
mở, nâng cao…nhằm kích thích sự suy nghĩ, tìm tịi, sang tạo chủ động tích cực
của học sinh.
Sử dụng một số hình ảnh, sách báo lien quan đến bài giảng ( Ví dụ Hình ảnh
Đại thi hào Nguyễn Trãi khi ở Côn Sơn, tập thơ Quốc Âm Thi Tập…)
b. Chuẩn bị về nội dung và tư liệu.
*Đối với giáo viên.
Giáo viên đọc kỹ văn bản SGK, phần chú thích trang 118, SGK lớp 10 tập 1.
Hệ thống lại kiến thức về tác giả Nguyễn Trãi, đặc biệt tập thơ “Quốc Âm
Thi Tập”. Nghiên cứu tìm tịi thêm cách chú giải các từ cổ, điển cố trong bài thơ.
Định hướng các phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động nhận thức của
học sinh.
Thiết kế bài giảng, giáo án ngắn gọn, bố cục rõ ràng, nổi bật trọng tâm kiến
thức.
Dự đốn các tình huống sư phạm xảy ra trong giờ học.

*Đối với học sinh.
- Yêu cầu học sinh đọc trước văn bản ở nhà, đặc biệt đọc phần chú thích
trong sách giáo khoa.
- Trả lời câu hỏi phần hướng dẫn học bài- SGK và các câu hỏi định hướng
của giáo viên.
3.2.2.2 Xây dựng hệ thống câu hỏi.
Với phương pháp dạy học tích cực hiện nay, giáo viên đóng vai trị là người
định hướng, học sinh tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức. Vì lẽ đó, ngồi tham
khảo các câu hỏi SGK giáo viên nên thiết lập một hệ thống câu hỏi phù hợp với
từng đối tượng học sinh, xác định trọng tâm của bài học để đưa ra hệ thống câu hỏi.
Khi tiến hành hoạt động dạy học trên lớp, giáo viên có nhiệm vụ dẫn dắt học
sinh đi từ dễ đến khó, từ câu hỏi tái hiện đến câu hỏi sáng tạo, câu hỏi nêu vấn đề…
để học sinh không cảm thấy xa lạ với những gì mình chuẩn bị, từ đó giữa thầy và
trị có quan hệ hợp tác.
Tùy theo yêu cầu và nội dung của từng văn bản mà giáo viên chuẩn bị các
phiếu học tập khác nhau trong việc hướng dẫn học sinh soạn bài. Một số phiếu học
tập định hướng chuẩn bị bài “ Cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43) như sau:
Câu 1.
Bằng những hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Trãi hãy ghi lại những thông
tin cơ bản về: cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của ông.
Câu 2.
Đọc kỹ phần tiểu dẫn SGK, cho biết những nét cơ bản về tập thơ “ Quốc Âm
Thi Tập”?
Câu 3.

7


Bài thơ “ Cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43) nằm trong phần nào của
tập thơ “ Quốc Âm Thi Tập”?

Câu 4.
Đọc phần chú thích, chú giải một số từ trong văn bản “ rồi”, “ tiễn”, “ Dắng
dỏi”…, điển cố “ ngu cầm”.
Học sinh dựa vào SGK hồn thành một số phiếu học tập sau:
Nhóm 1: Bức tranh thiên nhiên.
? Trong bài thơ có nhiều động từ diễn tả trạng thái của cảnh ngày hè. Đó là
những động từ nào, trạng thái của cảnh được diễn tả ra sao?
? Cảnh ở đây có sự hài hịa giữa âm thanh và màu sắc, cảnh vật và con
người. Anh ( chị ) hãy phân tích và làm sang tỏ?
? Nhà thơ đã cảm nhận cảnh vật bằng những giác quan nào? Qua sự cảm
nhận ấy, anh ( chị ) cảm thấy Nguyễn Trãi là người có tấm lịng như thế nào đối với
thiên nhiên?
Nhóm 2. Bức tranh về cuộc sống.
? Cuộc sống dân dã được Nguyễn Trãi nhắc đến như thế nào trong bài thơ?
? Hai câu cuối bài thơ cho ta thấy tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với người
dân như thế nào?
? Câu cuối bài thơ kết thúc bằng sáu chữ, sự thay đổi âm điệu như thế thể
hiện tình cảm gì của nhà thơ?
Nhóm 3. Một số nét nghệ thuật.
? Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ cổ trong bài thơ? Cách sử dụng điển
cố có sức gợi như thế nào?
? Sáng tạo trong cách sử dụng thể thơ sáu chữ xen bảy chữ mang lại giá trị
nội dung và nghệ thuật gì của bài thơ?
3.2.2.3 Hoạt động trên lớp.
Trong quá trình đọc hiểu một văn bản văn học, hoạt động trên lớp là giai
đoạn cảm thụ sâu văn bản. Giáo viên hướng dẫn tổ chức hoạt động thông qua hệ
thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt vấn đầ. Định hướng học sinh giải đáp những băn
khoăn, thắc mắc của bản thân biến quá trình nhận thức thành quá trình tự nhận thức
để hoàn thiện giá trị một tác phẩm văn chương.
a. Những tri thức về tác giả.

Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ kiệt
xuất của văn học trung đại Việt Nam. Con người toàn tài ấy đã để lại cho chúng ta
một sự nghiệp văn học đồ sộ với những giá trị to lớn. Xét về mặt lịch sử văn học,
Nguyễn Trãi là người tạo đà cho bước phát triển lớn của văn học trung đại thế kỷ
XV và có ảnh hưởng lớn đến các thế hệ thi sĩ về sau của văn chương cổ điển Việt
Nam.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, q ơng ở xã Chi Ngại, huyện
Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời về làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà
8


Tây. Phụ thân của ông là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái
học sinh đời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán thuộc
dòng dõi quý tộc nhà Trần lúc bấy giờ.
Năm 1400, ông đỗ thái học sinh ( tức Tiến sĩ sau này) khoa thi đầu tiên thời
nhà Hồ. Năm sau Nguyễn Trãi ra làm quan cùng cha, đến khi giặc Minh sang xâm
lược nước ta, nhà Hồ thua trận, năm 1407, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa về Trung
Quốc, nợ nước thù nhà, Nguyễn Trãi trở về Đông Quan, tìm đường “ rửa nhục cho
nước, trả thù cho cha”, Ông bị quân Minh bắt giữ, chúng giam lỏng ông gần mười
năm trời ( 1408 – 1418).
Năm 1417, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi tìm cách
thốt khỏi Đơng Quan và tìm đến Lê Lợi, dâng “ Bình Ngơ sách”, trong đó ơng
vạch ra các kế hoạch đánh quân Minh. Chính Nguyễn Trãi là người viết “ Bình
Ngơ Đại Cáo”, bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
Đầu năm 1428, sau khi quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng
nước nhà. Đây là giai đoạn phức tạp nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Do triều
thần ghen ghét, ông bị nghi oan và bắt giam. Sau đó Nguyễn Trãi được tha nhưng
khơng cịn được tin dùng như trước, ơng xin về ở ẩn ở Côn Sơn.
Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công
việc quan trọng. Nguyễn Trãi đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột

ngột ở Trại Vải. Vốn ghen ghét, đố kỵ từ lâu bọn gian thần vu cho ông giết vua,
ông bị khép vào tội “ Tru di tam tộc”.
Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ
ca và trọng dụng người con còn lại của Nguyễn Trãi.
Những sáng tác của Nguyễn Trãi rất đa dạng và phong phú, có cả chữ Hán
và chữ Nơm. Về chữ Hán, có tập “ Ức trai Thi tập”, bao gồm hơn 105 bài thơ thất
ngơn hoặc ngũ ngơn. Tác phẩm “ Bình Ngơ Đại cáo”, “ Chí Linh Sơn Phú”…
Về sáng tác chữ Nơm, tác phẩm tiêu biểu nhất là “ Quốc Âm Thi Tập”, được
xem là tập thơ phong phú nhất. Tập thơ được đánh giá là “ áng văn chương mẫu
mực, có giá trị khai mở và đặt nền móng cho nền văn học Nôm việt Nam.
Đánh giá:
Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có
của dân tộc Việt Nam. Ơng khơng chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao
tài năng mà cịn là nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Tuy Nguyễn Trãi đã
phải chịu những oan khiên thảm khốc nhưng với những đóng góp và tinh thần thân
dân của mình ơng đã thực sự ghi được dấu ấn của mình trong q trình phát triển
văn hóa Việt Nam và có ảnh hưởng lớn đến các thế hệ sau này.
Tư tưởng cốt lõi và xuyên suốt cuộc đời hành động cũng như sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Trãi là u nước thương dân. Ơng ln giành cho dân một tình
yêu thương và quý trọng, đã nhìn thấy sức mạnh của nhân dân trong công cuộc xây

9


dựng và bào vệ đất nước. Có thể nói Nguyễn Trãi là người có cơng phát huy tư
tưởng u nước lên đỉnh cao nhất ở thế ký XV.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi gắn liền với tình u đất
nước nhân dân tha thiết. Ơng là người hùng của thời đại, là tiếng nói nhân văn, là
tinh hoa của dân tộc.
b. Tập thơ “ Quốc Âm Thi Tập”.

