Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận văn vai trò của công an tỉnh an giang trong việc thực hiện chính sách tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.01 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRƯỜNG HẬN

VAI TRỊ CỦA CƠNG AN TỈNH AN GIANG
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRƯỜNG HẬN

VAI TRỊ CỦA CƠNG AN TỈNH AN GIANG
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒNG VĂN CHUNG

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội lồi người, tơn giáo xuất hiện từ rất sớm. Ngày nay, ở đâu có con
người sinh sống, từ những vùng nông thôn kém phát triển đến những đô thị văn
minh, đều có sự hiện diện của tơn giáo. Tơn giáo đã và đang có sự ảnh hưởng rất
lớn đối với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, hiện diện trong tất cả các
lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Tôn giáo là một loại hình niềm tin và thực hành hướng tới cái siêu nhiên, vừa
mang tính vùng miền, tính khu vực, vừa mang tính quốc gia và tính tồn cầu. Trong
q trình tồn tại và phát triển của mình, tơn giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống chính trị qua đó thể hiện tầm quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của
mỗi quốc gia nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Đặc biệt, trong tình hình
thế giới và khu vực hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược
“diễn biến hịa bình” mà một trong những mũi nhọn là sử dụng tôn giáo để can thiệp
vào công việc nội bộ của các quốc gia. Do tính phức tạp và nhạy cảm của vấn đề
tôn giáo từ trước tới nay hầu hết các quốc gia đều hết sức quan tâm đến chiến lược
xây dựng và thực hiện chính sách đối với tơn giáo.
Việt Nam, là một quốc gia đa tôn giáo. Ở đây, có một số lượng người đáng kể
theo tơn giáo, ngồi ra số người vẫn giữ những tín ngưỡng dân gian, truyền thống
hoặc những hình thức tín ngưỡng ngun thủy cũng chiếm một số lượng tương đối
lớn. Các tôn giáo ở Việt Nam được hình thành và phát triển rất phong phú, đa dạng
và có những nét đặc thù riêng. Trong thực tiễn, các tơn giáo ngày càng có những
hoạt động dấn thân vào đời sống thế tục, đồng thời mở rộng các quan hệ quốc tế.
Chưa bao giờ các vấn đề như quyền và đảm bảo quyền tự do tôn giáo, thực thi chính
sách và pháp luật về tơn giáo lại được nhà nước và các tôn giáo quan tâm nhiều như
hiện nay.
Việt Nam đang tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở
trên tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Trong xu thế mở cửa
hội nhập quốc tế, sự đảm bảo tốt hơn về đảm bảo quyền và thực thi quyền tự do tôn
giáo đi cùng với hoạt động tơn giáo ngày càng phát triển và theo đó tính đa dạng,


1


phức tạp ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, việc thực hiện chính sách trên lĩnh vực
tơn giáo ở nước ta hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết bởi nó gắn
liền với tiến trình xây dựng xã hội hài hòa, an ninh được đảm bảo và đất nước có sự
phát triển bền vững. Việc thực hiện tốt chính sách tơn giáo cũng giúp nâng cao nhận
thức chung về vai trò và ý nghĩa của tôn giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân
và trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính sách tơn giáo nằm trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà Nước ta.
Việc tơn trọng tín ngưỡng, đoàn kết lương-giáo, đoàn kết toàn dân là trọng tâm của
chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam từ trước đến nay. Chính sách tơn giáo của
Đảng, Nhà nước ta đã đi vào và phát huy hiệu quả cao trong đời sống xã hội, nhờ
nhiều điều kiện khác nhau, trong đó có sự thể chế hố đường lối chính sách tôn giáo
của Đảng cộng sản Việt Nam một cách đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn cịn có khoảng
cách giữa chính sách, pháp luật về tôn giáo và việc thực thi, triển khai các chính
sách, pháp luật ấy một cách đồng bộ, nhất quán giữa trung ương và các địa phương.
Do đó, việc nghiên cứu tại các địa phương hay trường hợp cụ thể sẽ giúp tìm ra
những giải pháp hiệu quả để thu hẹp khoảng cách này.
Có thể nói An Giang là tỉnh đứng đầu vùng đồng bằng sông Cửu Long về sự đa
dạng tơn giáo. Nơi đây có sự hiện diện của hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn
của nhân loại, đồng thời có sự hiện diện của các cộng đồng tôn giáo nội sinh và sự
xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới. Ở vùng đất này, có số đơng đồng bào theo
các tơn giáo khác nhau đồng thời kể từ Đổi mới các hoạt động của tôn giáo được
khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tơn giáo ngày càng tăng. Hiện nay,
ngồi xu hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc, thuần tuý tơn giáo, tn thủ Hiến
pháp, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn tỉnh An Giang đã xuất hiện
những hiện tượng hoạt động tơn giáo khơng bình thường, vi phạm một số quy định
của Nhà nước về hoạt động tơn giáo. Một số “điểm nóng” về tơn giáo có dấu hiệu

hình thành nhưng chưa nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan và thỏa đáng.
Do đó hiện thực của đời sống tôn giáo nơi đây đặt ra những thử thách thực sự đối
với công tác quản lý nhà nước (QLNN) về hoạt động tôn giáo. Nghiên cứu chuyên

