Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.06 KB, 82 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên
truyền và lãnh đạo khoa Tuyên truyền đã tạo cơ hội và điều kiện để em được
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cơ giáo khoa
Tun truyền, Học viện Báo chí và Tun truyền đã tận tâm giảng dạy cho em
những kiến thức quý báu, giúp em có nền tảng kiến thức vững chắc để hồn
thành khóa luận tốt nghiệp một cách thuận lợi nhất.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phạm Ngọc Trung, người thầy đã
dành thời gian, công sức để nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hồn thành khóa luận. Qua đây em xin gửi tới thầy lịng kính
trọng và sự biết ơn sâu sắc.
Dù đã có rất nhiều cố gắng và nỗ lực để hồn thành khóa luận một cách
tốt nhất nhưng do hạn chế về năng lực, kiến thức, kỹ năng của bản thân và thời
gian có hạn nên khố luận khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong
nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp của q thầy, cơ giáo và các bạn sinh viên để
khóa luận được hồn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Người thực hiện
Nguyễn Thị Thu Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

Viết tắt

Rõ nghĩa

CLB
: Câu lạc bộ


GP
: Giáo phường
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp
quốc


DANH MỤC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
(Số liệu điều tra xã hội học của sinh viên năm 2017)

Bảng

Trang

Bảng 2.1. Bố cục một buổi biểu diễn
của CLB Ca trù Hà Nội và GP Ca trù
Thăng Long

42

Bảng 2.2: Mức độ hiểu biết của giới
trẻ về Ca trù

56

Bảng 3.1. Phân tích ưu điểm, hạn chế
của một số mơ hình CLB, GP tiêu
biểu ở thủ đô Hà Nội

74


Bảng 3.2: Các biện pháp để nghệ
thuật Ca trù được các bạn trẻ biết
đến nhiều hơn ở Hà Nội

76


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc chọn “Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội hiện nay”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học xuất phát từ những lý do sau:
Trước hết, việc chọn đề tài xuất phát từ nhận thức về sự cần thiết phải bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế
thế giới hiện nay, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi cho sự phát triển của đất nước,
Việt Nam cũng đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có nguy cơ đánh
mất bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh của
một quốc gia, dân tộc, là “chứng minh thư” để nhận diện quốc gia này với quốc gia
khác. Đánh mất bản sắc văn hóa cũng chính là đánh mất nền tảng, sức mạnh của quốc
gia. Chính vì vậy mà trong nhiều nghị quyết Đại hội, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm
vụ phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh đất nước hiện nay.
Thêm vào đó, sinh viên ln dành tình u và sự trân trọng dành nền âm nhạc
truyền thống Việt Nam nói chung và nghệ thuật Ca trù nói riêng. Âm nhạc truyền
thống là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Việt Nam và thể hiện đậm nét bản sắc
văn hóa dân tộc. Nghệ thuật Ca trù là một loại hình âm nhạc truyền thống của Việt
Nam, thể hiện chiều sâu văn hóa, chiều sâu tâm hồn của cộng đồng người Việt, hội tụ
những tinh hoa của văn hóa dân tộc. Đây là bộ mơn nghệ thuật vừa mang tính dân
gian, vừa thể hiện tính bác học và gắn liền với phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm
nhạc, tư tưởng, triết lý của người Việt.
Thời điểm sau năm 1945, nghệ thuật Ca trù vốn tao nhã và sang trọng bị hiểu
lầm và đánh đồng với sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã

hội chối bỏ và quyết loại Ca trù khỏi đời sống văn hóa. Một thời gian khá dài Ca trù
đã không được nuôi dưỡng và phát triển, tơn vinh, tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính phủ
Cơng ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2
tháng 10 năm 2009), Ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn


cấp. Việc này đã khẳng định vị trí nghệ thuật Ca trù không chỉ đối với dân tộc Việt
Nam mà còn ở tầm nhân loại nhưng cũng đồng thời rung lên hồi chng cảnh báo về
tình trạng mai một, có nguy cơ thất truyền của Ca trù.
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng và có sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc
tế trong việc bảo vệ Ca trù song sức sống của Ca trù hiện nay vẫn chưa phải ở mức
cao và vẫn cần phải được bảo vệ hơn nữa để phát triển khả năng tồn tại. Vì vậy khi
nhận được vinh dự tự hào này chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn lợi ích, trách
nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người, của toàn xã hội trong việc bảo vệ tài sản văn hóa
quý báu mà cha ông ta đã để lại.
Lý do chọn đề tài cịn xuất phát từ mong muốn được đóng góp cơng sức bé nhỏ
góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của Hà Nội - thủ đô ngàn năm văn
hiến, cụ thể là bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù. Ca trù không phải là nghệ
thuật của riêng đất Thăng Long. Tuy nhiên, chính tại mảnh đất kinh kỳ, nơi hội tụ
những tao nhân mặc khách, những tinh hoa văn hóa khắp mọi miền đất nước đã tạo
điều kiện nuôi dưỡng Ca trù phát triển rực rỡ nhất. Là địa phương hiện có 14 CLB Ca
trù, là số lượng đơng nhất so với các tỉnh thành khác, Hà Nội đang trăn trở và hết sức
nỗ lực để đưa Ca trù thoái khỏi tình trạng khẩn cấp. Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ
thuật Ca trù ở Hà Nội hiện nay tuy đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng
đặt ra nhiều vấn đề địi hỏi phải giải quyết kịp thời.
Thơng qua việc tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù
tại Hà Nội, sinh viên mong muốn được đề xuất những giải pháp góp phần gìn giữ,
phát huy những giá trị ấy. Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù cũng là góp
phần giữ gìn và phát huy giá trị âm nhạc truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.

