Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Viet chu dep da loi thoiNen xem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.74 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Viết chữ đẹp đã lỗi thời? </b>



<b>- Nhìn nhận thế nào về tâm lý trầm trồ khi thấy những bản viết tay “chữ đẹp như in”</b>
<b>của các học trò nhỏ khi tham gia các cuộc thi ‘luyện chữ”?</b>


Theo GS Nguyễn Ngọc Lanh, chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện… phải rầm rộ đi thi
“chữ đẹp” thể hiện triết lý rất lỗi thời. Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân vào
những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho “thành tích” của người có quyền, nhưng - vơ bổ đối với sự
nghiệp tương lai của chính các em?


Dưới đây là phân tích của ơng. VietNamNet mong nhận được các ý kiến trao đổi. Thư gửi về:


<b>Khơng có chữ, phải đi mượn; lại mượn phải thứ chữ rất khó viết</b>


Ba ngàn năm khơng có chữ, tới thiên niên kỷ thứ tư, tổ tiên ta đành chấp nhận chữ Hán.


Khổ! Đây là thứ chữ tượng hình; viết chữ gần như “vẽ chữ”. Sự sáng tạo chung quy chỉ là thay
đổi cách đọc chữ Hán cho lọt tai người Việt - nghĩa là tạo ra các từ Hán-Việt. Viết như nhau,
Trung Quốc đọc là “zẩn mỉn” còn ta đọc là “nhân dân”. Tới nay, các từ Hán-Việt chiếm tới quá
bán hoặc 2/3 kho từ vựng của ta. Vui hay buồn?


Cứ bảo chữ Hán thịnh hành suốt ngàn năm trước. Kỳ thực, nó độc tơn, chứ “thịnh hành” cái nỗi
gì mà chỉ 1% dân biết chữ?


Nói khác, tới 99% dân ta không đọc nổi, mà nghe người khác đọc hộ cũng không hiểu.


Hẳn là, 99% các cụ ta thời xưa nghe đọc câu “<i>Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện</i>” (học không
chán, dạy người không mỏi) và “<i>Tiên giác giác hậu giác</i>” (người biết trước dạy cho người biết
sau) cũng giống như vịt nghe sấm?



Đã thế, dùng chữ Hán không thể ghi lại kho tàng văn hóa dân gian do người Việt sáng tạo. Lưu
giữ bằng cách “truyền miệng” thì làm sao tránh khỏi thất thoát lớn?


<b>Giải quyết bằng sáng tạo ra chữ Nôm: Vẫn rơi vào lẩn quẩn!</b>


Chữ Nôm ghi lại tiếng Việt (ca dao, tục ngữ, văn thơ Việt). Nghĩa là khi đọc văn Nôm, người
Việt mù chữ vẫn hiểu. Tổ tiên ta càng thêm hứng khởi sáng tác bằng chữ Nơm. Chính nhờ chữ
Nơm mà <i>truyện Kiều</i> ra đời…


Nhưng đó là cái vịng lẩn quẩn. Vì cách phổ biến nhất để tạo ra chữ Nơm là ghép hai chữ Hán lại
làm một: Trong đó, một chữ dùng để chỉ “nghĩa”, còn chữ thứ hai để chỉ “âm”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chữ Hán (và giỏi đoán) mới học được, đọc và viết được chữ Nôm. Số người biết chữ Hán vẫn chỉ
1%; biết Nôm càng dưới 1%.


<b>“Văn hay” phải kèm “chữ tốt: Chuyện đương nhiên thời xưa</b>


“Văn hay, chữ tốt” là câu cửa miệng của người xưa nói về thành cơng trong nghiệp học.


Thời xưa, học vấn của một người được đánh giá ở “văn”. Nhưng “văn” chứa trong… bụng (các
cụ nghĩ thế), dù hay đến mấy vẫn phải thể hiện bằng chữ thì người khác (ví dụ, người chấm thi)
mới đánh giá được. Do vậy “văn hay” phải có cả “chữ tốt”.