2


sâu có thể làm rõ những thử thách và nguyên nhân chủ quan và khách quan cho
những thử thách đó.
Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách tơn giáo ở An Giang đã có
nhiều tiến bộ và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Các tôn giáo đi vào hoạt
động ổn định, ngày càng mở mang và phát triển quan hệ ngày càng gắn bó với
chính quyền. Nhưng bên cạnh đó cũng cịn một số tồn tại, hạn chế trong thực thi
chính sách về tơn giáo của các cơ quan hữu trách làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
cơng tác này. Việc nghiên cứu để hệ thống hóa những hạn chế có thể giúp chỉ ra
cách thức thực tiễn làm gia tăng hiệu quả công tác thực hiện chính sách tơn giáo.
Cơng an tỉnh An Giang là lực lượng được giao nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc
gia (ANQG) và giữ gìn trật tự an tồn xã hội (TTATXH) trên địa bàn tỉnh An
Giang, trong đó có việc thực hiện chính sách tơn giáo. Cụ thể, lực lượng Cơng an
với vai trị nịng cốt trong qn triệt đường lối, chủ trương, giải pháp tăng cường
đảm bảo an ninh tơn giáo; thường xun nắm tình hình, chủ động phối hợp tham
mưu Đảng, Nhà nước, đề xuất cấp ủy và chính quyền các cấp nhiều chủ trương, giải
pháp tăng cường đảm bảo an ninh trong tôn giáo; phối hợp chặt chẽ các cơ quan,
ban ngành trong việc thực hiện chính sách tơn giáo, góp phần đảm bảo an ninh, trật
tự đối với đời sống tôn giáo tại địa phương; đồng thời lực lượng Cơng an có vai trị
quan trọng trong đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, phản động
lợi dụng vấn đề tôn giáo kích động gây chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, gây rối
trật tự xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên
cứu nào làm rõ vai trị của Cơng an tỉnh An Giang trong việc thực hiện chính sách
về tơn giáo cũng như chỉ ra những đóng góp của lực lượng này vào cơng tác quản lý

hoạt động tơn giáo của chính quyền địa phương nói chung. Việc nghiên cứu theo
hướng này sẽ giúp nhận diện vị trí, vai trị, chức năng và đóng góp cụ thể của lực
lượng cơng an trong nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống chính trị về cơng tác tơn giáo.
Từ tình hình và tính cấp thiết đã trình bày ở trên, học viên chọn thực hiện đề tài
“Vai trị của Cơng an tỉnh An Giang trong việc thực hiện chính sách tơn giáo”.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện chính sách tơn giáo là một trong những u cầu của sự nghiệp Đổi
mới của Đảng và nhà nước. Từ khi có Nghị quyết 24-NQ/TW (năm 1990) của Bộ
Chính trị, việc nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương, chính sách đối với tơn giáo
ngày càng được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Nhiều cơng trình nghiên cứu
đã chỉ ra được những thành tựu đáng ghi nhận, những vấn đề bất cập cũng như
những ưu-khuyết điểm của thực hiện chính sách về tơn giáo. Trong các cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể chia ra ba nhóm chủ đề chính như sau:
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về chính sách của nhà nước đối với tơn
giáo:
Một trong những cơng trình sớm có thảo luận đến chính sách của nhà nước với
tơn giáo là Lí luận về tơn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, năm 2003 của Đặng Nghiêm Vạn. Tại cơng trình này, bên cạnh
trình bày những vấn đề lý luận về tơn giáo, chỉ ra sự khác biệt giữa tín ngưỡng và
tơn giáo, đưa ra định nghĩa của riêng mình về tơn giáo, tác giả bàn về “chính sách
tơn giáo” và “chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Tuy nhiên, cơng trình này mới
đề cập những nét chung nhất về chính sách, luật pháp về tơn giáo và giới hạn vấn đề
ở những năm cuối thế kỷ XX.
Cơng trình Lí luận về Tơn giáo và Chính sách Tơn giáo ở Việt Nam, do Nguyễn
Đức Lữ chủ biên (2007, Nxb Tôn giáo, Hà Nội) đã khái quát về quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo; tình hình tơn

giáo trên thế giới và một số đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam, khái quát về một số tôn
giáo lớn ở Việt Nam. Trong cơng trình này đáng chú ý là bài số 10 về chính sách và
việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã nêu
những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta về tôn giáo là dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, tư tưởng nhất quán và
xuyên suốt là tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, đồn kết tơn giáo, hịa
hợp dân tộc, cảnh giác chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách
mạng. Chính sách của Nhà nước đối với tơn giáo được chỉ ra gồm sáu nguyên tắc
cơ bản từ việc tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, đồn kết tơn giáo, hoạt động của

4


cá nhân, tổ chức tôn giáo phải tuân thủ pháp luật, nhà nước đảm bảo các hoạt động
tơn giáo ích nước lợi dân, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tôn giáo gây ảnh
hưởng đến quốc gia, dân tộc và trách nhiệm vận động quần chúng thực hiện đúng
đắn chính sách tơn giáo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Tác giả cũng đã nêu ra bảy nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong tình hình
hiện nay, đồng thời cũng đã nêu một số chính sách cụ thể đối với tín đồ, chức sắc
các tôn giáo, tổ chức tôn giáo, cơ sở hoạt động kinh tế, xã hội từ thiện của tôn giáo
và việc quan hệ quốc tế của tôn giáo. Trên cơ sở đó, bài viết đã đánh giá những
thành tựu, hạn chế và đưa một số phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.
Đáng chú ý từ năm 2000, Ban Tôn giáo Chính phủ đã bắt đầu quan tâm đến
việc xuất bản các văn bản pháp quy cơ bản về tôn giáo như cuốn Các văn bản pháp
luật quan hệ đến tín ngưỡng, tơn giáo của Nhà xuất bản Tơn giáo năm 2000, 2001.
Năm 2009, tác giả Nguyễn Đức Lữ đã cho ra mắt cuốn Tơn giáo - Quan điểm, chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, (2009, Nxb Chính
trị - Hành chính, Hà Nội). Tác giả đã đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn cũng như sự
phát triển của hệ thống quan điểm, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt

Nam từ năm 1930 đến nay, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, đáng chú ý tại chương
4 tác giả đã bàn đến “quản lí Nhà nước đối với tôn giáo” của Nhà nước Việt Nam
hiện nay. Tác giả đã khái quát quản lí Nhà nước đối với tơn giáo là q trình dùng
quyền lực của các cơ quan nhà nước để tác động, điều chỉnh quy trình, hành vi hoạt
động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo phù hợp với pháp luật và mục tiêu quản
lí. Quan điểm này khá gần với những lý luận hiện này về QLNN đối với hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam. Tương đồng với cách nhìn nhận trên, Nguyễn Hồng Dương
trong cơng trình Quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam về tôn
giáo (2015, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội), đã đưa ra hệ thống quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo các giai đoạn 1930 - 1954, 1954 1975, 1975 -1990 và 1990 đến nay, ở từng thời kỳ tác giả nêu bối cảnh lịch sử;
những quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tơn giáo ở từng thời kỳ và
đáng chú ý tại chương 5 tác giả nêu lên những đặc điểm, tình hình tơn giáo nổi bật