Là một người thuộc thế hệ trẻ, hơn nữa lại là sinh viên thuộc chuyên ngành Văn
hóa và phát triển, em ln ý thức trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ và phát huy
những giá trị của nền văn hóa dân tộc và hy vọng sẽ đem chút cơng sức nhỏ bé của
mình để lan tỏa ý thức, trách nhiệm ấy trong giới trẻ.
2. Tình hình nghiên cứu


Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và âm nhạc dân gian nói
riêng dày cơng nghiên cứu về nghệ thuật Ca trù:
Trong các thập kỷ 20, 30, 40 của thế kỷ XX đã có nhiều sách, bài báo của các
tác giả Phan Văn Duyệt, Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn
Ngọc, Phạm Quỳnh,… viết về Ca trù. In tại Hà Nội năm 1932, tác phẩm Đào nương
ca của Nguyễn Văn Ngọc giới thiệu tuyển tập 111 bài Hát nói Ca trù. Nhạc sĩ Nguyễn
Xn Khốt là người đầu tiên viết về Ca trù dưới góc độ một người nghiên cứu âm
nhạc, ơng đã có nhiều bài đề cập đến nhiều khía cạnh của nghệ thuật Ca trù: Hát Ả
đào (Báo Ngày nay, 1940, số 214-219), Trống chầu (Tạp chí Thanh Nghị, 1942, số
17), Tiếng hát đào nương (Tạp chí Thanh Nghị, 1943, số 51-54).
Đặc biệt, phải kể đến Việt Nam Ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ
Trọng Huề in năm 1962 tại Sài Gịn. Cuốn sách khơng chỉ bao gồm tuyển tập gần 230
bài thơ Ca trù mà còn dành một số lượng lớn trang viết cho việc biên khảo: lược sử Ca
trù, những danh từ chuyên môn trong nghề Ca trù, GP, những lối Ca trù, nhạc khí…
Năm 1980, Sở Văn hóa Thơng tin Hà Nội tổ chức biên soạn tập sách Hát cửa
đình Lỗ Khê, giới thiệu về một làng q có truyền thống Ca trù ở Thủ đơ.
Năm 1987, Tuyển tập thơ Ca trù của các tác giả Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn
Phú bên cạnh việc tuyển chọn các bài thơ Ca trù còn giới thiệu về nghệ thuật Ca trù và
nhấn mạnh đến khía cạnh văn hóa độc đáo của sinh hoạt Ca trù và nhắc đến Hát nói
như một thể thơ Ca trù mới. Phụ lục của sách đề cập đến âm luật Ca trù, tiếng hát và
nhạc khí, những điệu hát thơng dụng và phép đánh trống chầu.
Năm 2000, cơng trình Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù của Nguyễn Xuân Diện
in tại NXB Khoa học Xã hội Hà Nội góp phần vào việc tìm hiểu cội nguồn và diễn

trình lịch sử Ca trù dựa trên các nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu Hán – Nơm. Có thể
nói đây là nguồn tư liệu đầy đủ nhất về lịch sử Ca trù từ trước đến nay, tác giả đã ghi
lại 34 tư liệu viết bằng chữ Hán Nôm, 70 văn bia và 92 sách báo viết bằng chữ quốc
ngữ về Ca trù.
Năm 2000, tại Viện Văn học, Nguyễn Đức Mậu bảo vệ thành công luận án Tiến
sĩ Ngữ văn với đề tài Thể loại Hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học.


Năm 2003, tác giả Nguyễn Đức Mậu giới thiệu Ca trù nhìn từ nhiều phía in tại
NXB Văn hóa thơng tin Hà Nội. Cuốn sách tổng hợp cách nhìn về Ca trù từ các
phương diện âm nhạc, văn học, ngôn ngữ học, văn hóa, truyền thuyết, từ các vùng quê
nổi tiếng về Ca trù trong lịch sử như Cổ Đạm, Lỗ Khê đến các địa phương của Nghệ
An, Thanh Hóa... và cả Ca trù trong đời sống, trong tâm thức văn nghệ sỹ.
Năm 2005, Chính phủ Việt Nam giao cho Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
chuẩn bị hồ sơ đệ trình tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục của Liên Hợp Quốc
(UNESCO) công nhận Ca trù là Kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền miệng của nhân
loại . Được xây dựng và hoàn thành sau 4 năm, tài liệu này nghiên cứu tổng thể về
nghệ thuật Ca trù, tổng hợp thông tin về số lượng tỉnh thành, xã thơn, xóm cịn lưu giữ
nghệ thuật Ca trù ở Việt Nam, số lượng nghệ nhân và những tư liệu về nghề tổ Ca trù
ở một số địa phương.
Ngày 16-7-2005, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức buổi thuyết trình của
Nguyễn Xuân Diện về “Lịch sử và nghệ thuật Ca trù Việt Nam”, góp phần làm sáng tỏ
hơn về lịch sử và sự phát triển của bộ môn Ca trù trong lịch sử.
Năm 2007, tác phẩm Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù – khảo sát nguồn tư liệu tại
viện Nghiên cứu Hán Nôm in tại NXB Thế giới của tác giả Nguyễn Xuân Diện đã
trình bày nhiều vấn đề về lịch sử phát triển Ca trù và nghệ thuật Ca trù dựa trên nguồn
tư liệu Hán Nơm có giá trị đồng thời cung cấp được nhiều cứ liệu quan trọng trong
việc phục hồi không gian văn hóa Ca trù và phát triển nghệ thuật Ca trù.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Đức Mậu giới thiệu Ca trù Hà Nội trong lịch sử và
hiện tại in tại NXB Hà Nội: nghiên cứu Ca trù Hà Nội theo tiến trình lịch sử; sưu tầm

biên soạn các bài Ca trù và các văn bản nói về sinh hoạt Ca trù. Qua đó, chứng minh
vai trị quan trọng của Hà Nội trong suốt chiều dài lịch sử Ca trù. Tác giả cũng đi sâu
nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ, âm nhạc trong Ca trù, nhất là tính lan toả, chi phối
của Ca trù Thăng Long - Hà Nội. Có thể nói tác phẩm đã cung cấp một khối lượng tư
liệu phong phú góp phần bảo tồn, lưu giữ nghệ thuật Ca trù.


Năm 2016, tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia, Nguyễn Đức Thắng bảo vệ
thành công Luận án tiến sĩ Hoạt động biểu diễn nghệ thuật Ca trù của một số câu lạc
bộ, GP tại Hà Nội. Lần đầu tiên có một cơng trình khoa học nghiên cứu kỹ lưỡng về
thực trạng hoạt động nghệ thuật Ca trù tại Hà Nội.
Năm 2017, tác phẩm Ca trù – Phía sau đàn phách của Nguyễn Xuân Diện in tại
NXB Phụ nữ đem đến cái nhìn tương đối tồn diện về nghệ thuật Ca trù: Tổ nghề và
hành trình Ca trù trong lịch sử, những đặc trưng nghệ thuật Ca trù (nhạc khí và âm
luật, thể cách, thơ) cùng lề lối sinh hoạt Ca trù, tổ chức GP và đời sống đào nương.
Đặc biệt là những câu chuyện phía sau đàn phách được kể bởi các nhà văn và nhà văn
hóa, góp phần tái hiện khơng khí sinh hoạt văn nghệ thời tiền chiến với những địa
danh nức tiếng gắn với các GP ả đào như Xóm Khâm Thiên, Thái Hà, Ngã Tư Sở, Gia
Lâm...
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp nhiều tư liệu qúy giá
về nghệ thuật Ca trù trên nhiều phương diện nhưng ít đề cập đến vấn đề bảo tồn, phát
huy giá trị nghệ thuật Ca trù. Đặc biệt, chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù trên địa bàn Hà Nội hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về bảo tồn và phát huy giá trị
nghệ thuật Ca trù cùng việc tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật
Ca trù ở Hà Nội hiện nay, khóa luận đề xuất một số giải pháp tăng cường bảo tồn và
phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau đây
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị
nghệ thuật Ca trù.
- Tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội qua
đó đánh giá những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra.


- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường bảo tồn và phát huy giá trị nghệ
thuật Ca trù.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian:
Nghệ thuật Ca trù có mặt ở các tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà
Nội, Bắc Giang, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, ... nhưng trong đề tài khóa luận xin phép chỉ tập
trung nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2009 (thời điểm Ca trù Việt Nam chính thức được
UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn
cấp) đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm chỉ đạo về bảo tồn và phát huy di sản của Đảng Cộng sản
Việt Nam, chiến lược, đề án bảo tồn và phát huy nghệ thuật Ca trù của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp chung: phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa học, xã hội
học, lịch sử văn hóa, văn hóa dân gian,…
- Phương pháp cụ thể: phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu, phân tích,
điền dã, so sánh, lập bảng hỏi điều tra,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
a. Ý nghĩa lý luận
- Làm rõ vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc.
- Đề tài cho thấy tính cấp thiết của hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị nghệ
thuật Ca trù ở Hà Nội.
b. Ý nghĩa thực tiễn
- Khảo sát thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội.


- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp cơ bản góp phần tăng cường bảo tồn và
phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội hiện nay.
7. Kết cấu khóa luận
Khóa luận bao gồm các phần:
Mở đầu
Chương 1: Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù – cơ sở lý luận và thực
tiễn
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở Hà Nội
hiện nay và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Giải pháp tăng cường bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù ở
Hà Nội hiện nay
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


CHƯƠNG 1: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CA TRÙ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Giá trị nghệ thuật Ca trù
1.1.1.1. Giá trị
“Giá trị” là thuật ngữ được dùng trong nhiều bộ mơn khoa học khác nhau như
tốn học, xã hội học, triết học, nghệ thuật, văn hóa học.... do vậy, trong mỗi bộ môn
khoa học khái niệm này mang những hàm nghĩa khác nhau.
Ở nước ta, các nhà xã hội học Việt Nam có những quan niệm khác nhau về “giá
trị”. Trong đó, nhóm tác giả Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mai Văn Trang
trong cơng trình “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” đã khẳng
định rõ hơn yếu tố chủ thể thơng qua tình cảm, nhận thức, hành vi của chủ thể “bất cứ
sự vật nào cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể tư tưởng, miễn là nó được
người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu, hoặc cấp cho nó một vị trí
quan trọng trong đời sống của họ, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức,
yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng
mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể”.
Đứng dưới góc độ văn hóa học, trong cơng trình “Bảo tồn, làm giàu và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” do Ngô Đức
Thịnh chủ biên cũng đã định nghĩa về giá trị như sau: “Giá trị là hệ thống những đánh
giá mang tính chủ quan của con người về bất cứ một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư
duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói theo cách của các nhà
triết học phương Tây một thời, đó là những cái con người cho là chân, thiện, mỹ giúp
khẳng định và nâng cao bản chất con người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã
hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, hành vi, niềm tin, tình cảm của
con người”


Tóm lại, thuật ngữ “giá trị” bao hàm ý nghĩa là nhu cầu, cái ao ước, cái có ích,
cái cần và được chia sẻ trong cộng đồng xã hội và giá trị đó chi phối đến cách suy
nghĩ, hành vi, niềm tin. Nếu xem văn hóa là hệ thống các giá trị thì giá trị văn hóa

được sáng tạo và kết tinh trong quá trình hoạt động thực tiễn của mỗi cộng đồng trong
sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng đến
thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân thiện - mỹ) từ đó bồi đắp và nâng cao tình cảm con người.
1.1.1.2. Nghệ thuật Ca trù
* Nghệ thuật
Xem “nghệ thuật” là một hiện tượng xã hội, Chủ nghĩa Mác – Lênin xuất phát
từ những mối liên hệ thực tế giữa nó với tồn bộ các hiện tượng xã hội để giải thích:
“nghệ thuật” là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến thức, nảy sinh từ
cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định, đồng thời, có tác dụng trở lại cơ sở hạ
tầng. Xem “nghệ thuật” là một hình thái ý thức xã hội thuộc thường tầng kiến trúc và
lý giải nó trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sơ hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
lần đầu tiên trong lịch sử mỹ học nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem đến cho
nhân loại một kiến giải duy nhất đúng đắn về bản chất của “nghệ thuật”.
Trên cơ sở quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin, có thể hiểu “nghệ thuật” là một
hình thái ý thức xã hội đặc thù, một hình thái cao nhất, tập trung nhất của quan hệ
thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Hình thái ấy có sự kết hợp hữu cơ, liên tục
giữa tư duy bằng hình tượng và hoạt động sáng tạo thế giới theo quy luật của cái đẹp
nhận thức.
Có thể hiểu nghệ thuật là hoạt động sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc
phi vật thể chứa đựng những giá trị lớn về tư tưởng-thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa
làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm cho người thưởng thức. Với cách hiểu này,
khái niệm ‘nghệ thuật” được dùng để chỉ các loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc,
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, múa, điện ảnh, nhiếp ảnh. Mỗi loại hình nghệ


thuật khác nhau sẽ sử dụng những phương tiện và chất liệu khác nhau để hình thành
nên tác phẩm của mình nhằm biểu đạt một tư tưởng, tình cảm,…
* Nghệ thuật Ca trù
“Nghệ thuật Ca trù” là thuật ngữ chỉ một loại hình âm nhạc vừa mang tính dân
gian, vừa mang tính bác học, có vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