Ở thế kỷ XV, khi thơ Việt Nam tuyệt đại đa số là thơ chữ Hán, nó chủ yếu
được “ bứng trồng” từ thơ Trung Hoa thì lúc này Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác
phẩm được xem có vị trí vơ cùng quan trọng trong nền thơ ca tiếng Việt thời đó - “
Quốc Âm thi Tập”. Tập thơ được xem là bước ngoặt mới mở ra thời kỳ phát triển
cho thơ cổ điển Việt Nam.
Tập thơ chứa đựng một kho tàng từ ngữ phong phú, những câu thơ, những
cách diễn đạt làm giàu đẹp cho tiếng mẹ đẻ. Sau hơn một nghìn năm bị đơ hộ, rồi
tiếp đến bốn trăm năm độc lập, tiếng Việt – chữ Nôm vẫn chưa chiếm được vị trí
quan trọng trong văn chương. Và lần này, tiếng mẹ đẻ dung dị ấy đã được Nguyễn
Trãi chắt lọc thành thơ. Điều này chứng tỏ, hơn ai hết ơng có ý thức và tâm huyết
dung tiếng mẹ đẻ làm nơi gửi gắm lịng mình.
Hồn thơ trong “ Quóc Âm Thi Tập” có thể coi là một nét đẹp của hồn dân
tộc. Đề tài, nhân vật, cảnh vật trong tập thơ là những gì gần gũi trong cuộc sống
dân dã. Nguyễn Trãi làm nên một “Quốc Âm Thi Tập” đích thực là thơ Việt Nam,
mang hồn Việt Nam, cốt cách Việt nam.
Trong tổng số 254 bài thơ, phần lớn là thơ tâm sự, tỏ chí hướng, khó biết bài
nào sáng tác thời gian nào. Ơng thường ca tụng thú “ Thanh nhàn”, tự hào mình đã
“ đem công danh đổi lấy cần câu”, song ẩn sau đó là nỗi đau khơng có cơ hội giúp
nước. Thơ tả thiên nhiên của Nguyễn Trãi hợp với thú an nhàn, làm dịu bớt nỗi
đau, trở nên dịu dàng thanh thoát.
Thể thơ trong “ Quốc Âm Thi Tập” rất đặc biệt. Có bài thất ngơn bát cú, có
bài thất ngơn tứ tuyệt, nhiều bài giữa những câu 7 tiếng xen 1,2 câu 6 tiếng.
Có thể khẳng định, tập thơ với các vấn đề về ngôn ngữ, từ loại, thể thơ, tính
bác học và dân gian, phong cách thơ Nguyễn Trãi góp phần quan trọng vào sự phát
triển và q trình Việt hóa văn học dân tộc.
Tập thơ được chia làm 4 phần:
Phần “ vơ đề”có 192 bài.
Phần “ thời lệch mơn” có 21 bài.
Phần “ hoa mộc mơn” có 34 bài.
Phần “ cầm thú mơn” có 7 bài.

Tóm lại: “ Quốc Âm Thi Tập” là một trong những kiệt tác của Nguyễn Trãi,
tập thơ đã đem đến những giá trị độc đáo, mở ra một chương mới cho nền văn học
dân tộc. Tập thơ hiện lên với những bài thơ uyển chuyển, điêu luyện, ngôn ngữ thơ

