Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp giúp giáo viên rèn kỹ năng sống cho HS tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.21 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ
đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo
đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, phân phân biệt đúng sai làm
theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi
thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức. Chính vì vậy
việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người làm
công tác giáo dục cần quan tâm.
Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là địi hỏi thường xun của cơng tác
giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong
cơng tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được
quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng khơng kém quan trọng, và
bằng nhiều nhiều hình thức, nhiều con đường khác nhau. Qua việc rèn kĩ năng sống
sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ . Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu học
rèn luyện hành vi và thói quen tốt ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của
học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ
ràng về nhân cách tồn diện. Nếu khơng rèn kĩ năng sống thì khơng những sự ứng
xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà
việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng
những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm
khơng thống nhất với nhau đó là lời nói khơng đi đơi với việc làm dẫn đến hiện
tượng lệch lạc về nhân cách .
Thực trạng hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học cịn
ít và nhiều hạn chế, chưa có nét chuyển biến. Nguyên do chính là trong tư tưởng
giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức. Giáo viên chưa nhận
thức hết được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình
dang dạy mà mới chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt …
Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các em hay quên. Nói trước quên sau và
chưa có khả năng vận dụng những điều đã học, áp dụng vào thực tế. Tâm lý độ tuổi
cho thấy rằng các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp


đặt. Song các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cơ giáo, thầy cơ bảo đọc, bảo
chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại, dần dần dẫn đến thói quen.
Nếu nói rằng thầy cơ giáo khơng quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không
đúng, nhưng việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào
tất cả các mơn học, giáo viên cịn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Để
có những chuyển biến rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, với trách nhiệm của
người giáo viên trực tiếp đứng lớp, lại là giáo viên chủ nhiệm, tôi hết sức băn
khoăn, trăn trở. Vì thế, tơi mạnh dạn nghiên cứu tìm các biện pháp giúp giáo viên
rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hưng Lộc I.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
1


Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thơng qua các mơn học
và hoạt động ngồi giờ lên lớp.
Giúp học sinh nhận thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội.
Giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình, có hành vi,
thói quen ứng xử văn hóa, hiểu biết và chấp hành đúng pháp luật.
Giúp học sinh có đủ khả năng thích ứng với mơi trường xung quanh từ chủ
động, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban
đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
4 ở trường học. Nâng cao kĩ năng sống và hình thành nhân cách tốt cho học
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Đội ngũ giáo viên trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Học sinh lớp 4B và khối 4 trong trường TH Hưng Lộc I.
- Chương trình lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong chiến lược phát triển bền vững, việc giáo dục kỹ năng sống cho con
người ngay từ khi cịn nhỏ là hồn tồn đúng đắn bởi lẽ, sự lặp đi lặp lại những
hành vi lành mạnh sẽ hình thành những thói quen tốt ăn sâu vào tiềm thức, chi phối
lối sống của trẻ, song hành với các em trong suốt quá trình hình thành và phát triển
nhân cách ở bậc học tiểu học. Đó là lý do cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Tiểu học..Giúp các em tự chủ, tự tin trong cuộc sống, tự nhận thức bản thân, phát
huy thế mạnh cá nhân. Giúp các em rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt như
khiêm tốn, khoan dung, giản dị, trung thực..., biết ứng xử đúng mực, linh hoạt trong
những tình huống khó khăn của cuộc sống. Giúp các em ý thức và có năng lực thực
hiện bổn phận cũng như bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ mình trước những vấn đề của
xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống an tồn, lành mạnh của các em, phịng
ngừa những hành vi có hại cho sự phát triển cuả bản thân.
"Kỹ năng sống" là những kỹ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân
tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống
có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹ năng sống đơn
giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với
những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp
với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mính, biết
2


cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự
lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.
Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường Tiểu học, áp dụng phương

pháp học trung tính là phương pháp học tập thơng qua các giao tiếp tích cực với
những người khác. Ở Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất
nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo
dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế
kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là : học để biết, học để làm,
học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống .
2.2 Thực trạng về kĩ năng sống của học sinh và việc rèn kĩ năng sống cho
học sinh trong trường Tiểu học hiện nay.
*Về phía giáo viên
Ưu điểm: Tất cả giáo viên tham gia dạy chương trình giáo dục kĩ năng sống
đều được học tập phương pháp qua các lớp tập huấn cơ bản. Họ có nhận thức đúng
đắn về vai trị của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung giáo viên có sự thích ứng trong việc tiếp cận các phương pháp,
chuẩn bị bài, lập kế hoạch giáo dục lồng ghép khá tỉ mỉ và chi tiết. Một số giáo viên
đưa ra được các hình thức dạy học khá sáng tạo, thu hút được học sinh trong học
tập. Bản thân các giáo viên cũng ý thức được việc rèn luyện mình để trở thành tấm
gương trước học sinh
Tồn tại: Vẫn cịn có giáo viên chưa nắm chắc về nội dung giáo dục kĩ năng
sống theo từng khối lớp, chưa biết vận dụng linh hoạt nhưng kế hoạch, định hướng
chung của nhà trường để đưa vào kế hoạch cụ thể rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp
mình.
Một bộ phận giáo viên chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức của sách giáo khoa,
chưa đầu tư thời gian tìm tịi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức cho
các hoạt động nên chưa tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh.
Nguồn tài liệu, phương tiện cho cơng tác rèn kĩ sống cịn hạn chế. Giáo viên
mới chỉ tham khảo qua các tài kiệu đọc ( sách, tạp chí,...) mà cịn thiếu các phương
tiện nghe nhìn ( máy chiếu, ti vi, loa, micro,…).
*Về phía học sinh:
Ưu điểm:

