Hóa thạch sống
Hóa thạch sống là một thuật ngữ không chính
thức để chỉ bất kỳ loài hoặc nhánh sinh vật nào
còn sinh tồn nhưng dường như là giống như các
loài chỉ được biết đến từ các hóa thạch và không
có bất kỳ họ hàng còn sinh tồn nào là gần gũi.
Tất cả các loài này đã thoát khỏi các sự kiện
tuyệt chủng chính và nói chung duy trì một sự
đa dạng phân loại thấp. Những loài nào phân tỏa
thành công (tạo thành nhiều loài mới sau khi
thắt cổ chai di truyền có thể xảy ra) đã trở thành
quá thành công để có thể được coi là "hóa thạch
sống". Tuy nhiên, thuật ngữ này thường bị diễn
giải sai.
Mục lục
1 Tổng quan
2 Lịch sử
o 2.1 Định nghĩa khác
3 Ví dụ
o 3.1 Thực vật
o 3.2 Nấm
o 3.3 Động vật
4 Tham khảo
5 Liên kết ngoài
Tổng quan
Tồn tại khác biệt tinh tế giữa một "hóa thạch
sống" và một "đơn vị phân loại Lazarus". Một
đơn vị phân loại Lazarus là một đơn vị phân loại
(hoặc là một loài hoặc là một nhóm loài) bỗng
nhiên tái xuất hiện, hoặc là trong hồ sơ hóa
thạch hoặc là trong tự nhiên (nghĩa là giống như
khi nói hóa thạch "đã trở lại cuộc sống một lần
nữa"), trong khi hóa thạch sống là loài mà
dường như đã không thay đổi gì trong trong suốt
cả chu trình thời gian sinh tồn của nó (nghĩa là
giống như khi nói hóa thạch luôn luôn tồn tại).
Thời gian luân chuyển loài trung bình (khoảng
thời gian mà loài tồn tại trước khi nó bị thay
thế) dao động mạnh giữa các ngành, nhưng
trung bình khoảng 2-3 triệu năm. Vì thế, các
loài còn sinh tồn mà trước đó được coi là tuyệt
chủng (chẳng hạn như cá vây tay (Latimeria
chalumnae)) không phải là hóa thạch sống, đơn
giản là do định nghĩa như thế (mặc dù nó vẫn có
thể là hóa thạch sống do nó đã không thay đổi
nhiều), nó là các loài Lazarus. Các loài cá vây
tay biến mất từ hồ sơ hóa thạch vào khoảng 80
triệu năm trước (Thượng Phấn trắng). Tuy
nhiên, nếu các loài Latimeria hóa thạch khác
trong đại Tân sinh được tìm thấy thì cá vây tay
lại có thể được coi là hóa thạch sống thật sự, do
các hóa thạch đó có thể sẽ điền đầy vào lỗ hổng
trong đó các loài là "chết". Tất nhiên, các loài
không xuất hiện bất chợt từ không khí, vì thế
mọi loài Lazarus còn sinh tồn (ngoại trừ các loài
sách đỏ đang biết mất và đang tái xuất hiện) dù
sao cũng được coi là hóa thạch sống, nếu chúng
có thể được chứng minh là không phải các đơn
vị phân loại Elvis.
Một vài hóa thạch sống là các loài chỉ từng được
biết đến từ các hóa thạch trước khi các đại diện
còn sinh tồn được phát hiện. Các ví dụ nổi tiếng
nhất là các loài cá dạng cá vây tay Latimeria
chalumnae và Latimeria menadoensis cũng như
thủy sam (Metasequoia glyptostroboides), được
phát hiện trong một thung lũng hoang vắng tại
Trung Quốc. Các loài khác còn có tôm hùm
Glypheoidea, ong bắp cày Mymarommatidae,
bọ cánh cứng Jurodidae, tất cả chúng đều được
mô tả lần đầu tiên bằng các hóa thạch, nhưng
sau đó mới tìm thấy là còn sinh tồn (tương ứng
là 2 loài, 10 loài và 1 loài). Các hóa thạch sống
khác là các loài còn sinh tồn đơn độc mà không
có các họ hàng còn sinh tồn gần gũi nào, nhưng
là loài sống sót của nhóm lớn và phổ biến rộng
trong hồ sơ hóa thạch, có lẽ ví dụ được biết đến
nhiều nhất là bạch quả (Ginkgo biloba), mặc dù
cũng có những hóa thạch sống khác, chẳng hạn
như ong gỗ tuyết tùng (Syntexis libocedrii).