Luyện “chữ tốt” thời xưa gian khổ gấp trăm (hay ngàn) luyện chữ quốc ngữ thời nay.


Viết chữ gần như “vẽ chữ”, thiếu hay thừa một nét là thành vô nghĩa hoặc khác nghĩa (sai một ly
đi một dăm). Hàng ngang, hàng dọc cứ đều tăm tắp. Tập viết chữ Hán là nỗi vất vả và sợ hãi của
học trị xưa, vì đây là chính giai đoạn rất dễ bị “ăn roi” của thầy.


Nhưng trên mức “chữ tốt” cịn có mức “chữ đẹp” (cực tốt) nữa. Nhưng đó là chuyện năng khiếu,


“hoa tay”…, chỉ dành cho số ít người.


Thời ấy, chỉ cần “văn hay, chữ tốt” là đủ để công thành danh toại. Thời nay, nếu chỉ hành văn
trơn tru và viết chữ đẹp - tuy vẫn là ưu điểm - nhưng chưa nói được gì nhiều.


Phúc thay! Từ năm 1915, nước ta đã thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ. Để thanh toán mù chữ,
thuở xưa cần 3 năm; thì thời nay chỉ cần 3 tháng. Để luyện “chữ tốt” cũng vậy.


<b>Thứ bậc giữa “văn hay” với “chữ tốt”</b>


Một cách vắn tắt, làm văn là việc của cái đầu, viết chữ do cái tay.


- Khi vua muốn ban ra một chiếu chỉ, một đạo sắc phong, một lời khuyến dụ… thì các vị “văn
hay” sẽ lĩnh ý và thảo ra văn bản. Họ phải dùng lời văn thích hợp và viết bằng thứ “chữ tốt” để
vua duyệt. Sau đó, sẽ có những người “chữ cực tốt” sao chép thành nhiều bản để gửi đi các nơi.
Như vậy, người “văn hay” là quan, gần gũi vua; còn người “chữ đẹp” chỉ là những thư lại, có khi
cả đời khơng thấy long nhan.


Ở cấp địa phương (đạo, trấn, tỉnh, huyện) vị đứng đầu chính quyền vẫn là người “văn hay”, cịn
trong số phụ tá có vài người “chữ tốt” (lo việc sổ sách, sao chép văn thư…).


Dẫu sao, thời xưa người “chữ tốt” (nhất là “chữ đẹp”) vẫn có việc làm phù hợp. Cịn thời nay,
khó kiếm kế sinh nhai thuần túy chỉ bằng “chữ đẹp”. Bởi vì, máy đã thay thế. Người viết đẹp nhất
cả nước cũng chỉ “đẹp như chữ đánh máy”, hoặc “như chữ sách in”(!).


<b>Thi chữ đẹp</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phải nói thêm: Viết chữ đẹp, thêm óc sáng tạo, tâm hồn nghệ sĩ… vẫn có thể “sống tốt” bằng
nghề thư pháp. Thực tế, sản phẩm của các nhà Thư Pháp ở ta thường là để tặng.



Còn chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện… phải rầm rộ đi thi “chữ đẹp”, thì đấy là
chuyện khác. Nó thể hiện một triết lý rất lỗi thời (mà người có quyền cứ tự ý áp đặt, dưới danh
nghĩa nào đó - ví dụ, để rèn “nết người” - cho đại trà vài chục triệu đứa trẻ), nguy hiểm hơn cả
bệnh “thành tích”, bệnh “phong trào”.


Số người dựa vào “chữ tốt” để sinh nhai cứ hiếm dần. Vậy, các bậc cha mẹ thời nay nếu có ý
định đầu tư tiền của và công sức cho con cái về “chữ tốt” cần suy nghĩ cho kỹ.