Thuật ngữ “Ca trù” xuất hiện sớm nhất trong bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào
giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462-1529) soạn trước năm 1505.
Trong đó, “Ca” tức là hát; “Trù” là thẻ làm bằng tre, mỗi thẻ tương ứng với một
khoản tiền dùng để thưởng cho đào (người hát) và kép (người chơi đàn) ngay trong
khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt. Cuối mỗi chầu hát sẽ căn cứ vào thẻ
mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc GP. Người quyết định việc thưởng này chính là
các vị quan viên sử dụng trống chầu. Như vậy “Ca trù” có nghĩa là hát thẻ.
Ca trù với ý nghĩa là lối hát có dùng thẻ để thưởng như trên thì chỉ có ở đình
đền, tức là hát thờ. Tùy thuộc vào khơng gian văn hóa, khơng gian địa lý, hồn cảnh
lịch sử mà nghệ thuật Ca trù cịn có các tên gọi khác như: Ả đào, đào nương ca, ca
công, cô đầu (hát ở các ca quán), nhà trị (hát ở đình, đền, miếu), nhà tơ (hát ở dinh
quan, tư gia các gia đình quyền quý), cửa quyền (trong cung phủ),…
Ca trù là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, là sự phối hợp đa dạng, tinh vi,
nhuần nhuyễn giữa thi ca, âm nhạc và đơi khi có cả múa.
1.1.1.3. Giá trị nghệ thuật Ca trù
Giá trị nghệ thuật Ca trù là nhu cầu của cộng đồng xã hội cần được biết, được
hiểu về âm nhạc truyền thống Ca trù, và nghệ thuật Ca trù cần được hiểu biết, trân
trọng, chia sẻ, phổ biến trong cộng đồng bởi vị trí, vai trị và ý nghĩa của nó đối với
nền âm nhạc cổ truyền, với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2. Bảo tồn và phát huy
1.1.2.1. Bảo tồn
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn
có của nó. Bảo tồn là giữ lại, không để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến
thái.
Đối tượng cần được bảo tồn (các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể)
cần thỏa mãn hai điều kiện:


- Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận
minh bạch, khơng có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.

- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài với
thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước những biến đổi tất
yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường và quá trình tồn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sơi động.
Có hai hình thức bảo tồn là bảo tồn ở dạng tĩnh và bảo tồn ở dạng động.
- Bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật thể ở dạng tĩnh là vận dụng thành quả khoa
học kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như vốn có
về kích thước, vị trí, chất liệu, đường nét, màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên,
cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi tính cơng nghệ
3D theo khơng gian ba chiều, chụp ảnh, băng hình video, xác định trọng lượng, thành
phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Sau khi bảo tồn nguyên vẹn, phải so sánh
đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được lưu giữ chi tiết để khơng làm biến dạng.
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là điều tra sưu tầm, thu thập các dạng
thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc chặt chẽ,
giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình (video), băng tiếng
(audio), ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ trong các
kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
- Bảo tồn động tức là gắn di sản đó với khơng gian và mơi trường sống của nó.
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn các hiện tượng văn hóa
đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng không những là môi
trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà cịn là nơi tốt nhất để giữ
gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy chúng trong đời sống xã hội. Các hiện tượng văn
hóa phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, hình thức
diễn xướng, nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian. Văn hóa phi vật thể ln tiềm ẩn
trong tâm thức và trí nhớ của những con người đặc biệt mà chúng ta thường mệnh
danh là những nghệ nhân hay là những báu vật nhân văn sống.


Do đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể cịn đồng nghĩa với
việc bảo vệ những báu vật nhân văn sống. Đó là việc xã hội thừa nhận các tài năng

dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để họ sống lâu, khỏe
mạnh, phát huy được khả năng trong quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống. Cần phải phục hồi các giá trị một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy,
khoa học chứ không thể chủ quan, tùy tiện. Tất cả những giá trị phải được kiểm chứng
qua nhiều phương pháp nghiên cứu có tính chất chun mơn cao, có giá trị thực chứng
thuyết phục thông qua các dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản các
dấu tích di sản văn hóa phi vật thể.
1.1.2.2. Phát huy
“Phát huy” được hiểu là hành động nhằm đưa di sản vào trong thực tiễn xã hội,
coi đó như nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại
những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa
đối với sự phát triển của xã hội.
Phát huy các giá trị di sản văn hóa phải đảm bảo những nguyên tắc:
- Phát huy các giá trị di sản văn hóa phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa của đời trước để lại, làm cho các giá trị đó thấm sâu, lan tỏa vào đời sống
cộng đồng xã hội để cộng đồng nhận diện được và biết trân trọng những giá trị ấy.
- Phát huy các giá trị di sản văn hóa phải biết mở rộng giao lưu văn hóa để làm
giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh tồn cầu
hóa.
- Phát huy các giá trị di sản văn hóa nhằm mục tiêu phát triển du lịch bền vững,
phục vụ tích cực cho cơng tác bảo tồn di sản văn hóa.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy
Bảo tồn và phát huy là hai hoạt động có sự gắn kết chặt chẽ biện chứng, chi
phối tác động lẫn nhau.
Bảo tồn di sản văn hóa khơng chỉ là cất giữ cho khỏi mất di sản, để giữ gìn bản
sắc dân tộc mà bảo tồn cịn là để phát triển, khai thác các giá trị văn hóa truyền thống,
làm cho nó có thể sống lại, tồn tại trong đời sống thực, thu hút sự quan tâm của cộng
đồng nhờ đó mà các gía trị được vận hành, thâm nhập vào cuộc sống hiện tại. Phát



huy giá trị di sản là đưa các giá trị đó đến với cộng đồng, giúp cộng đồng phát triển
kinh tế và đáp ứng cho cơng tác bảo tồn hồn thiện hơn.
Tóm lại, bảo tồn di sản văn hóa thành cơng thì mới phát huy được các giá trị
văn hóa. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản văn hóa tốt nhất bằng việc lưu giữ
giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội.
1.1.3. Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù
Bảo tồn giá trị di sản văn hóa Ca trù là tìm cách làm cho nó có thể sống thực sự
trong lịng công chúng, cộng đồng, tồn tại trong đời sống thực, còn phát huy các giá trị
Ca trù là để giúp cộng đồng phát triển văn hóa, tăng thu nhập, hiểu biết hơn về giá trị
di sản.
Những hoạt động thiết thực nhằm bảo tồn giá trị nghệ thuật Ca trù như công tác
kiểm kê số lượng các nghệ nhân, CLB; hoạt động nghiên cứu, sưu tầm tư liệu cổ về
Ca trù, về thể cách, làn điệu Ca trù cổ, hoạt động phục dựng những giá trị truyền
thống Ca trù,…
Phát huy giá trị Ca trù là để nghệ thuật Ca trù đi vào trong cộng đồng, đó là
hoạt động biểu diễn nghệ thuật của các CLB, GP Ca trù, một mặt là nhằm phát triển
giao lưu văn hóa, một mặt là để phát triển kinh tế. Để phát huy giá trị di sản văn hóa
Ca trù thì phải biết mở rộng giao lưu văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa và
làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, tức là phải
khuyến khích các mơ hình CLB, GP đã và đang tiên phong trong việc bảo tồn, nhưng
lại phát huy thông qua các hoạt động du lịch, hoạt động biểu diễn cho du khách hoặc
hoạt động tổ chức các chương trình biểu diễn khác tại các liên hoan nghệ thuật, liên
hoan du lịch, festival văn hóa trong và ngồi nước.
Tóm lại, bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Ca trù là bảo vệ và duy những
giá trị đó trong thực tiễn xã hội, làm cho các giá trị đó thấm sâu, lan tỏa vào đời sống
để cộng đồng nhận diện được và biết trân trọng những giá trị ấy, đồng thời coi đó như
nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi
ích vật chất và tinh thần cho xã hội.
1.2. Khái quát về nghệ thuật Ca trù