Lưu ý rằng do hóa thạch sống là đại diện còn
sống sót của một dòng dõi cổ xưa nên không
nhất thiết phải đòi hỏi rằng chúng phải giữ được
tất cả các đặc trưng "nguyên thủy" (các đặc
trưng chung có trước khi có tổ tiên chung gần
nhất của nhóm loài) của dòng dõi đó; nghĩa là
chúng có thể có một hay nhiều đặc trưng bắt
nguồn từ đó (các đặc trưng chỉ có duy nhất của
nhánh này, không có ở tổ tiên chung gần nhất
của nhóm loài), đã tiến hóa kể từ thời gian có sự
phân kỳ dòng dõi của chúng. Tất cả những gì
cần đòi hỏi là chúng có thể được gán một cách
mạch lạc, rõ ràng vào một dòng dõi tuyệt chủng
(hiếm khi chúng là đồng nhất với các dạng hóa
thạch). Xem ví dụ về các loài chim đậu lưng bò
(họ Buphagidae) có các đặc trưng duy nhất chỉ
có ở nhánh này, chúng không là hóa thạch sống
"thật sự" (do vẫn chưa thấy có các hóa thạch)
nhưng dường như là những loài sống sót duy
nhất của dòng dõi cổ xưa có họ hàng với các
loài chim sáo (Sturnidae) và chim nhại
(Mimidae)
[1]
.
Lưu ý tới sự tương tự giữa lá của một loài
Ginkgo hóa thạch 170 triệu năm tuổi ở bên trái
và lá của bạch quả còn sinh tồn ở bên phải.
Lịch sử
Thuật ngữ này lần đầu tiên được Charles
Darwin đưa ra trong cuốn The Origin of Species
(Nguồn gốc muôn loài) của ông
[2]
, khi đề cập tới
Ornithorhynchus (thú mỏ vịt) và Lepidosiren
(cá phổi Nam Mỹ):
“ ... All fresh-water basins, taken together, make
a small area compared with that of the sea or of
the land; and, consequently, the competition
between fresh-water productions will have been
less severe than elsewhere; new forms will have
been more slowly formed, and old forms more
slowly exterminated. And it is in fresh water
that we find seven genera of Ganoid fishes,
remnants of a once preponderant order: and in
fresh water we find some of the most anomalous
forms now known in the world, as the
Ornithorhynchus and Lepidosiren, which, like
fossils, connect to a certain extent orders now
widely separated in the natural scale. These
anomalous forms may almost be called living
fossils; they have endured to the present day,
from having inhabited a confined area, and from
having thus been exposed to less severe
competition. ”
— Charles Darwin , The Origin of Species, p.
49
Tạm dịch
“ ... Tất cả các lưu vực nước ngọt, gộp lại cùng
nhau, chỉ chiếm một diện tích nhỏ so với diện
tích của biển hay đất liền; và, bởi thế, sự cạnh
tranh giữa các sản sinh nước ngọt sẽ ít mãnh liệt
hơn so với ở những nơi khác; các dạng mới sẽ
được hình thành chậm hơn, và các dạng cũ cũng
bị tiêu diệt chậm hơn. Và trong nước ngọt chúng
tôi tìm thấy bảy chi cá vảy láng, các sinh vật còn
sót lại của bộ đã từng chiếm ưu thế một thời: và
trong nước ngọt chúng tôi tìm thấy một số dạng
dị thường nhất hiện nay đã được biết đến trên
thế giới, như Ornithorhynchus và Lepidosiren,
chúng, giống như các hóa thạch, chắp nối với
các bộ có quy mô nhất định hiện nay đã tách
biệt lớn trong thang độ tự nhiên. Các dạng dị
thường này gần như có thể được gọi là các hóa
thạch sống; chúng đã tồn tại cho tới ngày nay, từ
việc có môi trường sinh sống bị hạn chế, và từ
việc có điều đó nên đã trải qua sự cạnh tranh ít
khốc liệt hơn. ”
— Charles Darwin , Nguồn gốc muôn loài,
trang 49
Định nghĩa khác
Có nhiều định nghĩa khác về hóa thạch sống
(nhưng mơ hồ):