5


trong thời kỳ đổi mới ở nước ta từ đó nhận định những vấn đề đặt ra cho quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo. Tài liệu này đã hệ thống hóa
các chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo trong suốt q trình từ
1930 đến nay, từ đó giúp ta có cái nhìn xun suốt và liên tục chính sách tơn giáo
của Việt Nam.
Trong cơng trình có tên Vấn đề tơn giáo trong cách mạng Việt Nam: Lý luận và
thực tiễn, xuất bản năm 2005 tại Nxb Chính trị Quốc gia, tác giả Đỗ Quang Hưng
phân tích và làm rõ sự chuyển biến nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề tôn giáo. Tác giả cũng khái lược quá trình phát triển của các quan điểm và đường
lối tơn giáo của Đảng. Nghiên cứu này cho thấy chính sách về tôn giáo hết sức được
Đảng và nhà nước ta coi trọng. Những tiến trình của chính sách về tơn giáo phản
ánh sự điều chỉnh để phù hợp với các nhiệm vụ cách mạng và với quá trình xây
dựng đất nước. Tác giả Đỗ Quang Hưng cũng xuất bản hai cơng trình đáng chú ý
khác cùng trong năm 2014 về chính sách tơn giáo ở Việt Nam là Nhà nước, Tơn

giáo, Luật pháp (2014, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội) và Chính sách tơn giáo và
Nhà nước pháp quyền (2014, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội). Trong các cơng
trình này, tác giả phân tích vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam trong liên hệ với biến
động của đời sống tơn giáo và ủng hộ mơ hình nhà nước pháp quyền về tôn giáo.
Tác giả Đỗ Quang Hưng cũng là người từ rất sớm bàn đến khái niệm chính sách
cơng khi bàn đến việc xây dựng chính sách về tôn giáo trong nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam. Cùng theo chủ đề này, Nguyễn Hồng Dương trong cơng trình
Tiếp tục đổi mới chính sách về tơn giáo ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý
luận cơ bản (Nxb. Văn hóa Thơng tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2014) tìm hiểu tiến
trình nhận thức, hình thành quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề
tôn giáo và quyền tự do tôn giáo. Đáng chú ý, tác giả nhận định rằng từ đề cao tôn
trọng quyền tự do tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã có những "đột phá" trong tuyên
bố về quan điểm và xây dựng cũng như ban hành chính sách về tơn giáo, tín
ngưỡng.
Nguyễn Thanh Xn là một tác giả có nhiều nghiên cứu về chính sách và thực
thi chính sách về tơn giáo ở Việt Nam. Năm 2020, tác giả đã tái bản có bổ sung
cơng trình Tơn giáo và chính sách tơn giáo ở Việt Nam (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội).

6


Phần hai của cơng trình này tập trung vào trình bày các quan điểm, tư tưởng có ảnh
hưởng lớn đến việc xây dựng chính sách với tơn giáo, hệ thống hóa các chính sách
cụ thể đồng thời phân tích bộ máy tổ chức và đánh giá về đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo qua các thời kỳ. Công trình do đó cung cấp một lịch sử cũng như bức
tranh rộng lớn về chính sách và thực thi chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam giai
đoạn hiện đại.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về thực hiện chính sách tơn giáo:
Một số tác giả đã nghiên cứu về thực tiễn thi hành chính sách và luật pháp về
tôn giáo ở Việt Nam, bắt đầu từ việc Ban Tơn giáo Chính phủ cho xuất bản đều đặn

hơn những văn bản của Đảng và Nhà nước như cuốn Văn bản của Đảng và Nhà
nước về tín ngưỡng, tơn giáo của Nhà xuất bản Tôn giáo từ năm 2012.
Những năm gần đây, một số ban ngành cũng quan tâm nhiều hơn đến phổ biến
chính sách về tơn giáo. Cuốn sách đầu tiên của Bộ Công an (Bộ Nội vụ) xuất bản là
cuốn năm 1996 có tiêu đề Về tơn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn
giáo (lưu hành nội bộ). Nhà xuất bản Công an Nhân dân sau đó cũng đã có một số
cuốn sách Âm mưu, ý đồ chiến lược các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam - giải pháp phòng chống (2006) tài liệu đã làm sáng tỏ
thêm quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng về tơn giáo; đánh giá khái quát quá trình hình thành, phát triển các tôn
giáo lớn ở Việt Nam liên quan đến âm mưu, ý đồ chiến lược của các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; làm rõ các hoạt động lợi
dụng các tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; đồng
thời tài liệu cũng đã đánh giá kết quả công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch
lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam; đề xuất các giải pháp đấu tranh chống địch lợi dụng
tơn giáo.
Ngồi ra, cịn phải kể đến một loạt các cơng trình nghiên cứu khác như: Một số
chuyên đề về dân tộc và tôn giáo do Đoàn Minh Huấn và Võ Trọng Hải làm đồng
chủ biên, (2014, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội); Kỷ yếu hội thảo “Chính
sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo chia sẻ kinh
nghiệm giữa Châu Âu và Việt Nam” (Ban Tôn giáo Chính phủ, 2016, Nxb Tơn