Học sinh khá hào hứng khi được học về các nội dung giáo dục kĩ năng sống,
một số học sinh mạnh dạn thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình trong học tập, có
em cịn tham gia thiết kế các hình thức học tập cùng giáo viên chủ nhiệm. Trong
các hoạt động tập thể, có em cịn tự tin điều hành các hoạt động thường xuyên của
lớp, của trường như: Chủ tịch Hội đồng tự quản điều hành buổi sinh hoạt lớp,
Trưởng ban đối ngoại biết cách giao tiếp với thầy cô hoặc khách đến thăm lớp,
Liên đội trưởng điều hành buổi lễ chào cờ,…

3


Tồn tại: Một bộ phận học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe là làm
theo thầy cô giáo, ít tính sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
Học sinh chỉ chú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống cịn kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy gây gổ lẫn
nhau.
Kĩ năng giao tiếp còn hạn chế, vẫn cịn hiện tượng sử dụng lời nói chưa đẹp,
chưa văn minh trong trường học.
*Về phía phụ huynh:
Ưu điểm: Một số phụ huynh có nhận thức tốt, ủng hộ chương trình giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh, hỗ trợ rất nhiều cho giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt
động như: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, thăm hỏi học sinh ốm đau.
Tồn tại: Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.
Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con, họ chỉ chú trọng đến việc dạy con mình
biết đọc, biết viết, biết làm tốn mà khơng cần quan tâm đến việc con được học kĩ
năng sống nào khi đến trường.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tịi kiến thức mà qn
hướng cho con em mình làm tốt hoạt động tập thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử
trong gia đình. Một bộ phận phụ huynh chưa chú ý giao tiếp trong gia đình, xưng
hơ chưa chuẩn mực nên các em cũng bị ảnh hưởng, lựa chọn ngơn ngữ xưng hơ

chưa đúng.
Có phụ huynh chiều chuộng con cái thái q khiến trẻ khơng có kĩ năng tự
phục vụ, họ chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn mà chưa chú ý đến việc dạy con mình
ăn, uống như thế nào, sử dụng đồ dùng vật dụng trong ăn uống như thế nào cho
đúng? Vì sao chúng ta cần dùng những đồ dùng, vật dụng đó?
Qua khảo sát thực tế ở hai lớp 4A và 4B trường Tiểu học Hưng Lộc I năm
học 2016 – 2017 ở tuần 4, tôi thu được kết quả như sau:
Kĩ năng

Lớp

Kĩ năng
Giao tiếp
HTT

HT

Kĩ năng
hợp tác
HTT HT

Kĩ năng
Kĩ năng
Kĩ năng
tự phục vụ thích khám kiểm sốt
phá, học hỏi bản thân
HTT HT

4A


22 em

2

20

7

15

8

4B

26 em

6

20

10

16

11

14
15

HTT HT


HTT HT

3

19

4

18

8

18

5

21

Những con số trên cho thấy rằng học sinh chưa có nhiều các kĩ năng cơ bản,
chưa thể hiện được bản thân. Đặc biệt, một số kĩ năng như giao tiếp, khám phá học
hỏi, kiểm soát bản thân cịn hạn chế, chưa có nhiều em hồn thành tốt. Đây là trăn
trở chung của những giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Vì thế tơi đã nghiên cứu và
áp dụng một số biện pháp để rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 như sau:
4


2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4.
2.3.1. Giáo viên cần nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng sống.
Trước hết phải khẳng định rằng, trong công tác giáo dục, muốn thành công ở