1.2.1. Nguồn gốc và lược sử phát triển
1.2.1.1. Nguồn gốc
Hiện nay chưa có tư liệu chính xác nào về thời điểm và nguồn gốc hình thành
nghệ thuật Ca trù. Các nhà nghiên cứu chỉ có thể căn cứ vào một số ít nguồn tư liệu,
chủ yếu là những truyền thuyết, thần tích được ghi chép lại qua truyền khẩu trong
nhân dân. Chính vì lí do đó, nguồn gốc hình thành Ca trù không thống nhất, tương
truyền mỗi nơi một khác. Đây là một vấn đề đặt ra với các nhà nghiên cứu trong hành
trình tìm về cái nơi của Ca trù.
Có ba tư liệu cổ nói tới nguồn gốc Ca trù được dân gian cũng như các nhà
nghiên cứu nhắc tới nhiều nhất:
Theo Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ thì vào đầu Vua Lý Thái tổ (1010 - 1028)
có người ca nhi tên là Đào Thị hát hay đàn giỏi từng được vua ban thưởng. Về sau vì
ái mộ danh tiếng Đào Thị nên con hát gọi là Đào nương. Sách Khâm đinh viết sử cũng
ghi : “năm Thuận Thiên thứ 16 (1925) vua Lý Thái Tổ đặt chức Quản giáp cho giới
con hát. Như vậy, từ các cứ liệu trên, Ca trù ít nhất cũng có từ đời Lý. Tuy nhiên đây
cũng chỉ là tương truyền mà chưa có các căn cứ chính xác.
Đến đời nhà Hồ (1400 - 1407) lại có sách Cơng dư tiệp ký chép lại chuyện một
đào nương ở tại thôn Đài Xá, huyện Tiên Lữ - Hưng Yên múa giỏi hát hay. Thời điểm
đó, quân Minh sang xâm chiếm nước ta gây bao cảnh tang thương. Nàng đã cùng dân
làng lập mưu hạ được nhiều tên giặc Minh giúp làng Đài Xá được yên ổn. Về sau
người làng nhớ ơn nên đã lập đến thờ và thôn nàng ở trước đây gọi là thơn “Ả đào”.
Có một thần tích về Tổ nghề Ca trù mà hiện nay được nhiều người ghi nhớ nhất.
Đời nhà Lê có người tên là Đinh Lễ tự là Nguyễn Sinh, quê ở làng Cổ Đạm - Nghi
Xuân, Hà Tĩnh. Là con nhà gia thế song tính tình phóng khống, thích ca hát gảy đàn.
Một lần Đinh Lễ được một cụ già đưa cho một khúc gỗ ngô đồng và tờ giây vẽ hình
một cây đàn bảo rằng về làm cây đàn sẽ giúp trừ hoạ và mang lại an lành cho nhân
dân. Quả nhiên cây đàn đã giúp cho cuộc sống của bà con hạnh phúc vui tươi hơn.
Một hôm, Đinh Lễ đi qua châu Thường Xuân - tỉnh Thanh Hố ngồi gảy đàn vơ tình
tiếng đàn đã giúp cho Bạch Hoa - con gái quan châu Bạch Đình Sa bị câm từ nhỏ



bỗng cất tiếng nói sau khi nghe đàn. Cảm tạ ơn đó Bạch Hoa được gả cho Đinh Lễ. Từ
đấy hai vợ chồng sống hạnh phúc, ca hát và còn dạy cả dân làng cách đàn, cách múa.
Khi hai vợ chống mất đi, dân làng Cổ Đạm và đệ từ nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền tổ
cô đầu, hay đền bà Bạch Hoa công chúa. Hàng năm đến ngày 11 tháng Chạp có giỗ tổ
cơ đầu và các đào kép khắp nơi lại tề tựu về ở Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội ngày nay
đều có đền thờ hai vị tổ sư này.
Tóm lại, cho đến nay vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng nào về thời gian cũng
như nguồn gốc hình thành nghệ thuật Ca trù. Dựa vào những tư liệu cổ và truyền
thuyết, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng nghệ thuật Ca trù phát tích từ vùng
Thanh - Nghệ.
1.2.1.2. Lược sử phát triển
Ở thế kỷ XV, Ca trù đã là một bộ môn nghệ thuật hoàn chỉnh. Điều này được
chứng minh qua bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao
(1462-1529) soạn trước năm 1505 được chép trong sách Lê tộc gia phả. Bài thơ cho ta
mường tượng ra khơng khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội đầu xuân cầu
phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong bài thơ, chữ “Ca trù” xuất hiện
hai lần:
Thọ bôi kể chục, Ca trù điểm trăm;
Mừng nay tiệc Ca trù thị yến.
Chữ “Ca trù” trong câu thơ thứ nhất cho thấy đây là lối hát dùng thẻ để thưởng.
Câu thơ thứ hai cho thấy tiệc Ca trù được mở để thờ thần. Hát thờ ở cửa đình Đơng
Ngạc cho thấy cái trống chầu đã có vai trò riêng: để thưởng và phạt, khen và chê. Điều
này chứng tỏ việc thưởng thức nghệ thuật Ca trù đã đạt đến được một chuẩn mực, một
trình độ đáng kể.
Thế kỷ XVI, Ca trù gắn liền với ngơi đình làng ở Bắc Bộ. Sự phát triển và phổ
biến của nghệ thuật Ca trù ở thế kỷ XVI được ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân
gian ở các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hịa, tỉnh Bắc Giang)
và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các bức chạm hoặc

tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình con


hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khắc có cả đám nhạc cơng đang hịa nhạc trong
đó có một người đàn ông cầm đàn đáy. Tác phẩm điêu khắc dân gian này cho thấy Ca
trù đã có mặt trong những sinh hoạt văn hóa đình làng tại các làng quê thế kỷ XVI.
Thế kỷ XVII và XVIII, tổ chức GP Ca trù đã hồn bị. GP Ca trù khơng những
được biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các làng xã mà còn vượt ra khỏi
địa phương để tham gia các nghi thức tiếp khách của nhà nước. Văn bia Bản huyện
GP lập đoan bi ký, soạn năm Long Đức 3 (1734) ghi việc GP An Thanh, huyện Lập
Thạch (Vĩnh Phúc) đã được mời về kinh đơ để hát xướng tiếp đón sứ bộ các nước. Từ
đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật Ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những
đại diện của âm nhạc nước ta được đem giới thiệu trong hoạt động đối ngoại quốc gia.
Nhiều tư liệu văn bia về hát cửa đình với lượng thơng tin phong phú cho thấy suốt thời
gian lịch sử lâu dài (ít nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích Ca trù, coi
việc thưởng thức Ca trù như một nhu cầu văn hóa, và quan trong hơn, việc biểu diễn
Ca trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả đào kép lẫn GP.
Thế kỷ XIX ghi dấu sự hồn thiện của thể cách Hát nói – đỉnh cao phát triển
của nghệ thuật Ca trù. Hát nói là một thể thơ ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ
môn nghệ thuật Ca trù và trở thành một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt Nam
nói chung và văn học chữ Nơm nói riêng.. Hai tác giả có cơng hồn thiện thể Hát nói
là Nguyễn Bá Xuyến và Nguyễn Công Trứ. Trong giai đoạn này, Ca trù ở ca quán đã
được tinh giản chỉ gồm phách, đàn đáy và chiếc trống chầu nhỏ xinh. Thơ nương vào
nhạc, nhạc phục vụ cho thơ. Người nghe nhằm đến việc thưởng thức thơ là chính.
Cảm xúc cộng đồng nhường chỗ cho cảm xúc cá nhân.
Từ khi ra đời đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Ca trù chủ yếu tồn tại ở khu
vực phía Bắc (Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây cũ, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hải Phòng, Huế,
…). Đến năm 1940, một nghệ nhân Ca trù ở Hải Phịng khi đó mới 16 tuối đã dẫn một
số đào kép vào Phú Nhuận, Sài Gòn mở ca quán. Ca trù lan rộng khắp Việt Nam vào
nửa đầu thế kỷ XX.



Trước năm 1945, tại Huế vẫn diễn ra các nghi lễ cung đình chúc thọ hồng đế.
Trong nơng thơn Việt Nam các GP vẫn duy trì nền nếp sinh hoạt Ca trù, phục vụ việc
hát thờ ở đình làng mỗi khi vào hội và hát chơi ở các nhà dân khi có khoa cử. Một số
GP ở nơng thơn đã di chuyền ra tỉnh và dọc các trục đường giao thông để mở nhà hát.
Ở miền Trung, các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đều có các nhà hát cơ đầu; Ở
miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát. Những năm cuối thập niên 30 thế kỷ
XX, Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cơ đầu tập trung trước thì ở Hàng Giấy, ấp
Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã,
… Trong số đó Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với
những văn nghệ sĩ tên tuổi: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ
Hồng Chương, Thế Lữ, Xn Diệu. Nguyễn Bính…
Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt Ca trù vốn tao nhã và sang
trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một
số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt Ca trù ra khỏi đời
sống văn hóa. Ca trù đã khơng được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên,
không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ
nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình.
Nhạc sĩ Nguyễn Xn Khốt là người có công đầu khơi lại giá trị nghệ thuật
của Ca trù. Kế đó năm 1976, Giáo sư Trần Văn Khê đã ghi âm tiếng hát của nghệ nhân
Quách Thị Hồ đem đi giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế
của UNESCO và viện Nghiên cứu Quốc tế về âm nhạc so sánh đã trao bằng danh dự
cho nghệ nhân Qch Thị Hồ vì cơng lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ mơn có
giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Từ đó, tên tuổi của bà cùng tiếng hát Ca trù độc đáo
của Việt Nam trở nên vang lừng trong bốn biển.
Sau một thời gian dài trầm lắng, với những nỗ lực của các nghệ nhân, các nhà
nghiên cứu và những khán giả, bộ môn nghệ thuật truyền thống này đã được hồi sinh.
1/10/12009, Ca trù Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào danh sách Di
sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Từ khi được UNESCO vinh danh,



nhiều cuộc liên hoan nghệ thuật Ca trù được tổ chức, nhiều câu lạc bộ Ca trù ra đời,
ngày càng có thêm nhiều người theo học và thưởng thức Ca trù. Nghệ thuật Ca trù đã
và đang tìm lại cho mình một chỗ đứng trong đời sống văn hóa phong phú đa dạng
hôm nay.
1.2.2. Một số đặc trưng cơ bản
1.2.2.1. Đặc trưng nghệ thuật
* Thứ nhất, nhạc khí của Ca trù bao gồm đàn đáy, phách và trống chầu.
Đàn Ðáy là một loại đàn đặc biệt do người Việt Nam sáng tạo được dùng riêng
để đệm cho Ca trù. Thùng đàn hình vng, cần dài, thường có ít nhất 11 phím, có 3
dây (bằng tơ tằm hoặc sợi cước), khi đánh dùng móng và sử dụng một số kỹ thuật
nhấn nhá riêng để tạo những âm thanh đặc trưng của Ca trù. Có thể nói đây là cây đàn
có cần đàn dài nhất trên thế giới. Do cần đàn rất dài, phím đàn rất cao nên có những
ngón độc đáo như ngón nhấn, ngón láy, ngón chùng, tiếng đàn ngón luyến thấp nghe
mềm mại, độc đáo. Trong diễn tấu Ca trù, đàn đáy không chỉ là nhạc cụ đệm mà nó
cịn đóng vai trị là tiếng nói đối thoại với giọng hát, tiếng phách và tiếng trống trầu.
Phách là nhạc khí làm bằng tre hoặc gỗ dùng để đệm cùng với tiếng hát của đào
nương. Cỗ phách gồm bàn phách và lá phách. Hai lá phách nhỏ luôn luôn chập làm
một khi gõ gọi là phách con, lá phách tròn còn lại được gọi là phách cái. Khi phách
con và phách cái chơi sẽ tạo nên những âm thanh rất khác biệt. Người chơi cỗ phách
trong suốt quá trình diễn tấu sẽ ngẫu hứng tạo nên những tiết tấu cỗ phách. Tuy vai trò
giữ nhịp của phách trong Ca trù tương tự như mõ trong hát chèo, phách trong chầu
văn song Ca trù không đơn thuần sử dụng tiếng phách đơn lẻ mà dùng các khổ phách
(phách khoan, phách mau, phách dóc, khổ song, khổ siết) trong đó có sự kết hợp nhiều
tiếng phách khác nhau. Từ đó tạo cho tiếng phách trong Ca trù rất nhiều tiết tấu, màu
sắc và góp phần khắc họa lời thơ được cất lên. Đây chính là điểm độc đáo của tiếng
phách trong Ca trù.
Trống chầu Ca trù khác trống chầu trong Tuồng, Hát bội, từ kích thước đến
cách đánh. Trống chầu có đường kính khoảng 15 cm, tang trống bằng gỗ mít, cao