7


giáo, Hà Nội); Giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay của Lê Văn Lợi (2018, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội); Công tác tôn giáo từ
quan điểm Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam của Ngơ Hữu Thảo (2012, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội). Các cơng trình này đã đưa ra những thực trạng và
biện pháp cụ thể cũng như kiến nghị những giải pháp trong quá trình thực hiện

chính sách tơn giáo như nâng cao nhận thức cán bộ, đảng viên và xã hội về vấn đề
tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền
vững của chế độ chính trị ở Việt Nam; hồn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật
về vấn đề tơn giáo; tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với
công tác tôn giáo; nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về tôn giáo…
Kỷ yếu hội thảo khoa học “An ninh trong lĩnh vực tôn giáo lý luận và thực tiễn” của
Trường Đại học An ninh nhân dân (ANND) (2007) với 3 chủ đề, 43 bài viết đã khái quát
về quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và giải quyết vấn đề tơn giáo; nêu những tác động
ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo đến môi trường an ninh; âm mưu, hoạt động của các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo và tổ chức đấu tranh bảo vệ ANQG trong lĩnh vực tôn
giáo, đây là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán
bộ thực tiễn trên lĩnh vực này. Kỷ yếu là tổng hợp quá trình ban hành các văn bản của
Đảng, Nhà nước về chính sách tơn giáo từ trước đến nay làm cơ sở để triển khai trong
thực tiễn; những yếu tố tác động đến công tác tôn giáo và giải pháp công tác công an đảm
bảo ANTT đối với tôn giáo, đưa ra những nhận định tình hình liên quan tơn giáo để từ đó
có các biện pháp phịng ngừa như công tác tranh thủ chức sắc, công tác tuyên truyền vận
động tín đồ tơn giáo đảm bảo ANTT và việc triển khai các biện pháp nghiệp vụ công an
để đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tơn giáo.
Các cơng trình nêu trên giúp học viên có được cái nhìn tổng quan về thực trạng
và tham khảo những giải pháp đã đề ra nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách tơn giáo.
2.3. Các cơng trình nghiên cứu về tơn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở
tỉnh An Giang:

8


Cho tới nay, các nghiên cứu về tôn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở An Giang
chủ yếu mới xuất hiện trong các bài tham luận hội thảo hay tọa đàm. Hầu như chưa có cơng

trình dưới dạng sách hay bài đăng trên tạp chí chuyên ngành về chủ đề này. Một số nghiên
cứu ban đầu có liên quan đến đề tài có thể chỉ ra như sau:
Cơng trình nghiên cứu “Dư địa chí An Giang”, 2013, đã làm rõ lịch sử hình
thành và phát triển vùng đất An Giang, từ vị trí địa lý thiên nhiên, khống sản…và
văn hóa đời sống con người qua các thời đại q khứ, hiện tại… các di tích lịch sử
văn hóa, anh hùng dân tộc, cách mạng, tôn giáo của An Giang, đặc biệt cơng trình
đã nêu rất rõ về q trình hình thành, phát triển của các tơn giáo tại An Giang, nhất
là số tôn giáo nội sinh bắt nguồn tại An Giang như Phật giáo Hòa Hảo (PGHH),
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa. Cơng trình cung cấp thơng tin nền
tảng, giúp cho việc tìm hiểu và trình bày bối cảnh của nghiên cứu này tại An Giang.
Kỷ yếu hội thảo khoa học Vận động quần chúng tín đồ PGHH tham gia đảm
bảo an ninh trật tự đã đưa ra những bài viết về việc thực hiện chính sách tơn giáo
và cơng tác Cơng an trong thực hiện chính sách tơn giáo. Hội thảo là tổng hợp 65
bài viết của lãnh đạo Bộ Công an, các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an, các
Trường Công an nhân dân, lãnh đạo một số địa phương cấp tỉnh, cấp huyện có đơng
tín đồ PGHH, tập trung chủ yếu vào cơng tác vận động quần chúng tín đồ PGHH
tham gia đảm bảo an ninh trật tự (ANTT), chẳng hạn bài “Quần chúng nhân dân nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT” của GS.TS Tô Lâm, Bộ
trưởng Bộ Công an thể hiện quan điểm xuyên suốt là Công an phải dựa vào dân để
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT và đưa ra những biện pháp nhằm huy động sức
mạnh tổng hợp của nhân dân tham gia bảo vệ ANTT; bài “Công tác tham mưu của
Công an tỉnh An Giang trong bảo đảm ANTT đối với PGHH” của Thiếu tướng Bùi
Bé Tư - Giám đốc Cơng an tỉnh An Giang nêu lên vai trị tham mưu của Cơng an
trong góp phần hồn thiện hệ thống chính sách đối với tơn giáo, tham mưu trong xử
lý các hoạt động lợi dụng PGHH vi phạm pháp luật, tham mưu trong công tác
QLNN về lĩnh vực tôn giáo và củng cố hệ thống chính trị cơ sở, từ đó làm rõ vai trị
tham mưu của cơng an trong thực hiện chính sách tơn giáo. Kỷ yếu là tập hợp nhiều
các bài viết nêu đặc điểm tình hình về PGHH và những biện pháp thể hiện một số

9



vai trị của cơng an trong việc thực hiện chính sách tơn giáo nói chung và PGHH nói
riêng nhưng cịn tản mạn, chưa hệ thống tổng thể đầy đủ.
Cơng trình nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
trên lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo ở tỉnh An Giang” (Nguyễn Văn Hạ, 2016, An
Giang) đã đưa ra các khái niệm, nội dung, quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà
nước và chủ trương của ngành Công an trong QLNN về ANTT trên lĩnh vực tín
ngưỡng, tơn giáo; đặc điểm tình hình về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên; dân cư, dân
tộc; về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội; tín ngưỡng, tơn giáo có liên quan đến cơng
tác QLNN về an ninh, trật tự trên lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo ở tỉnh An Giang; đề
tài lấy các nội dung trên làm cơ sở để đối chiếu vào thực trạng công tác QLNN về an
ninh, trật tự trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở tỉnh An Giang trong thời gian qua,
qua đó rút ra những hạn chế, thiếu sót mà các lực lượng chức năng cần rút kinh
nghiệm trong thời gian tới. Cơng trình nghiên cứu này cơ bản phản ánh đầy đủ
nhiệm vụ của các cơ quan, ban ngành trong thực hiện công tác QLNN về an ninh,
trật tự trên lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo nhưng chủ yếu tập trung vào công tác
QLNN, chưa nêu đầy đủ vai trị của lực lượng Cơng an trong thực hiện chính sách
tơn giáo.
Nhìn chung, những cơng trình được tổng quan đã bàn rất sâu từ các vấn đề lý
luận đến các vấn đề thực tiễn về xây dựng chính sách về tơn giáo ở Việt Nam, trong
đó có tham chiếu đến chính sách về tơn giáo ở nước ngồi. Các cơng trình đã khẳng
định các dấu mốc đánh dấu sự đổi mới quan trọng trong chính sách về tơn giáo
trong nước mà cụ thể là các văn bản quan trọng do Đảng và nhà nước ban hành.
Những thành tựu đã được chỉ ra, song song với những vấn đề tồn tại khiến hiệu quả
của chính sách về tơn giáo chưa được phát huy đầy đủ. Tuy nhiên, các cơng trình
nghiên cứu chưa thực sự đặt nghiên cứu về chính sách trong hệ lý luận về chính
sách cơng, đồng thời cịn thiếu những nghiên cứu đặt chính sách và thực thi chính
sách về tôn giáo trong sự gắn kết chặt chẽ với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hơn nữa, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chuyên sâu để đánh giá và làm rõ vai trò của lực lượng Cơng an nói chung và Cơng