hoạt động dạy – học một môn học hay một lĩnh vực nào đó điều kiện đầu tiên là
người thầy phải có kiến thức vững vàng, nắm chắc phương pháp dạy học và hiểu rõ
mục đích dạy học. Trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh thì vấn đề trên càng
quan trọng. Bởi hiện nay, giáo dục kĩ năng sống chưa được gọi là một môn học độc
lập mà mới chỉ được lồng ghép qua các môn học, các hoạt động khác trong nhà
trường.
Theo tôi, giáo viên cần hiểu rõ rằng giáo dục kĩ năng sống là vấn đề cấp thiết
hiện nay. Thực tế cho thấy ở cả thành thị, nông thôn lẫn miền núi trẻ cung đang rất
thiếu kĩ năng sống. Nhiều trẻ thiếu tự tin, không biết cách giao tiếp, nhút nhát, chưa
biết cách tự bảo vệ mình. Những điều này học sinh cần phải có được trong cuộc
sống và nhà trường chính là nơi giúp các em tốt nhất.
Với học sinh lớp 4 các em ở độ tuổi bắt đầu cho giai đoạn thứ hai của lứa
tuổi Tiểu học. Tâm sinh lí đã bắt đầu thay đổi. Nếu các em nhận thức tốt, được giáo
dục trong mơi trường thuận lợi thì sẽ có những kĩ năng tốt, giúp các em ngoan hơn,
trưởng thành hơn và có thể sẽ thành cơng hơn. Ngược lại, ngay ở lứa tuổi này nếu
các em thiếu hoặc yếu về kĩ năng sống cơ bản thì có thể dẫn đến phát triển lệch lạc
về tinh thần, khó có thể thành cơng ở những năm tiếp theo…Tất cả những điều này
đòi hỏi ở người giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ và tìm
phương pháp, hình thức tốt nhất để rèn và trang bị cho các em những kĩ năng sống
cơ bản.
Ý thức được điều này, ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, tôi đã tiến
hành tìm hiểu hồn cảnh gia đình của học sinh, gần gũi trị chuyện để tìm hiểu tính
cách mỗi em. Thơng qua các giờ học, tơi tạo tình huống để các em thể hiện kĩ năng
của mình. Sau đó tơi phân nhóm học sinh theo từng kĩ năng, từng mức độ để có
phương pháp phù hợp.
Tìm hiểu tài liệu giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường cũng là việc cần
làm ngay. Chúng ta cần lưu ý rằng đầu sách trên thị trường rất nhiều vì vậy tơi đọc
và có sự lựa chọn những đầu sách phù hợp với điều kiện dạy học và chính học sinh
của mình.


Tài liệu giáo dục kĩ năng sống của NXB Giáo dục Việt Nam

5


Một số tài liệu tham khảo dành cho giáo viên
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi chia sẻ với đồng nghiệp các tài
liệu, phương pháp liên quan đến công tác rèn luyện kĩ năng sống, các biểu hiện của
những học sinh có kĩ năng sống tốt và chưa tốt. Từ đây, cùng nhau thảo luận để
nâng cao nhận thức của giáo viên trong công tác giáo dục kĩ năng sống.
Ví dụ: Em Mai Phương Thảo ( học sinh lớp 4B ) - trưởng ban đối ngoại của
lớp, là một học sinh ngoan, học lực giỏi và đặc biệt là có kĩ năng giao tiếp tốt. Em
rất thân ái với bè bạn, xưng hô với bạn bè bằng tớ - cậu, các cậu. Khi muốn được
bạn giúp đỡ, em Thảo thường bắt đầu bằng các cụm từ như: Tớ gặp khó khăn về
việc này quá, cậu có thể giúp tớ được không? / Cậu rảnh chứ? Tớ định nhờ cậu hỗ
trợ tớ chút việc.... Thảo cũng là học sinh mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình với
tơi và thường sử dụng các cụm từ: Em thưa cô, em nghĩ rằng.../Em thưa cơ, em
nhận thấy...Chính vì thế, Thảo ln được bạn bè yêu quý và tôn trọng. Tôi nhận
thấy Thảo là học sinh có thể hỗ trợ tơi đắc lực trong việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh trong lớp. Bên cạnh đó có em Đồn Quỳnh ( học sinh lớp 4B), học lực tốt, viết
chữ đẹp, ngoan ngoãn nhưng rất nhút nhát, ít nói, khi học bài thì phát biểu rất nhỏ
hoặc cơ giáo hỏi thì cố tình im lặng. Đây chính là em học sinh mà tơi phải lưu tâm,
có kế hoạch giúp đỡ.
Với cách làm việc và kế hoạch cụ thể như vậy, tôi đã lựa chọn được tài liệu
giảng dạy phù hợp, phân loại được các nhóm đối tượng học sinh, đặc điểm của
từng em trong lớp. Có được một số em học sinh cùng tham gia trong công tác giáo
dục, rèn luyện kĩ năng cho các em. Qua một thời gian, tất cả các em đề có sự tiến
bộ rõ rệt và lớp tơi thực sự là một lớp thân ái trong quan hệ trò – trò; thầy – trò.
2.3.2. Xác định tốt và cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng sống cơ
bản cần dạy cho học sinh lớp Bốn.