khoảng 18cm. Dùi trống còn gọi là roi chầu, được làm bằng gỗ găng. Người cầm chầu


(đánh trống chầu) là quan viên, phải sành Ca trù. Nghe tiếng chầu, thính giả biết giá trị
và phong cách của người cầm chầu.
Có thể nói, trống chầu là nhạc khí giữ vai trị như sợi dây liên hệ giữa người
nghe hát và người hát, người đàn. Khi đã cùng hịa trong một canh hát thì tiếng trống
sẽ trở thành nhạc cụ thứ ba sau phách và đàn nhằm tôn vinh tiếng hát với lời thơ. Tất
cả trở thành một bản hịa tấu vơ cùng phong phú của nhiều âm sắc, nhiều tính năng
khác nhau và ln có sự thay đổi, biến hóa khơng ngừng.
* Thứ hai, đặc trưng về kỹ thuật thanh nhạc.
Ngoài hát Tuồng với những kỹ thuật phong phú và độc đáo, các bộ môn ca nhạc
cổ truyền như Quan họ Bắc Ninh, Ca Huế trong nhạc thính phịng cũng khơng có kỹ
thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như Ca trù.
Trong khi hát chèo, người nghệ sĩ lấy hơi chủ yếu là từ khoang miệng, trong hát
quan họ, người nghệ sĩ lấy hơi ở khoang miệng và cổ họng; thì hát Ca trù, người nghệ
sĩ lấy hơi không chỉ ở khoang miệng hay cổ họng mà còn lấy hơi ở khoang mũi nữa.
Tất cả các kỹ thuật đổ hột, sang hơi, đổ con kiến đều ở nơi cổ họng của đào nương.
Đạt được như vậy, tiếng hát của đào nương sẽ trở nên tinh tế, giàu âm sắc và đạt được
đến sự biểu cảm cao nhất. Quá trình luyện tập cách lấy hơi là một khổ luyện thật sự.
Quan trọng nhất là học lấy hơi cho ra chất riêng của Ca trù. Do đặc điểm của lối giữ
hơi, nhả chữ và luyến láy trong lối hát mà đào nương Ca trù có khóe miệng ln đoan
trang, đài các, đơi mơi cắn chỉ ln mím lại, khi đổi giọng sang hơi thì chỉ rung lên
khe khẽ. Nghệ sĩ Nhân dân Quách Thị Hồ là một bậc thầy về kỹ thuật luyến láy trong
nghệ thuật Ca trù Việt Nam trong thế kỷ 20.
* Thứ ba là đặc trưng về thể cách Ca trù
Thể cách là một thuật ngữ chỉ sử dụng riêng trong Ca trù mà không thấy ở các
bộ môn ca nhạc khác, được dùng để chỉ các làn điệu hát, hình thức diễn xướng múa,
diễn, nghi lễ, việc thi cử trong Ca trù. Tư liệu Hán Nôm đã ghi nhận 99 thể cách với
66 điệu thuần túy hát/nói/ngâm và 33 điệu có kèm diễn xuất tổng hợp trong nghi lễ hát

múa diễn. Có thể kể ra đây một số thể cách Ca trù phổ biến, còn lưu lại đến ngày nay:
Hát nói, đọc phú, giáo trống, giáo hương, thét nhạc, ngâm thơ, hát truyện, bắc phản, tỳ


bà hành, hát giai, hát ru, non mai, hồng hạnh, hát mưỡu, chừ khi, đại thạch, hồi loan,
gửi thư... Sự phong phú của các thể cách Ca trù có thể được giải thích bởi sự đa dạng
trong lối hát và hình thức biểu diễn của nghệ thuật này.
* Thứ năm, thơ là một thành tố quan trọng trong nghệ thuật Ca trù
Trong Ca trù, thơ và nhạc luôn đi bên nhau tạo nên một cảm xúc thẩm mỹ rất
đặc biệt, thơ và nhạc vừa tôn vinh nhau, vừa độc lập với nhau.
Trong số 34 thể Ca trù mà thư tịch Hán Nơm có ghi nhận về lời thơ thì các thể
thơ được dùng trong Ca trù là : thể lục bát được dùng trong 17 thể Ca trù; thể song
thất lục bát được dùng ở một thể Ca trù; thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài được
dùng trong 3 thể Ca trù; thể thơ Đường luật (thất ngôn, tứ tuyệt) được dùng trong 8
thể Ca trù; thể phú được dùng trong một thể Ca trù; thơ Đường luật trường thiện được
dùng trong 2 thể Ca trù; thể Hát nói là thể riêng của Ca trù. Trong đó, thơ lục bát là thể
thơ được sử dụng phổ biến trong Ca trù, nhất là trong các điệu: Bắc phản Hồng Hạnh,
Non mai, Đại Thạch…
Đặc biệt, trong các thể thơ dùng trong Ca trù thì thể Hát nói để lại số lượng
nhiều nhất, và được ưa chuộng nhất. Hát nói đã gắn với các tên tuổi lớn trong lịch sử
văn học Việt Nam như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tản Đà…
* Múa
Múa cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên nét đặc sắc,
riêng biệt của nghệ thuật hát Ca trù. Tuy nhiên, những điệu múa chỉ sử dụng trong một
số không gian nhất định: múa Bài Bông (thường được biểu diễn trong hát cửa đình),
múa Đại Thạch (thường được biểu diễn trong hát thờ và hát thi), múa Bỏ Bộ và múa
Tứ Linh (chỉ có trong hát thờ)...
1.2.2.2. Thành phần tham gia trình diễn
Một chầu hát Ca trù cần có ba thành phần chính: đào nương, kép đàn và người
cầm chầu. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phịng, khơng gian trình diễn Ca trù có

phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép đàn ngồi chếch phía bên
trái, quan viên ngồi chếch bên phải đào nương.
Đào nương hay ca nương (còn gọi là ả đào) là người hát đồng thời sử dụng bộ
phách gõ lấy nhịp. Một đào nương phải đạt được những yêu cầu rất kỹ lưỡng, khắt


khe cả về đức hạnh và tài năng: phát âm đầy đủ và đúng dấu giọng của 6 thanh tiếng
Việt, khơng nói ngọng, nói lắp, khơng ngắn lưỡi, đầy lưỡi; có chất giọng có thể hát
được Ca trù, gọi là “giọng kim” hoặc “giọng thổ đồng”; có tâm với nghề và bền lòng
với nghệ thuật… Bên cạnh chất giọng đẹp được rèn cặp kỹ lưỡng, đào nương cịn cần
có năng lực cảm thụ văn chương mới có thể phơ diễn ý thơ một cách đúng và hay
nhất. Đào nương xưa phải tuân thủ hàng trăm thứ kiêng kỵ, cốt làm sao giữ cho được
tiếng hát đẹp màu âm sắc và giữ được tiếng thơm cho nghề. Sự tồn tại của Ca trù ln
gắn liền với các đào nương “khơng có đào nương bất thành Ca trù”. Các đào nương
chính là những người truyền tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của Ca
trù, giúp Ca trù tồn tại cho đến ngày nay.
Kép đàn: nhạc công chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát. Kép không đàn theo
một bản nhạc cố định và không đi sát theo nét nhạc của lời ca mà chỉ đàn theo những
khổ đàn để mở đầu, theo nét nhạc của lời ca, có lúc chỉ đàn theo tiếng phách.
Người cầm chầu là người lịch lãm, biết thưởng thức vẻ đẹp của văn chương và
âm nhạc. Cầm chầu là một thú chơi tao nhã của bậc tao nhân mặc khách. Họ phải là
người sành về Ca trù, am hiểu thấu đáo âm luật Ca trù mới có thể cầm roi được, ít nhất
phải biết 5 phép trống dục, 6 phép trống chầu và nhiều cách biến hóa khác nữa.
Người cầm chầu có vai trò: chấm câu khi ca nương ca hết 1 đoạn, tức là tham
gia vào sự biểu diễn; khích lệ nghệ sĩ, biểu lộ sự khen chê (khi nghe một câu ca hay,
luyến láy khéo thì phải có một tiếng khen bằng cách gõ trên tang trống hay phối hợp
cả tiếng “chat” và tiếng “tom” theo những công thức đã được qui định); định hướng
quần chúng (thường quần chúng không biết được ca thế nào là hay, đàn thế nào là
khéo, nhờ tiếng khen của trống chầu mà biết được cách nghe và nhận thức được
những điểm hay của Ca trù).

1.2.2.3. Lề lối sinh hoạt và khơng gian trình diễn
Theo khảo sát từ các nguồn tư liệu Hán Nôm, sinh hoạt Ca trù được dùng trong
các dịp:
- Hát thờ: hát thờ Tổ (còn gọi là tế tiên sư), hát thờ Thành hồng trong các đình
làng, hát thờ thần trong các đền miếu. Trong hát thờ thường hát về những bài sử, về


kinh truyện và sự tích danh nhân. Cách hát rõ ràng, cần nhiều hơi, cao giọng để mọi
người cùng nghe rõ, điệu bộ nghiêm trang. Hát cửa đình gồm có 12 thể: Giáo trống,
Giáo hương, Dâng hương, Thét nhạc, Hát giai, Đọc phú, Đọc thơ, Gửi thư, Đại thạch,
Bỏ bộ, Múa bài bông (múa), Tấu nhạc và múa tứ linh (múa).
- Hát chơi: hát khao trong các tư gia (mừng nhậm chức, sinh con trai, khánh
thành nhà, đám cưới), hát chơi trong dinh thự, hát chơi ở ca quán. Hát chơi thường hát
những bài tả tình, tả cảnh với sự phóng khống, phong lưu, tình tứ. Hát chơi gồm có
15 thể: Bắc phản, Mưỡu, Hát nói, Gửi thư, Đọc thơ-thỏng-dồn, Đọc phú, Chừ khi (có
nơi gọi là Chử khi), Hát ru, Nhịp ba cung bắc, Tỳ bà, Kể truyện, Hãm, Ngâm vọng,
Sẩm cơ đầu, Ả phiền (riêng Ả phiền có tới 20 giọng).
- Hát thi bao gồm các trường hợp: cuộc thi do Hội đồng chức sắc tổ chức thi
giữa các GP với nhau nhằm chọn đào kép hay nhất vào hát thờ ở cửa đình, phục vụ lễ
hội địa phương; cuộc thi do ty GP tổ chức để chọn đào kép hay để hát chúc hỗ trong
các khánh tiết nhà nước; cuộc thi do GP tổ chức để công nhận người đào nương đã đạt
trình độ được phép hành nghề hoặc đạt đến đẳng cấp được vào hát thờ Tổ trong lễ tế
tiên sư. Có thể thấy hiếm có lối hát cổ truyền nào lại xâm nhập sâu rộng hầu hết các
sinh hoạt văn hóa tinh thần như Ca trù.
Từ lề lối sinh hoạt, có thể thấy khơng gian trình diễn Ca trù bao gồm: nơi linh
thiêng (đền miếu, đình làng, nhà thờ Tổ), nơi trang nghiêm (cung đình), tư gia (dinh
thự, nhà dân), ca quán. Tùy thuộc vào đặc thù khơng gian trình diễn mà bộ mơn nghệ
thuật này có những quy định, nghi lễ, lề lối biểu diễn riêng.
1.2.2.4. Tổ chức GP
GP là một tổ chức hội tụ những người làm nghề ca múa nhạc dân gian; do một

người có chun mơn và có uy tín đứng đầu, lo việc cắt cử nghệ sĩ đi hát phục vụ theo
lời mời, lo việc quản lý nghệ sĩ và coi sóc việc truyền nghề, giữ gìn nghề. GP là từ chỉ
riêng của nghề hát Ca trù (ở Chèo gọi là phường Chèo, gánh Chèo; ở vùng hát Xoan
gọi là phường Xoan,…).


×