<b>Rèn chữ</b>


- Thời xưa, không rèn chữ sẽ thiệt thịi nhãn tiền. Vì đó là thứ chữ khó viết và dễ sai sót dẫn đến
sai nghĩa. Những người “văn hay” thì địa vị xã hội khơng thấp. Họ phải thảo ra những văn bản
“chữ tốt”, để cho đám “chữ cực tốt” khỏi nhầm lẫn khi sao chép.


Nếu họ là các bậc uyên thâm, họ còn sáng tác (Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú,
Nguyễn Du…) và có cả một đội ngũ “chữ tốt” sao chép thành hàng trăm cuốn sách. Cho tới khi
con người biết khắc chữ vào tấm ván để in ra hàng loạt thì bản gốc càng phải viết bằng thứ “chữ
tốt” để thợ khác khỏi nhầm lẫn (rất khó sửa).


- Thời cận đại, khi đã có chữ quốc ngữ, có máy chữ và máy in, các vị Nguyên Hồng, Nguyễn
Huy Tưởng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… vẫn phải rèn chữ để bản thảo đỡ tốn giấy (giấy rất đắt,
phải viết bằng thứ chữ nhỏ li ti) và để thư ký gõ máy chữ khỏi nhầm lẫn; và để thợ in đỡ mắc lỗi
khi xếp chữ. Điều khác xưa: người đánh máy chữ và thợ xếp chữ in không cần “chữ tốt” nữa. Các
nhà văn thế hệ sau làm việc lúc giao thời, nhưng thích nghi rất nhanh: từ viết tay, họ chuyển sang
dùng bàn phím.


<b>“Chữ đẹp” đến mức nào là đủ?</b>


Đã đi học thì phải tập viết. Cứ cho rằng trong tương lai không xa, mỗi học sinh sẽ sở hữu một
máy tính gọn nhẹ (mang theo tới lớp) trong chứa sẵn toàn bộ sách giáo khoa và tài liệu tham


khảo; cứ cho rằng họ sẽ được dạy sử dụng bàn phím thành thạo tới mức gõ chữ nhanh hơn viết
(quả vậy đấy: gõ một chữ trên bàn phím để nó hiện ra màn hình vẫn nhanh hơn viết chữ đó ra
giấy)... Nhưng, dứt khốt, họ vẫn phải tập viết. Vì trong cuộc đời, có lúc họ phải viết chứ khơng
chỉ trơng cậy vào máy vi tính mà xong.


Vậy, cần tập viết tới mức nào? Chẳng cần cãi nhau cho mất thì giờ; mà cứ xem “người ta” đã
làm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

2) Họ phải tập viết nhanh, vì thời cơng nghiệp địi hỏi tiết kiệm thời gian.
3) Họ chỉ viết ngắn. Nếu cần viết dài, đã có vi tính và máy in.


Thế là đủ.


Nhưng khi cần viết nhanh, nét chữ lại trở về kiểu “vốn có”


Thời gian lẽ ra dành cho tập viết như hiện nay (nhất là để thi “chữ đẹp”) liệu có nên dùng để dạy
các cháu sử dụng bàn phím? Nhiều phụ huynh đã nhận ra lợi hại.


- Điều không lạ, những bài được giải “chữ đẹp” đều có nét chữ na ná như nhau, vì cùng được dạy
theo một mẫu, mặc dù internet đã miễn phí rất nhiều mẫu chữ cực đẹp.


- Điều không lạ nữa: Khi phải viết nhanh, những người được giải lại trở về cách viết cố hữu của
mình. Chữ là người. Chính do vậy, ta mới có thể “<i>đốn tính cách con người theo nét chữ</i>”. Rút
ra: nét chữ (để thi) chẳng liên quan gì tới “nết người”. Chớ ngộ nhận.


Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân vào những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho
“thành tích” của người có quyền, nhưng - vơ bổ đối với sự nghiệp tương lai của chính các em?
Mà tuổi thọ của dân ta chưa phải quá cao so với các dân tộc khác, để các cháu tiêu tốn tuổi trẻ
vào việc này.



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×