10


trong sáng, giản dị, gần gũi với nhân dân lao động bình thường và ln nhận được
sự quan tâm của mọi thời đại.
c. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
“ Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa” ( Xuân Diệu ). Thơ
ca bao đời nay vẫn thế, nó được chắt lọc ra từ hiện thực cuộc sống, được tái hiện lại
qua sự rung động từ rái tim người nghệ sĩ, thơ Nguyễn Trãi cũng không nằm ngồi
quy luật đó.
“ Cảnh ngày hè ” ( Bảo kính cảnh giới số 43 ) được rút ra từ tập “ Quốc Âm
Thi Tập”, tập thơ được sáng tác khi nhà thơ về ở ẩn ở Côn Sơn. Một người hết lịng
vì dân, vì nước như ơng hẳn khi ở ẩn sẽ khơng khỏi chạnh lịng. Nhân dân, đất
nước ln là nỗi lo thường trực trong lịng Nguyễn Trãi. Bài thơ cịn thể hiện sâu
sắc tình u thiên nhiên tha thiết, sự giãi bày tâm sự u uẩn, tấm lịng u nước
thương dân, tư tưởng nhân nghĩa và chí khí nhân cách của người quân tử.
Đánh giá: Nhà văn nào, tác phẩm ấy. Tác phẩm văn học là thế giới nội tâm
của nhà văn, thể hiện tư tưởng, thái độ , khát vọng chân, thiện, mỹ của họ. Mỗi nhà
văn, nhà thơ đều sinh ra trong một hoàn cảnh gia đình, hồn cảnh xã hội nhất định.
Mơi trường ấy ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, và điều này
được phản ánh qua “ đứa con tinh thần” của họ ở một khía cạnh nào đó. Chính vì
vậy việc tìm hiểu hồn cảnh sáng tác tác phẩm là cần thiết.
Đối với Nguyễn Trãi, người có cống hiến cho đất nước cả về lich sử lẫn văn
chương điều này cịn có ý nghĩa hơn. Đây là một yếu tố không thể thiếu khi đọc
hiểu bài thơ Nơm “ Cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43).
d. Về bài thơ “ Cảnh ngày hè ” ( Bảo kính cảnh giới số 43 ).

* Bức tranh thiên nhiên.
Giáo viên định hướng học sinh đọc hiểu phần này qua hệ thống câu hỏi đã
nêu ở trên. Cách đặt câu hỏi từ dễ đến khó, từ cấp độ thấp đến cấp độ cao, từ câu
hỏi tái hiện đến câu hỏi vận dụng. Đối với phần này, giáo viên chú trọng và nhấn
mạnh các từ cổ” rồi”, “ tiễn” . Ngồi ra cịn chú giải sâu các từ “ ngày trường”, “
phun”, “ giương”…Nhằm giúp học sinh hiểu đằng sau bức tranh thiên nhiên là vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách Nguyễn Trãi.
Từ “ rồi”, là một từ cổ. “ Rồi” cũng giống “rỗi” đều được hiểu là thời gian
rỗi rãi. Tuy nhiên chữ “ rỗi” có vẻ hiện đại hơn so với từ “ rồi”. Hơn nữa âm điệu
từ từ “ rồi” tạo ra nhịp điệu cho câu thơ, chuyển tải được thông điệp của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ với tín hiệu đặc biệt: “ Rồi hóng mát thuở ngày
trường”. Chữ “ rồi” đứng đầu câu thơ tạo nên ý nghĩa nhấn mạnh thời gian rỗi rãi.
Ý nghĩa đó lại được bổ sung khắc đậm bởi ba chữ “ thuở ngày trường” ( đều là
những từ ngữ chỉ thời gian dài). Thêm vào đó nhịp ngắt 1/5 khiến cho câu thơ có
giọng điệu riêng. Tồn bộ câu thơ gợi lên ý nghĩa: Thời gian trôi đi quá chậm! Xét
về nghĩa tường minh, câu thơ diễn tả một trạng thái ung dung, thảnh thơi của
Nguyễn Trãi trong ngày hè như nhiều người đã cảm nhận. Nhưng xét về nghĩa hàm
11


ẩn câu thơ không đưa đến một cảm giác thú vị nào trong việc ngồi hóng mát. Cũng
như cách Nguyễn Trãi ca ngợi thú “ nhàn” trong bài “ Côn Sơn ca”: “ Dưới màu
xanh ngắt ta ngâm thơ nhàn”. Chữ “ nhàn”, “ rỗi” vẫn thường đi về trong thơ
Nguyễn Trãi, song có thể đó là phần nổi của tảng băng trơi, cịn phần chìm chính là
cái tâm lo đời, đau đời của Nguyễn Trãi. Ở ông, thân thể có thể nhàn, nhưng tâm
khơng bao giờ nhàn. Câu thơ : “ Rồi hóng mát thuở ngày trường” hé mở một nỗi
buồn bực, bức xúc trong lòng thi nhân.
Ba câu sau là những cảm nhận về thiên nhiên rất tinh tế của nhà thơ. Tác giả
đã sử dụng những động từ “ giương”, “ phun”, “ tiễn” để thể hiện sức sống mãnh
liệt của thiên nhiên. Tất cả như đang tỏa ra tràn đầy năng lượng.