an tỉnh An Giang nói riêng trong việc thực hiện chính sách tơn giáo. Do đó, học

10


viên chọn đề tài “Vai trị của Cơng an tỉnh An Giang trong việc thực hiện chính
sách tơn giáo” nhằm nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra một số giải pháp
phù hợp với tình hình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm rõ vai trị của cơng an tỉnh An Giang trong việc thực
thi chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao vai trò của lực lượng công an trong công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn triển khai các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách tơn giáo ở Việt
Nam;
- Khái qt về chủ trương, chính sách của tỉnh An Giang đối với tơn giáo;
- Nhận diện và phân tích các vai trị của Cơng an tỉnh An Giang trong việc
thực hiện chính sách tôn giáo;
- Chỉ ra kết quả và đánh giá hiệu quả của thực hiện chính sách tơn giáo của
Cơng an tỉnh An Giang;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trị của Cơng an tỉnh An Giang
trong thực hiện chính sách về tơn giáo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của lực lượng Cơng an ở tỉnh An
Giang trong thực hiện chính sách về tôn giáo.
Khách thể nghiên cứu là Công an tỉnh An Giang được giao nhiệm vụ thực hiện
chính sách về tôn giáo.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Địa bàn tỉnh An Giang
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến nay (từ sau khi có Nghị định
22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
tín ngưỡng, tơn giáo).

11


- Phạm vi nội dung: Những vai trò lực lượng Cơng an tỉnh An Giang được
giao trong thực hiện chính sách về tôn giáo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận của đề tài
Trước hết, đề tài sử dụng tiếp cận của chuyên ngành Chính sách cơng. Đề tài sẽ
phân tích chính sách và thực hiện chính sách về tơn giáo bởi Cơng an tỉnh An Giang
trên các nguyên tắc lý luận, bao gồm quá trình hình thành chính sách, đánh giá hiệu
quả chính sách, đối tượng và chủ thể thực hiện chính sách. Cụ thể hơn, đề tài phân
tích việc thực hiện chính sách tơn giáo theo quy trình gồm bảy bước, bao gồm: Xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách tơn giáo; Phổ biến, tun truyền
chính sách tơn giáo; Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách tơn giáo; Duy trì
chính sách tơn giáo; Điều chỉnh chính sách tơn giáo; Theo dõi kiểm tra, đơn đốc
việc thực hiện chính sách tơn giáo; Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực
hiện chính sách tơn giáo. Từ đó, đề tài đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách, nhận
diện các vấn đề làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này và đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách đối với lực lượng cơng an tỉnh.
Tiếp đề, đề tài sử dụng tiếp cận của chuyên ngành Tơn giáo học. Mục đích của
sử dụng chun ngành này là để khám phá mối quan hệ giữa nhà nước và tơn giáo
nói chung, xác định các nhân tố và yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thực hiện
chính sách của nhà nước về tơn giáo nói riêng. Để có thể phân tích tình hình ở An
Giang, người thực hiện nghiên cứu cần làm rõ được bức tranh tôn giáo tổng thể ở

An Giang; các đặc thù của đời sống tôn giáo nơi này; hệ thống về quan điểm, chính
sách và pháp luật về tơn giáo ở Việt Nam nói chung, ở An Giang nói riêng; vai trị,
chức năng và nhiệm vụ của lực lượng cơng an tỉnh.
Ngồi ra, tiếp cận Xã hội học được vận dụng khi phân tích và đánh giá vai trị
và chức năng của tơn giáo trong sự phát triển xã hội. Vì thế, đề tài là một nghiên
cứu sử dụng tiếp cận liên ngành.
5.2. Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sử dụng trong đề tài
Do quy mơ nghiên cứu và tính phức tạp của vấn đề, đề tài chỉ sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính. Do đó, học viên kết hợp các phương pháp cụ thể sau:
- Tổng hợp, phân tích, đối chiếu tài liệu thứ cấp:

12


Các tài liệu này sau khi được xử lý sẽ đưa vào làm dẫn chứng ở những nơi phù
hợp, đồng thời hiển thị thành các bảng biểu đặt ở phần Phụ lục;
- Phỏng vấn sâu với bảng hỏi bán cấu trúc:
Ở cấp tỉnh, đề tài tiến hành phỏng vấn 4 người, bao gồm 2 lãnh đạo và 2 cán bộ
chuyên trách; Ở cấp huyện, đề tài phỏng vấn lãnh đạo và cán bộ chuyên trách ở
toàn bộ 11 huyện, thị, thành phố ở An Giang. Như vậy tổng số người phỏng vấn là
26 người.
Việc lựa chọn người phỏng vấn là có sự tính tốn trước, nhằm cố gắng cân bằng
giữa các quan điểm và ý kiến dựa trên vị trí làm việc và cấp độ quản lý, thực thi
nhiệm vụ khác nhau. Kết quả phỏng vấn được gỡ băng, đối chiếu và khai thác
những dữ liệu phục vụ phân tích và viết hoàn thiện các nội dung nghiên cứu của đề
tài.
Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu
vốn phổ biến trong lĩnh vực khoa học xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

- Đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận do học viên nghiên cứu và vận dụng các lý
thuyết về chính sách cơng để nghiên cứu về thực thi chính sách về tôn giáo.
- Kết quả nghiên cứu minh chứng cho lý thuyết liên quan đến chính sách cơng,
từ đó hình thành các đề xuất giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả chính sách đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn phân tích và đánh giá vai trị của Cơng an tỉnh An Giang trong việc
thực hiện chính sách tơn giáo. Qua đó, luận văn chỉ ra những đóng góp của lực
lượng này trong việc triển khai và thực hiện chính sách nhà nước đối với tơn giáo
trong thời gian qua.
- Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các phòng
nghiệp vụ liên quan và Công an các huyện, thị xã, thành phố trong q trình hoạch
định và thực thi chính sách tôn giáo một cách hiệu quả.