6


Qua nghiên cứu tài liệu, chương trình rèn luyện kĩ năng sống trong trường
Tiểu học, kết hợp với thực tế lớp học, tôi nhận thấy một số kĩ năng cơ bản cần tập
trung rèn luyện cho các em là: hợp tác, tự kiểm sốt, tự bảo vệ, tính tự tin, tự lập,
tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp, ứng phó với các tình huống trong cuộc
sống, tham gia giao thông... Sau khi xác định được nội dung rèn luyện, tơi tiến
hành tìm hiểu, lập kế hoạch cụ thể cho từng kĩ năng phù hợp với chương trình học
tập và rèn luyện của các em trong nhà trường.
+ Kỹ năng sống tự tin, tự lập : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo
viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, tự lập, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp
trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ ln cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở
mọi nơi.
Để giúp các em có được kĩ năng này, trong các buổi sinh hoạt lớp tơi thường
khuyến khích các em tự điều hành. Hội đồng tự quản thay nhau giữ vai trò chủ thể.
Các em tự nêu ý kiến, nhận xét, đánh giá, khích lệ lẫn nhau. Trong các giờ học, tơi
tổ chức các trị chơi giải trí, ban văn nghệ giữ vai trò quan trọng và thường xuyên
làm quản trị, giáo viên chỉ đóng vai trị tư vấn, ghi chép lại kết quả và góp ý cho
các em ở cuối giờ chơi, giờ sinh hoạt.

Giờ sinh hoạt lớp của mơ hình VNEN.
Trong giờ học, tơi thường xun tạo tình huống và đưa ra các câu hỏi để học
sinh mạnh dạn bày tỏ ý kiến cá nhân, tôi không bao giờ bác bỏ ngay nhưng ý kiến
chưa hợp lý của các em mà ln lắng nghe, ghi nhận, phân tích để các em tự rút ra
cái đúng. Từ đó khích lệ sự tự tin ở trẻ.
Ví dụ: Tơi nêu tình huống cần xử lí kèm theo câu hỏi: Trong trường hợp
tương tự, em sẽ làm gì? Tơi gọi một em trả lời, sau đó em học sinh đó sẽ là người
giúp tôi điều hành hoạt động này bằng cách đặt câu hỏi tiếp theo cho các bạn với

7


cụm từ: Tớ sẽ giải quyết như vậy, còn các cậu nghĩ thế nào? Tôi sẽ ghi chép lại tất
cả các câu trả lời và sẽ cùng học sinh thống nhất phương án phù hợp nhất.
Bên cạnh đó, tơi tổ chức các trò chơi lồng ghép trong các giờ học như: “ Em
làm hướng dẫn viên du lịch”, Ô cửa bí mật… Các hoạt động chia sẻ kinh nghiệm
học tập, giới thiệu sách báo để các em có cơ hội, có mơi trường rèn luyện sự tự tin.
Với cách làm trên, tôi nhận thấy các em đã tự tin hơn rất nhiều. Có thể có
những suy nghĩ, những câu trả lời đúng hoặc chưa đúng nhưng các em đều mạnh
dạn phát biểu. Trong công việc chung của lớp, các em tự giác, sáng tạo, không ỷ lại
và biết hỗ trợ nhau, thay nhau làm việc.

Các em tự tin phát biểu ý kiến
+ Kỹ năng sống hợp tác: Trường tiểu học Hưng Lộc 1 thực hiện mơ hình
dạy học VNEN. Đây là mơ hình lý tưởng để các em rèn luyện sự hợp tác. Trong
các hoạt động học tập trên lớp các em ln có những nhiệm vụ, bài tập được u
cầu hồn thành theo nhóm. Ở đây, nhóm trưởng là người có vai trị rất quan trọng.
Vì vậy, tơi hướng dẫn cho các nhóm trưởng có được những kĩ năng điều hành cơ
bản, dân chủ và khách quan. Mỗi tháng các em thường xuyên thay đổi nhóm trưởng
và liên tục đưa những “nội quy” hoạt động riêng cho nhóm mình.
Tơi khích lệ giúp các em học cách cùng làm việc với bạn. Khi hợp tác sẽ
giúp các em biết cảm thơng, biết chia sẻ, biết tơn trọng lẫn nhau.
Ví dụ: Khi học môn Tiếng Việt, bài 11C: Cần cù siêng năng (Tài liệu HDH
Tiếng Việt 4 tập 1B) ở hoạt động 4, sau khi các em tìm hiểu tài liệu hướng dẫn học,
tôi giao nhiệm vụ: Ở hoạt động này, cơ giáo đánh giá kết quả chung của cả nhóm,
bao gồm đáp án, sự hợp tác và cách điều hành của nhóm trưởng. Sau đó giới hạn
thời gian để các em hoạt động. Tôi theo dõi cách làm việc của các em và có phần
đánh giá khách quan, cơng bằng theo tiêu chí tơi đưa ra từ đầu.
Hoặc trong các buổi sinh hoạt tập thể, chăm sóc vườn trường, tơi thường

xuyên giao nhiệm vụ nhóm, quan sát cách các em phối kết hợp và có sự ghi chép.
Khi đánh giá, tơi cho các nhóm nhận xét chéo nhau rồi mới đưa ra ý kiến sau cùng.
Sau một thời gian tiến hành cách làm trên, tôi nhận thấy ở một vài hoạt động,
học sinh có bất đồng quan điểm khi nêu ý kiến, có em ít hoạt động, có nhóm vì
muốn nhanh, muốn được cô khen nên thường để một bạn học tốt, viết nhanh
thường xuyên làm thư kí hoặc lấy ngun đáp án của em đó...Khi phát hiện ra tình
trạng này, tơi đến nhóm đó, u cầu nhóm trưởng điều hành nghiêm túc, biết lắng
nghe nhau, quy định mỗi một em đều phải có ý kiến, nếu khơng sẽ ghi vào sổ theo
dõi hoạt động nhóm. Trong giờ sinh hoạt cuối tháng, tôi hướng dẫn HĐTQ đánh
giá thi đua giữa các nhóm, trao cờ thi đua và phần thưởng cho nhóm xuất sắc.
8