Đối với từ “ tiễn”, đây là từ cổ được tác giả sử dụng trong câu thơ. SGK
những năm trước đây ghi là “ tịn”, “ tịn” có nghĩa là hết, ngược lại “ tiễn” có nghĩa
là tỏa ra, thơm ngát. Đặt trong chỉnh thể văn bản ý nghĩa từ “ tiễn” là phù hợp.
Những câu thơ có sự cộng hưởng, tương hợp giữa các yếu tố: “Trong khi thach lựu
ở hiên còn tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”
Ba câu thơ mang lại bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình
ảnh đặc trưng của khơng gian mùa hè. Trước hết đó là hịe bng sắc lục như một
chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một khơng gian xanh.
Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi ln có sức bao qt vừa gợi sức sống của
thiên nhiên “ đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khống trong chữ “ rợp”. Tầm
nhìn trải từ gần ra xa theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc
đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới
gợi hương thơm. Thiên nhiên ấy chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa, lúc
bừng bừng bừng phun trào.
Qua cách nhìn thiên nhiên, ta nhận rõ sự nhạy cảm, tinh tế đến mức tuyệt vời
trước vẻ đẹp thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Đúng như Trần Ngọc Vượng đã nói, đối
với Nguyễn Trãi: “ khi đối diện với cảnh vật Nguyễn Trãi có hai cách cảm nhận
chủ yếu, kéo nó vào với mình và hịa mình vào với nó”. Nếu khơng có tấm lòng
yêu thiên nhiên tha thiết, tâm hồn nhạy cảm, giao hịa cùng thiên nhiên làm sao có
được những ý thơ như vậy.
* Bức tranh cuộc sống ( 4 câu sau ).
Ở phần này giáo viên vẫn tiếp tục định hướng học sinh đọc hiều theo hệ
thống câu hỏi ở trên. Từ dễ đến khó, từ câu hỏi tái hiện đến câu hỏi vận dụng. Đặc
biệt ở phần này giáo viên chú ý chú giải, cắt nghĩa điển cố “ ngu cầm”. Sử dụng
điển cố là một trong những đặc điểm thơ Nguyễn trãi, ông thường sử dụng điển cố
để thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình.
Nếu bốn câu thơ trên là những cảm nhận về thiên nhiên thì bốn câu sau là
những cảm nhận hướng tới âm thanh của cuộc sống.
Ý thức trở về cội nguồn dân tộc, về với đời sống nhân dân vốn đã bắt nguồn
từ ngày vào đời, từ buổi ra đi tìm đường cứu nước giúp dân trong cuộc đời Nguyễn

12


Trãi. Bỗng nhiên ông như cất được gánh nặng “ ẩn uất thế sự” đang đè nặng trong
lịng, tâm trí bỗng trở nên thanh thoát và lai láng hồn thơ:
“ Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Một không gian đượm màu sắc dân dã, bình dị và bình yên, tâm hồn nhà thơ
lắng nghe những âm thanh quen thuộc hàng ngày của làng quê yên tĩnh. Giai điệu “
lao xao” của chợ cá đã đi vào thơ ca Việt Nam tạo cho bức tranh q đậm đà màu
sắc dân tộc, một khơng gian bình thường trong cuộc sống mà xôn xao trong cảm
xúc nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi đã hướng lịng mình về chợ cá làng ngư phủ
để thấy bản thân không cách xa với cuộc sống đời thường. Âm vang cuộc sống thực
ấy đã thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại cảm xúc xôn xao
trong một buổi chiều dễ gợi cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự
hòa điệu với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ - bóng tịch dương mang
đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Đến đây người đọc hiểu ra: cuộc sống của
Nguyễn Trãi không phải là cuộc sống của một ẩn sĩ lánh đời mà là cuộc sống của
một tâm hồn yêu đời tha thiết, đón nhận thưởng thức niềm vui cuộc sống thanh
bình để quên đi nỗi sầu muộn còn chất chứa. Điều này thật đáng quí và đáng trân
trọng.
Hai câu cuối bài thơ tác giả đã sử dụng điển cố “ ngu cầm”, thông thường thơ
ca cổ điển thường sử dụng “ dụng điển” làm cho câu thơ gọn gàng, biểu đạt kín đáo
suy nghĩ, khát vọng và lý tưởng của tác giả. Cảm quan của con người Trung Đại
quá khứ là tốt đẹp, do vậy điển cố có xu hướng trở về quá khứ mang tính lich sử.
Cơ sở để điển cố phát huy tác dụng là vừa liên hệ với hiện thực, vừa liên hệ với lịch
sử, thơng qua đó tác giả kín đáo bày tỏ thái độ hay tình cảm của mình..
Việc dùng “ điển tích” trong “ Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một thủ
pháp nghệ thuật. Bởi số lượng từ ít ỏi thì việc dùng điển cố khiến cho sự việc vốn
không thể được làm trở thành tất yếu.