13


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu gồm 3 chương, với 09 tiết, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách về tơn giáo
Chương 2: Thực trạng về vai trị thực hiện chính sách tơn giáo của Cơng an tỉnh
An Giang
Chương 3: Vấn đề đặt ra và giải pháp để nâng cao vai trị của Cơng an tỉnh An
Giang trong việc thực hiện chính sách về tơn giáo.

14


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
VỀ TƠN GIÁO
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách tơn giáo
1.1.1. Về khái niệm tơn giáo
“Tơn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (tiếng Anh) và “religion” lại xuất
phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng La tinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu
nhiên hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với thần thánh;
giữa thế giới vơ hình với thế giới hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Thuật ngữ “religion” được dịch thành “tông giáo” lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản
sau đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật ngữ
“tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa khác, nó nhằm chỉ đạo Phật. Thuật ngữ “tơng
giáo” được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của vua
Thiệu Trị nên được gọi là “tôn giáo” [61, tr.10].
Cho đến nay, khái niệm tôn giáo vẫn đang là vấn đề gây nhiều tranh luận trong
giới nghiên cứu. Với mỗi cách tiếp cận và quan điểm khác nhau, các nhà nghiên cứu
đưa ra khái niệm khác nhau về tôn giáo. Theo C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, nó là tinh thần của
trật tự khơng có tinh thần; tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [11, tr. 570]. Còn
Ph.Ăngghen thì cho rằng “Tơn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc
con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng
ngày”. Theo V.I.Lênin, khi nói về tơn giáo, đã định nghĩa: “Tơn giáo là một trong
những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên
quần chúng nhân dân khốn khổ vì lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải
chịu cảnh bần cùng và cô độc” [62, tr.169]. Trong cách tiếp cận của trường phái
Mác xít như thế, tơn giáo được nhìn theo chiều hướng thiếu tích cực, cơ bản là một
trong những lực lượng gây cản trở sự tiến bộ của xã hội.
Trong các tiếp cận gần đây ở Việt Nam, tơn giáo được nhìn có sự khách quan
hơn. Điều này có thể thấy ở quan điểm mang tính đột phá về nhận thức luận về tôn
giáo trong Nghị quyết Trung ương số 25 về Công tác tôn giáo, được Ban Chấp hành
Trung ương (BCH TW) Đảng thông qua năm 2003. Những quan điểm chính từ


15


chính sách này phản ánh vào trong cách tơn giáo được định nghĩa, từ Pháp lệnh về
tín ngưỡng, tơn giáo (2004) cho đến Luật tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016. Luật này
định nghĩa tôn giáo là: “Niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và
hoạt động bao gồm đối tượng tôn giáo, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. Cách
định nghĩa này thể hiện sự trung tính, khách quan hơn về tơn giáo.
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm tôn giáo được đưa ra dưới hai góc độ khác
nhau. Dưới góc độ Tơn giáo học và góc độ khoa học về QLNN lại có đưa ra
những định nghĩa khác nhau. Tuy mỗi định nghĩa có những cách tiếp cận khác
nhau nhưng về cơ bản thì cũng có những điểm chung: Thứ nhất, tơn giáo đã tồn tại
trong xã hội loài người từ rất lâu đời và còn tiếp tục tồn tại trong xã hội ngày nay.
Thứ hai, tôn giáo là một hiện tượng xã hội. Trong tài liệu: “Tìm hiểu một số khái
niệm của Đại hội IX” đã xác định tôn giáo là một thực thể xã hội có những đặc
trưng sau: Niềm tin bất tử vào đấng siêu nhiên, đấng tôn thờ. Đây là yếu tố căn bản
nhất. Mỗi tơn giáo thường có một hoặc một số đấng tơn thờ, có thể là Trời, Phật,
Thánh, Thần hay một số sức mạnh huyền bí, vơ hình, hư ảo nào đó. Hệ thống giáo
lý: là hệ thống lý thuyết về một tôn giáo. Giáo luật: là những quy định, chế định của
tôn giáo mà bắt buộc chức sắc, tín đồ của tơn giáo đó phải tuân theo. Giáo lễ: là hệ
thống lễ nghi của tôn giáo đó, biểu hiện bằng hệ thống hành vi hay nghi thức của
tơn giáo đó. Tổ chức nhân sự, quản lý, điều hành việc đạo (giáo hội); Cơ sở thờ tự:
các tơn giáo đều có các cơ sở thờ tự (như chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường,
thánh thất…), là nơi thờ phụng các đấng tối cao, đấng siêu nhiên và là nơi thường
xuyên diễn ra các nghi thức, nghi lễ tơn giáo. Tín đồ tơn giáo: là những người tin,
theo một tơn giáo nào đó và được tổ chức tơn giáo đó thừa nhận. Như vậy khi nói
đến tơn giáo nước ta vẫn hiểu theo định nghĩa: Tôn giáo là một cộng đồng người có
chung niềm tin vào các thế lực siêu nhiên huyền bí, có hệ thống giáo lý, giáo lễ,
giáo luật, tổ chức và cơ sở thờ tự hợp pháp. Đây là quan điểm mà đề tài sẽ đi theo

trong q trình nhận diện và phân tích. Trong đề tài này, các tôn giáo cụ thể được
xem xét trong địa bàn An Giang là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, PGHH,
Hồi giáo, Bửu sơn Kỳ hương, Tứ Ân Hiếu nghĩa, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hiếu
nghĩa Tà Lơn.
1.1.2. Chính sách cơng, chính sách tơn giáo, thực hiện chính sách tơn giáo