Chính vì vậy, học sinh lớp tơi có sự tiến bộ rõ rệt, khả năng điều hành nhóm của
các em rất tốt, các em biết cách hợp tác, chia sẻ và lắng nghe.

Học sinh lớp 4B Trường TH Hưng Lộc I cùng học nhóm
+ Kỹ năng thích tị mị, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này. Là sự khát
khao được học, được khám phá, được tìm hiểu, được giải thích,…
Để giúp các em có các kĩ năng này, ngồi việc dạy bài học trong sách, thực
hành các tình huống có sẵn trong tài liệu học, tôi sử dụng thêm các đoạn video, clip
có chủ đề và nội dung phù hợp để khêu gợi tính tị mị của các em như: Tìm hiểu về
thiên nhiên, về đại dương, về vũ trụ,… Ngoài ra tơi đưa ra các tình huống cụ thể để
các em tự thảo luận và thực hành đóng vai giải quyết chính tình huống đó.
Thực tế cho tơi thấy rằng bằng những hình thức này các em có khả năng thấu
hiểu người khác, biết tự đặt mình vào vị trí của người khác để cảm nhận nên học
sinh lớp tôi giảm hẳn được thói chỉ trích, chê bai lẫn nhau. Các em ham thích đọc
sách hơn, thậm chí có em cịn chủ động đến chia sẻ những hiểu biết của mình về
những điều các em khám phá được trong cuộc sống thường ngày hay những kiến

thức khoa học mới lạ.
+ Kỹ năng giao tiếp: Để giúp trẻ có kĩ năng này, tôi hướng dẫn các em biết
thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, các em cần
cảm nhận được vị trí của mình trong thế giới xung quanh để lựa chọn ngôn ngữ
xưng hô phù hợp.
Ví dụ: Khi có khách đến nhà, cần chào hỏi lễ phép: Cháu chào bác ạ!/ Cháu
chào cô ạ!...Biết mời chào lịch sự: Cháu mời bác vào nhà cháu ạ!/ Cháu mời bác
uống nước và đợi bố mẹ cháu chút….Ở lớp, khi có khách đến thăm, ban đối ngoại
phải biết đón tiếp: Em chào thầy/ cơ ạ! Em mời thầy/cô cùng thăm lớp em/ cùng
học với chúng em một tiết học ạ! Hoặc: Tớ chào các bạn. Mời các bạn vào thăm
lớp tớ. Hoặc khi ra về phải biết nói lời cảm ơn và tạm biệt.
Trong các giờ học Tiếng Việt, khi các em học được nhiều vốn từ heo các chủ
điểm, tôi định hướng cho các em biết sử dụng vốn từ đó cho phù hợp với từng văn
9


cảnh, từng đối tượng giao tiếp. Trong giờ chơi, các em cần biết dùng từ ngữ đẹp,
văn minh, thể hiện sự tôn trong bản thân và người khác. Giao tiếp đơi khi khơng chỉ
dùng lời nói mà cịn phải dùng cả ánh mắt, nụ cười…
Ví dụ: Tơi đưa ra một tình huống: Vào giờ ra chơi, em cùng các bạn chơi trò
chơi, em chẳng may làm bạn bị ngã, bạn ấy rất giận em. Có người bạn khác nói
ngay rằng: “Ngã có tí mà cũng giận với dỗi.” Trong tình huống đó em sẽ làm gì?
Sau khi các em phát biểu, tôi định hướng cho các em thấy cần phải xử lí
đượctheo hướng: đỡ bạn dậy, hỏi bạn có đau khơng, nói lời xin lỗi bạn và cần nói
ngay với người bạn kia rằng dù ít hay nhiều đây cũng là lỗi của tớ, tại tớ không cẩn
thận, bạn không nên nói như thế. Sau đó xua ngay khơng khí lúc đó bằng nụ cười
tươi và những cái nắm tay thật chặt.
Ngồi ra, tơi dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua. Biết tự rửa
tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng,
vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai

nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn,
cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người
lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung
quanh.
Kiên trì và thường xuyên áp dụng phương pháp trên, tôi thấy lúc đầu không
hẳn các em đều tiếp nhận ngay được do một số thói quen cũ. Song, qua nhiều hình
thức, nhiều tình huống cụ thể, học sinh lớp tơi khơng cịn em nào nói tục, chửi thề,
các em biết thường xuyên nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết thưa gửi, chào hỏi lễ phép,
biết sử dụng từ ngữ để diễn đạt suy nghĩ của bản thân. Điều đó khiến tơi và các em
ln có những giờ học vui vẻ, thoải mái.
+ Kỹ năng tự phục vụ: Giáo dục cho các em từ những việc nhỏ nhất như:
Giao tiếp cư xử với các bạn bè trong và ngoài lớp, nói năng phải lễ độ với tất cả
mọi người xung quanh và biết làm mộr số công việc nhỏ phù hợp với độ tuổi của
các em như vệ sinh cá nhân, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa hàng ngày, vệ sinh xong
phải rửa tay, trước khi ăn cơm phải rửa tay. Ngoài ra các em biết quét nhà, quét
lớp, rửa ấm chén, như mắc màn trước khi đi ngủ, gấp chăn màn gọn gàng vào buổi
sáng, mỗi ngày, chăm sóc cây xanh, thân thiện với môi trường, hay vui chơi giải trí
giảm căng thẳng
+ Kĩ năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống: Đây là một trong
những kĩ năng quan trọng cần phải rèn cho các em, đặc biệt là trong xã hội và môi
trường sống hiện tại. Tôi tập trung hướng cho các em biết cách ứng phó trong các
trường hợp cụ thể như: ứng phó khi tham gia giao thơng, ứng phó trước các tình
huống bị xâm hại, bắt cóc...bằng cách đưa ra các tình huống cho các em tham khảo,
thảo luận và đưa ra cách xử lí.
Ví dụ: Vào ngày nghỉ, bố mẹ đi vắng, Lan ở nhà một mình, bỗng có người đàn
ơng gọi cửa ngõ, hỏi bố mẹ Lan và bảo Lan mở cửa cho vào nhà. Nếu em là Lan
em sẽ làm thế nào?
10



Hoặc: Trên đường đi học về, em thấy các bạn cùng khối lớp em đi xe đạp, dàn
hàng ba hàng 4 trên đường, vừa đi vừa cười nói, lạng lách. Em sẽ làm gì lúc đó?
2.3.3. Đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống:
Kỹ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được
khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Vì thế, khi rèn kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên cần đảm bảo thực hiện 5
nguyên tắc về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đó là:
+ Tương tác: Các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề … được hình
thành tốt trong quá trình học sinh tương tác với bạn bè và những người xung quanh.
Tạo điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem xét ý kiến của
người khác...
Ví dụ: Ở bài 15B: Con tìm về với mẹ – Mơn Tiếng Việt 4 (Chương trình
VNEN tập 1B trang 83), học sinh thực hiện hoạt động 4: Cùng luyện đọc. Đây là
hoạt động nhóm, nhóm trưởng yêu cầu mỗi thành viên tự luyện đọc cho nhóm
nghe, sau đó các em nhận xét, góp ý cho nhau. Hoặc ở hoạt động 1 Bài 15C –
Quan sát đồ vật (tập 1B trang 90) học sinh cùng tơi tìm hiểu các bức tranh, nêu ý
kiến của mình, tơi cùng cả lớp lắng nghe và chia sẻ. Đây là các hoạt động tạo điều
kiện cho học sinh biết cách tương tác và rèn được kĩ năng lắng nghe, thấu hiểu
người khác.
Giáo viên cùng học tập với học sinh.
+ Trải nghiệm: Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải
nghiệm qua thực tế. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho các em có cơ hội được
trải nghiệm.
Ví dụ: Khi rèn cho học sinh kĩ năng tham gia giao thông, tơi cùng học sinh
tham gia giao thơng trên mơ hình ở sân trường, sau khi các em xử kí tốt các tình
huống giả định, tơi giao bài tập: “Hãy ghi lại những tình huống em gặp khi tham
gia thực tế và cách em xử lí”. Sau đó chia sẻ với thầy cô và các bạn trên lớp. Hoặc
tôi nhận phần việc chăm sóc vườn trường cho lớp, lên kế hoạch chăm sóc cụ thể để
các em thực hành, trải nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Nguyên tắc tiến trình và nguyên tắc thay đổi hành vi: Giáo viên không thể

giáo dục kỹ năng sống trong một lần mà kỹ năng sống là một quá trình từ nhận
thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con người
đặc biệt hành vi tốt là q trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng sống không thể
là ngày một ngày hai mà phải là cả một q trình.
Ví dụ: Muốn sửa thói quen dùng từ ngữ chưa đẹp trong giao tiếp (học sinh
hay nói tục, chửi thề) trước hết tơi phân tích cho các em thấy ý nghĩa của lời nói
trong giao tiếp – cái chưa hay khi các em sử dụng từ ngữ chưa đẹp cũng như những
điều thuận lợi khi sử dụng lời nói đẹp trong giao tiếp với người khác – Giúp các em
có vốn từ - Đưa ra các tình huống cụ thể - Quan sát và theo dõi trên thực tế, có nhắc
nhở, khích lệ kịp thời. Quá trình này phải diễn ra thường xuyên, liên tục thì mới có
thể sửa được.
11