“ Điển cố” được Nguyễn Trãi sử dụng thường được mang nét nghĩa tương
đồng, và có mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại tạo nên những liên tưởng sâu sắc.
Dùng điển cố tăng cho bài thơ một tầng nghĩa sâu kín hơn, thơng qua sự liên tưởng
chúng ta hiểu hơn khát vọng của tác giả gửi gắm kín đáo, kiệm lời, nói được nhiều
điều khó nói.
Trở lại câu thơ: “ Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng” . Theo thần thoại Trung
Quốc, vua Thuấn làm chiếc đàn năm dây, ca bài “ nam phong”. Trong khúc hát có
câu: “ Gió nam hịa ấm có thể giải được ốn hận của dân, gió nam hợp thời có thể
làm cho dân ta thêm nhiều của cải”. Ơng ước mơ có chiếc đàn của vua Thuấn để
biến tâm nguyện lớn nhất của đời mình thành hiện thưc, để “ cho trong thơn cùng
xóm vắng khơng có lời hờn giận oán sầu”.
Câu kết bài thơ đọng lại sáu chữ, đây là điều tác giả mong muốn và tâm niệm
suốt đời. Thì ra trong cảnh “ nhàn nhã”, Nguyễn Trãi trước sau vẫn là: “ Bui một
13


tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Thêm một lần nữa người
đọc hiểu chữ “ rồi” ở đầu bài thơ, đây chỉ là cách nói, thực chất tâm hồn Nguyễn
Trãi không bao giờ ngơi nghỉ. Thân nhàn, nhưng tâm chẳng nhàn. Khát vọng
thường trực của ông là được đem tài năng, sức lực của mình cống hiến cho dân cho
nước.
* Một số nét về mặt nghệ thuật.
Đối với phần này, giáo viên vẫn bám vào hệ thống câu hỏi đã nêu ở trên, đặc
biệt chú thích cho học sinh hiểu hơn về thi pháp thơ Trung đại, thể thơ đường luật,
từ đó học sinh thấy được nét độc đáo, sang tạo trong tác phẩm.
VHTĐ Việt Nam được nhắc đến với nhiều thể loại, một trong những thể loại
chính đó là thơ đường luật. Thơ đường luật có kết cấu chặt chẽ, bài thơ gồm 8 câu,
hoặc 4 câu, thất ngôn hay ngũ ngôn. Là một chỉnh thể có cấu trúc riêng, kết cấu
theo hai chiều ngang dọc liên kết với nhau thành một chỉnh thể hài hòa cân đối. Kết
cấu theo chiều dọc bằng bố cục, niêm, đối, vần. Kết cấu theo chiều ngang băng