16


Khái niệm “chính sách cơng” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dù rằng,
trong điều hành và QLNN, cũng như lĩnh vực hoạt động của luật pháp, khái niệm
chính sách công thường xuyên được dùng, nhưng không phải lúc nào khái niệm này
cũng được hiểu một cách nhất quán. Ngồi khác biệt trong cấp độ phân tích khái
niệm, đặc biệt là dưới góc độ lịch sử- xã hội- mang tính giản lược hay thấu đáo chính sách cơng cịn thể hiện sự khác biệt trong cách hiểu giữa các ngành lĩnh vực
và vấn đề mà chủ thể nhận thức quan tâm. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về chính sách cơng, song điều đó khơng có nghĩa là chính sách cơng mang
những bản chất khác nhau. Thực ra, theo quan niệm của mỗi tác giả, chủ thể của
mỗi ngành lĩnh vực mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc
trưng khác của chính sách cơng. Những đặc trưng này phản ánh chính sách công từ
các gốc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản
chất của chính sách cơng.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính
sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được
thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,...” [51, tr. 475]. Định nghĩa này khơng làm rõ
được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách hiểu rất chung là những chuẩn
tắc để thực hiện đường lối, nhiệm vụ (đường lối, nhiệm vụ nào, của ai?) trong một
thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói
về chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó.

Tác giả Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) đã tổng kết về khái niệm
“chính sách cơng” như sau: Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách cơng là Nhà
nước. Nếu chủ thể ban hành các “chính sách tư” có thể là các tổ chức tư nhân, các
đồn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết
hoạt động trong phạm vi nội bộ tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó, chủ thể
ban hành chính sách cơng chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, vấn đề
ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách
cơng, vừa là chủ thể ban hành “chính sách tư”. Sự khác biệt là ở chỗ các “chính
sách tư” do các cơ quan nhà nước ban hành là những chính sách chỉ nhằm giải
quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan đó, khơng có hiệu lực thi hành bên

17


ngồi phạm vi cơ quan. Chính sách cơng do Nhà nước ban hành nên có thể coi
chính sách cơng là chính sách của Nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan
có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa
phương các cấp. Theo cách phân tích này, ở Việt Nam, Đảng cũng là chủ thể ban
hành chính sách cơng. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta.
Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xã hội (Điều 4 Hiến pháp). Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc vạch
ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là những căn cứ chỉ
đạo để Nhà nước ban hành các chính sách cơng. Như vậy, về thực chất, các chính
sách cơng là do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính
phủ đề ra). Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định
hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân
ta. Như vậy mục tiêu đã được Đảng định hướng, chính sách cơng có vai trị hiện
thực hóa các ý tưởng, mục tiêu tổng thể của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, các quyết định chính sách như thế là những quyết định hành động, có
nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách cơng khơng chỉ thể

hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà cịn bao gồm
những hành vi thực hiện các dự định nói trên. Chính sách cơng trước hết thể hiện dự
định của các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện
trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản
thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách cơng phải bao gồm các hành vi
thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế. Nhiều người
thường hiểu chính sách cơng một cách đơn giản là những chủ trương của Nhà nước
ban hành. Hiểu như thế dù đúng nhưng chưa đủ. Nếu khơng có việc thực thi chính
sách để đạt được nhưng kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là những
khẩu hiệu.
Thứ ba, chính sách cơng tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách cơng là một quá
trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ
quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là những chương trình hành động
tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách

18


công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề
liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xã hội.
Chính sách cơng chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc
chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết, vấn đề chính sách được hiểu là một mâu
thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế - xã hội
địi hỏi Nhà nước sử dụng quyền lực cơng để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính
sách là hạt nhân xun suốt tồn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai đoạn
hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách). Việc giải quyết những vấn đề nói trên
nhằm vào những mục tiêu mà Nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ tư, chính sách cơng gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết,
chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành

chính, càng khơng thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước. Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một
sự lựa chọn hành động của Nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật,
các quyết định dưới luật, thậm chí cả chương trình dự án là giải pháp cho vấn đề
chính sách. Chính sách khơng phải những ý tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện
trong lời nói và hành động của họ. Chính sách khơng đồng nghĩa với một đạo luật
riêng biệt hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết
định cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp
khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một
chính sách có thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp
lý cho việc thực thi, song nó cũng bao gồm những phương án hành động khơng
mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Từ những phân tích trên cho thấy chính sách cơng chính là kết quả của các
quyết định của Chính phủ, các quyết định này nhằm duy trì tình trạng của xã hội
hoặc giải quyết “các vấn đề của xã hội” trong đó “là các vấn đề kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể của Đảng đã vạch ra từ trước. Như vậy,
chính sách cơng trong trường hợp của Việt Nam có thể định nghĩa như sau: Chính
sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải
pháp và cơng cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể
đã xác định của đảng chính trị cầm quyền [35, tr.12].

19


Chính sách cơng có nhiều khái niệm nhưng vẫn chưa được thống nhất với nhau.
Nhưng chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất như sau: Chính sách công là hệ
thống các quyết định hành động của chủ thể nắm quyền lực công nhằm giải quyết những
vấn đề có tính cộng đồng trên lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định
nhằm đạt các mục tiêu đề ra. Đây cũng là nội hàm của khái niệm mà đề tài sử dụng
khi bàn về chính sách đối với tôn giáo.

Một quan điểm đáng chú ý là chính sách có thể xem xét theo hai phương diện:
Theo nghĩa rộng, chính sách tơn giáo là q trình dùng quyền lực nhà nước (Lập
pháp, Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật
để tác động điều chỉnh, hướng các quy trình tơn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo
của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ
thể của chủ thể quản lý. Theo nghĩa hẹp, chính sách tơn giáo cịn là quá trình chấp
hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành
pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh tôn giáo và mọi hành
vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp
luật [45, tr. 270 - 271].
Chúng tơi đưa ra cái nhìn tương đối tồn cảnh về chính sách cơng để đề cập đến
chính sách tơn giáo, theo đó có thể hiểu chính sách tơn giáo là một chính sách xã
hội quan trọng như một chương trình hành động của nhà nước và các cơ quan
QLNN về tôn giáo nhằm giải quyết vấn đề này trong phạm vi thẩm quyển của mình,
mặt khác chính sách tơn giáo nhìn như một “chính sách cơng” với ý nghĩa nhà nước
là chủ thể quyền lực công cộng quyết định những phương cách, phạm vi điều chỉnh
thông qua luật pháp để giải quyết vấn đề cốt lõi trong chính sách tơn giáo, đồng thời
chính sách đó là kết quả của sự tham gia xây dựng của cả công chúng chứ không chỉ
riêng chủ thể quyền lực.
Nói tóm lại, khi bàn về chính sách tơn giáo như một chính sách cơng, cần lưu ý:
thứ nhất, lĩnh vực của chính sách cơng liên quan trước hết đến việc nghiên cứu những
vấn đề chính sách riêng biệt và những đối ứng của Chính phủ đối với chúng; thứ hai,
trong bất kỳ một xã hội nào, các thể chế chính phủ thực thi luật pháp đều phải coi chính
sách cơng trước hết như một hệ thống pháp luật, những biện pháp điều chỉnh, hướng đi
của hành động và sự tài trợ cho những ưu tiên quan tâm đến một chủ thể định sẵn được
thực thể chính phủ hay đại diện của nó ban hành; thứ ba, theo nghĩa chung, khía cạnh

20



luật pháp trong chính sách cơng bao gồm những quy định riêng và những điều khoản
được xác định rộng hơn của hiến pháp hay luật pháp quốc tế; thứ tư, chính sách cơng
được coi như hành động của chính phủ nói chung hay điều hành của nhà nước với sự
tơn trọng một loại vấn đề xã hội nào đó trên cơ sở tham chiếu thỏa đáng đến luật pháp,
hiến pháp quốc gia,…
Tổ chức thực hiện chính sách là một giai đoạn trong chu trình chính sách cơng từ
xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách và đánh giá chính sách, là tồn bộ q
trình chuyển ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực tới đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu định hướng. Thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách,
nếu thiếu vắng cơng đoạn này thì chu trình chính sách khơng thể tồn tại. Thực hiện chính
sách là một hệ thống nhất - nhất là với hoạch định chính sách. So với các khâu khác
trong chu trình chính sách, thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước
thực hiện hóa chính sách trong đời sống xã hội.
Tổ chức thực hiện chính sách tốt khơng những mang lại lợi ích to lớn cho các
nhóm đối tượng thụ hưởng, mà cịn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong
q trình quản lý xã hội. Để có được một chính sách tốt, các nhà hoạch định phải
trải qua một q trình nghiên cứu, tìm kiếm cơng phu. Nhưng dù tốt đến đâu chính
sách cũng trở thành vơ nghĩa nếu nó khơng được đưa vào thực hiện trong thực tiễn.
Từ những phân tích đó, “thực hiện chính sách tơn giáo” có thể hiểu là: tổ chức
triển khai các văn bản, quy định, chương trình, dự án... nhằm đưa chính sách về tơn
giáo vào thực tiễn đời sống xã hội qua đó hiện thực hóa mục tiêu chính sách về tôn
giáo đã đặt ra.
1.2. Quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước về tơn giáo
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo được xây dựng một mặt dựa
trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
tơn giáo; mặt khác dựa vào đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm của
q trình giải quyết vấn đề tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã có những quan điểm, chính sách phù
hợp đối với tình hình tơn giáo ở Việt Nam. Đảng ta nhận thức rằng, dưới chủ nghĩa
xã hội (CNXH), những điều kiện, tiền đề làm nảy sinh tôn giáo chưa mất đi và tơn

giáo vẫn cịn tồn tại rất lâu dài; tơn giáo cịn là nhu cầu của một bộ phận nhân dân;
bản thân mỗi tôn giáo cũng chứa đựng những giá trị nhân văn cao đẹp, có nhiều
điểm phù hợp với đạo đức, nếp sống của xã hội mới. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn

21


quốc lần thứ IV (12/1976), sau khi đất nước được thống nhất, mặc dù phải tập trung
cho công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng ta vẫn rất
coi trọng việc thực hiện tự do tín ngưỡng, đồn kết tơn giáo. Nghị quyết Đại hội IV
nêu rõ: “Chính sách của Đảng về tơn giáo là tơn trọng tự do tín ngưỡng và tự do
khơng tín ngưỡng của nhân dân, đoàn kết tất cả những người yêu nước và tiến bộ
trong các tơn giáo, đồn kết đồng bào có đạo và khơng có đạo, để cùng nhau xây
dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, chống những
hoạt động làm hại đến lợi ích của Tổ quốc và CNXH” [24, tr.74].
Chính sách của Đảng đối với tôn giáo là nhất quán, được tiếp tục hồn chỉnh và
cụ thể hóa trong các kỳ Đại hội tiếp sau đó. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ V (3/1982) của Đảng có đoạn viết: “Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước
ta là: tơn trọng tự do tín ngưỡng và tự do khơng tín ngưỡng của nhân dân; đồn kết
các tơn giáo, đồn kết đồng bào theo tơn giáo và đồng bào không theo tôn giáo nào
để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước; nghiêm trị những hoạt động lợi dụng
tơn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của CNXH… Động viên đồng bào có đạo
đồn kết với tầng lớp nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước… Làm tốt nghĩa vụ công dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng
cuộc sống mới” [25, tr.134].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), trên cơ sở những
quyết sách đổi mới tồn diện đất nước, trong đó có đổi mới tư duy, nhận thức về tôn
giáo, tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta, trước sau như một, thực hành
chính sách tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo
tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc.

Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và
phản động chia rẽ đồng bào có đạo và đồng bào khơng có đạo, giữa đồng bào theo
đạo này với đồng bào theo đạo khác” [26, tr.117]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII (6/1991), sau khi nêu rõ “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân”, Đảng ta khẳng định: “Tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và tự do khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết
lương giáo và giữa các tơn giáo…; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành
vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống CNXH, ngăn cản
tín đồ làm nghĩa vụ cơng dân” [27, tr.78]. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc

22


×