thanh bằng trắc.
Về tư duy trong thơ Trung đại thường theo một kiểu mẫu có sẵn thành cơng
thức…Sáng tác của các nhà thơ Trung Đại không thể thiếu thiên nhiên, thiên nhiên
làm nên diện mạo, linh hồn của tác phẩm, là đối tượng để nhà thơ gửi gắm cảm
xúc, tâm trạng. Đặc biệt thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho vẻ đẹp con người.
Đối với thơ Nguyễn Trãi, đặc biệt bài thơ “ Cảnh ngày hè ” (Bảo kính cảnh
giới số 43 ) ơng đã có những phá cách so với thơ truyền thống. Tác giả vận dụng
một cách sáng tạo thể thơ đường luật với sự đan xen giữa câu 6 chữ và câu 7 chữ,
tạo điểm lắng trong cảm xúc, nhấn mạnh được tình cảm của nhà thơ.
Ngơn ngữ thơ giản dị, thuần việt, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ, nhưng
giàu cảm xúc và sức gợi.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình, đặc trưng của văn học trung đại, miêu tả thiên
nhiên đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách
kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lịng của mình về con người, về cuộc đời.
* Củng cố bài học.
- Sau mỗi tiết dạy kiểm tra đánh giá nhận thức của HS theo hai hướng trắc
nghiệm và tự luận.
+ Phần kiểm tra trắc nghiệm thường chọn các tình huống đúng/sai (tình
huống đưa ra ngắn gọn, khoa học, đúng trọng tâm kiến thức) hoặc có thể dùng mũi
tên nối cột mục tương xứng phần kiến thức cho sẵn, hoặc dùng các hình ảnh, tình
huống để điền khuyết...
+ Phần tự luận là những câu hỏi tư duy phù hợp lượng thời gian kiểu bài
cho phép trong một tiết học (được trình bày cảm nhận bằng một đoạn văn ngắn)
- Giới thiệu tài liệu tham khảo.
- Hướng dẫn làm bài tập ở nhà.
+ Bài tập luyện tập tổng hợp.
14


+ Bài tập tự nghiên cứu, nâng cao…

+ Hoạt động ngoài giờ học
Ngoài việc đọc hiểu văn bản trên lớp, GV cần có kế hoạch hoạt động ngoại
khóa văn học. Hoạt động này cần sự tham gia của nhiều bộ phận trong nhà trường
như GV bộ môn,
GV chủ nhiệm, thư viện, Đoàn thanh niên,…
- Kế hoạch lâu dài, thường xuyên. Hoạt động ngồi giờ học có thể sử dụng
các hình thức như:
+ Hội thảo khoa học về các tác giả: (cuộc đời, thân thế và sự nghiệp)
+Thuyết trình, hùng biện về tác phẩm
+ HS viết bài thu hoạch…
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân đồng nghiệp và nhà trường.
GV xác định kiến thức trọng tâm của bài dạy, hướng khai thác văn bản như
trên cũng có nghĩa là đã tìm cho mình một phương pháp tiếp cận với tác phẩm hợp lí.
Từ đó thiết kế được bài giảng một cách mạch lạc, trôi chảy, linh hoạt.
Với hướng đọc hiểu bằng phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu bài thơ “
Cảnh ngày hè ’’ ( Bảo kính cảnh giới số 43 ) như trên, tơi đã có những kết quả khả
quan trong giảng dạy. HS có thể đi từ cảm đến hiểu và cao hơn nữa là có thể tự
nhận xét, đánh giá về tác phẩm một cách toàn diện cả về phương diện nội dung và
nghệ thuật. Tạo được hứng thú mạnh mẽ cho HS trong việc đọc - hiểu văn bản
VHTĐ nói chung và thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng.
 4.1Đánh giá kết quả tham khảo ý kiến của HS sau giờ học thực nghiệm:
Khảo sát 41 HS qua giờ dạy, kết quả là:
- Việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Đa số HS thích chuẩn bị bài bằng
phiếu học tập hơn là cách soạn bài truyền thống là ghi ra vở bài soạn.
- Việc phát biểu ý kiến xây dựng bài: Đa số HS thích trao đổi, thảo luận
nhóm với lí do dễ thổ lộ với bạn cùng lứa những suy nghĩ của mình và của bạn
“vừa tầm” với nhau. HS thích được GV động viên và tơn trọng ý kiến cá nhân
-Về mức độ tiếp thu bài học: Phương pháp cắt nghĩa, chú giải sâu được sử
dụng trong bài học đã thực sự lôi cuốn được học sinh trong quá trình đọc hiểu. Các

em nhớ bài lâu và hiểu bài sâu.
4.2 Đánh giá kết quả bài kiểm tra vận dụng:
Lớp
10b1
10b3

TS HS

Điểm
0-1-2

Điểm
3-4

41
0
38
0
4.3 Bài học kinh nghiệm.
+ Về phía HS:

Điểm
5-6
0 23
0 25

Điểm
7-8
17
13


Điểm
9-10

TB trở lên
1

41
38

15


- Chuẩn bị chu đáo những yêu cầu hướng dẫn của GV trong phần củng cố bài
học của tiết học trước.
- HS phải thực sự say mê, yêu thích VHTĐ, thơ văn Nguyễn Trãi. Hình
thành ý thức đọc trước tác phẩm, tự tìm hiểu hệ thống câu hỏi , sưu tầm- mở rộng
kiến thức
- Mỗi HS ln có ý thức tự rèn luyện các kỹ năng phân tích, tìm hiểu các
yếu tố ngôn ngữ, Thi pháp văn học Trung Đại Việt Nam.
+Về phía GV:
- GV phải thực sự là người yêu nghề, yêu văn chương, có kiến thức sâu sắc
về lịch sử, văn hoá, thời đại đã sinh ra tác giả. Hiểu sâu sắc về cuộc đời, con người
tư tưởng nghệ thuật của mỗi nhà văn, nhà thơ mà mình trực tiếp giảng dạy.
- Nắm chắc hệ thống phương pháp dạy-học tác phẩm văn chương theo loại
thể, đặc biệt là các tác phẩm VHTĐ Việt Nam.
- Vận dụng các phương pháp dạy học đúng đặc trưng bộ môn, sử dụng triệt
để các phương tiện dạy học.
- Đầu tư ngiên cứu, chuẩn bị các phương tiện, đồ dùng dạy học; thiết kế bài
giảng sinh động.

- Chủ động, tự tin, tâm thế vững vàng khi đứng lớp.
- Tuỳ theo tình hình thực tế, trình độ và khả năng tiếp thu của HS từng lớp
mà GV vận dụng các phương pháp dạy cho phù hợp.
- Kịp thời khen ngợi, khuyến khích các em làm (gần) đúng.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
“ Tiếp nhận văn học là q trình người đọc hịa mình vào tác phẩm, rung
động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng
nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ
sáng tạo” ( SGK ngữ văn 12). Trong cuộc đời mỗi giáo viên dạy ngữ văn chúng ta,
mỗi người luôn trăn trở về phương pháp tiếp nhận mỗi tác phẩm nghệ thuật. Và
điều thành cơng của mỗi thầy cơ giáo đó chính là chuyển tải được những cảm nhận
của mình đến học sinh, định hướng cho các em chủ động trong tiếp nhận, giúp các
em khơng những hiểu, mà cịn u hơn những tác phẩm nghệ thuật.
Bài thơ “ Cảnh ngày hè” ( Bảo kính cảnh giới số 43) đã thể hiện được vẻ đẹp
tâm hồn, trí tuệ của đại thi hào Nguyễn Trãi. Tác phẩm mãi là “ cái đẹp” để mọi
thời đại chiêm ngưỡng và chinh phục.
Hành trình đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học môn Ngữ văn sẽ
không bao giờ dừng lại. Mỗi người GV phải luôn biết tự làm mới mình trong
những tác phẩm cụ thể để đáp ứng được yêu cầu bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách
HS của bộ mơn mình.
2. Kiến nghị:

16


Vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy mơn Ngữ văn ở bậc
THPT cịn gặp nhiều khó khăn, trở ngại do cả yếu tố chủ quan và khách quan.
Mong được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, sát sao hơn nữa BGĐ Trung tâm,
của Sở Giáo dục và Đào tạo.

Trên đây là một số vấn đề có tính thực tiễn được rút ra trong q trình
dạy học. Trong q trình thực hiện khơng thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu
sót. Rất mong được sự trao đổi và giúp đỡ của q đồng nghiệp để tơi có thể làm
tốt hơn cơng việc của mình cũng như để đề tài này hồn thiện hơn. Tơi xin chân
thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 25 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Sáu

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK ngữ văn 10 tập 1 – NXB GD năm 2010.
2. SGV ngữ văn 10 tập 1 – NXB GD năm 2010.
3. Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy
học hiện nay – Trần Đình Sử. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên – HN 2006.
4. Đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam. Lê Trí Viễn NXB KHXH 1996.
5. Thi pháp thơ Nơm Nguyễn Trãi – Hồng Thị Thủy, Đại học sư phạm Thành
Phố Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Thanh Hùng, đọc và tiếp nhận văn chương, nxb GD năm 2002.
7. Nguyễn Thị Thanh Hương, dạy học văn ở trường Phổ Thông. Nxb ĐHQG
HN 2001.
8. Nguyễn Thị thanh Hương: Dạy học văn ở trường PT, nxb ĐHQG HN 2001.
9. SGK ngữ văn lớp 12 tập 2 – NXB GD năm 2001. Bài “ Giá trị văn học và

tiếp nhận văn học” trang 184.

18



×