+ Thời gian và môi trường giáo dục: Giáo dục giáo dục kỹ năng sống được thực
hiện mọi lúc mọi nơi; giáo dục kỹ năng sống được giáo dục trong mọi mơi trường
như gia đình, nhà trường, xã hội; cần phải tạo điều kiện tối đa cho học sinh tham
gia vào các tình huống thật trong cuốc sống.
Ví dụ: Để hình thành và rèn luyện tốt kĩ năng hợp tác, tự giải quyết vấn đề,
ngoài bài tập thực hành trên lớp, tôi kết hợp với cha mẹ học sinh, giáo viên bộ môn,
giáo viên TPT, xây dựng nhiều bài tập, tình huống để các em rèn luyện. Tơi cũng
chia sẻ với gia đình học sinh để có một mơi trường tốt, không những các em được
hợp tác với bạn bè, thầy cơ mà cịn hợp tác tốt với những người trong gia đình,
mạnh dạn nêu ý kiến cá nhân, chịu trách nhiệm trước việc làm của mình.
Khi tiến hành tuân thủ các nguyên tắc trên, tôi nhận thấy một số em có sự
tiến bộ rõ rệt, học sinh tự nhận thấy được rèn luyện và tự thay đổi. Điều đó tác
động rất tốt đến hiệu quả chung của cả thầy và trò.
2.3.4./ Phối kết hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên Tổng phụ
trách Đội trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Trước hết, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tơi xác định mình cần làm tốt những

cơng việc sau:
- Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên
cần, tích cực của học sinh, biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở
mỗi học sinh. Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như
thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục chăm sóc giáo dục các em
một cách thích hợp, tuân theo một số quan điểm: giúp các em phát triển đồng đều
các lĩnh vực: thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết
vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
- Giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác, các
em biết chia sẻ chăm sóc, học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt
được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn
cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Thường xuyên liên hệ với phụ
huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội
dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết
những khó khăn gặp phải.
Bên cạnh đó, bản thân giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với giáo
viên Tổng phụ trách Đội, xây dựng kế hoạch hoạt động theo từng tháng, từng kì,
từng chủ điểm để có các hoạt động ngồi giờ lên lớp thú vị, hấp dẫn và phát huy
khả năng của các em.
Ví dụ: Tháng 3: Sinh hoạt, học tập, rèn luyện theo chủ đề: Tiến bước lên Đồn.
Tơi đã cùng các giáo viên khác trong khối 4, kết hợp cùng với giáo viên
Tổng phụ trách Đội lập kế hoạch, tổ chức phát động một số phong trào như vẽ
tranh thể hiện “Ước mơ của em”, sưu tầm những bài văn hay, bài viết chữ đẹp để
12


xây dựng các góc học tập, cuối tháng chúng tơi tổ chức cho các em giới thiệu sản
phẩm của mỗi lớp, bình chọn lớp có sản phẩm đẹp nhất, lời giới thiệu hay nhất.

2.3.5. Phối hợp với cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình.
Thực tế cho thấy, cha mẹ là người có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc
và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Vì vậy, tơi phối hợp
chặt chẽ với cha mẹ học sinh. Động viên các bậc cha mẹ thường xuyên gần gũi,
trao đổi với các em.
Ví dụ: Con thích chơi với bạn nào? Nhóm bạn của con có điều gì thú vị?
Con muốn mời ai về nhà chơi?...Điều này giúp cha mẹ hiểu các em hơn, dạy được
các em kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lựa chọn, ứng phó…
Tơi tun truyền để cha mẹ các em không nên bực bội khi các em về đến nhà
hoặc cho rằng các em chỉ biết chơi suốt ngày mà thay vào đó cần có niềm tin ở các
em. Tôi phối hợp một cách chặt chẽ và hợp lý với phụ huynh bằng việc động viên
cha mẹ các em tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường, tham
gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và
tham gia một số hoạt động ngoại khố; chỉ bằng cách đó thơi cha mẹ đó giúp các
em hiểu rằng học là phải học cả đời.
Trong gia đình, cha mẹ cần cho các em những mẫu hành vi văn hóa, những
hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh các em.
Vì vậy, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với
các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi,
giải trí lành mạnh.
Tơi chia sẻ để cha mẹ tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng
ngày của các em như các trò chơi thư giãn, trò chơi rèn luyện, trò chơi vận động…
Thường xuyên động viên các em đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho các em nghe,
qua đó rèn luyện đạo đức cho các em , giúp các em hồn thiện mình, dạy các em
yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em qua các
truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tìm tịi, ham học hỏi, phátt triển
khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Cha mẹ nên khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện
với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của
mình, cố gắng khơng chỉ trích các quyết định của các em.Việc này sẽ hình thành kỹ

năng tự kiểm sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt
động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cha mẹ nên giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.Ví
dụ như một số học sinh thích vẽ, ngồi việc cho các em học trên lớp thì cha mẹ có
thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu giữ các bức
tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc triển lãm tranh
của các em ở góc nhỏ trong nhà.
Cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng
các đồ dựng ăn uống; Có thói quen với sự sạch sẽ, gọn gàng, những cuộc trao đổi
13


nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để
hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
2.3.6. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt
động tập thể vui tươi, lành mạnh trong lớp, trong trường.
Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một
cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức
các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với
lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực
hiện nhiều hoạt động cho lớp mình một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia
chủ động, tự giác của học sinh.Cụ thể như sau:
- Khuyến khích các em phát huy tính sáng tạo, óc thẩm mĩ, thực hiện trang trí
lớp học, góc học tập của mình.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động của mỗi ban, mỗi nhóm, cùng thi đua học tập
và rèn luyện. sách thư viện.
- Xây dựng thư viện lớp học với nhiều nhóm sách như: “sách Bác Hồ”, “sách
Lịch sử”, “câu đố vui”; “những con vật đáng yêu”;“hoa trái bốn mùa”; …

thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm các em.
Một số sản phẩm trang trí lớp học của học sinh trường TH Hưng Lộc I
Năm học 2016 -2017 khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ chức
các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù
hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học của Huyện Đồn Hậu Lộc với cương vị là bí
thư Chi đồn, tơi đã phát động phối hợp tốt với giáo viên dạy Thể dục, giáo viên
Tổng phụ trách Đội tổ chức nhiều trò chơi dân gian trong các giờ học và sinh hoạt
tập thể. Đồng thời, tôi đã phát động phong trào sưu tầm các bài hát dân ca và các
điệu múa để tập luyện cho các em và thành công trong cuộc thi văn nghệ cấp
trường nhân dịp 20/11, thi múa hát sân trường nhân dịp 22/12, thi các trị chơi dân
gian nhân ngày 26/3. Trong đó thành tích của lớp 4B do tôi chủ nhiệm rất đáng
tuyên dương: Giải nhì thi văn nghệ, giải nhất múa hất sân trường, giải nhất thi đấu
các trò chơi dân gian. Song song đó, Đồn - Đội phối hợp duy trì việc sinh hoạt
ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi. Huy động và tạo
điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ các em,
các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống,
giáo dục lịng u nước cho học sinh .
Thi kéo co chào mừng 26/3

Thi văn nghệ chào mừng 20/11

14


Quyên góp ủng hộ bạn nghèo

Thi kể chuyện cấp trường

Tổ chức hoạt động mang tính chất giáo dục sự đồng cảm, chia sẻ như: “Áo
ấm tặng bạn”, “Vòng tay yêu thương”, “Vẽ những điều mơ ước cho mẹ” nhằm huy

động sự tham gia của cha mẹ học sinh, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong
việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lịng u nước cho trẻ và qua đó
tuyên truyền về việc giáo dục các em những hành vi kĩ năng sống.
2.4. Hiệu quả.
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã đạt
được một số kết quả trong việc dạy các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở cỏc kết quả
sau:
* Kết quả trên học sinh:
- Học sinh đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi
dậy tính tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin,được rèn
luyện khả năng sẵn sàng học tập.
- Học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của học sinh ; ngoài ra được rèn kỹ năng tự kiểm sốt
bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ,
thể dục , và các môn học khác .
- Học sinh được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung
sống hịa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia
đình.
- Học sinh được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, pḥng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
- Học sinh luôn cố kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như
bảng theo dõi ở mỗi lớp, sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất
lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh ở lớp 4B đều hồn thành và hồn thành
tốt, thậm chí tỉ lệ các em hoàn thành tốt từng kĩ năng rất đáng khen ngợi.
- Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó
khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu
bạn bè trong cùng một mái trường ,biết giúp đỡ bạn cùng tiến .
15



*Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ ln coi trọng học sinh và tích cực tham gia vào các hoạt động
giáo dục học sinh ở nhà trường
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong
việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thơng
qua sổ liên lạc, bảng đánh giá học sinh ở lớp;
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, bớt la
mắng học sinh, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho các em , phân việc cho các
em , không cung phụng thái quá…
- Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của học sinh , tin tưởng vào
kết quả giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trách cô giáo ngược lại cha mẹ
thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cơ giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo
viên trang trí lớp,và các hoạt động khác
Về phía giáo viên:
Cơ giáo chịu khó gần gũi chuyện trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn
vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, cơng bằng với mọi tình huống
xảy ra giữa các em học sinh trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn
bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ các em.
Sau một thời gian thực hiện các biện pháp trên cho học sinh lớp 4B, đến tuần
25 của năm học, tôi tiến hành bài khảo sát trên hai lớp 4A và 4B trường TH Hưng
Lộc I, tôi thu được kết quả như sau.
Kĩ năng

Lớp

4A


22 em

4B 26 em

Kĩ năng
Giao tiếp

Kĩ năng
hợp tác

HTT

HT

5

17

8

16

10

18

Kĩ năng
Kĩ năng
Kĩ năng

tự phục vụ thích khám kiểm sốt
phá, học hỏi bản thân

HTT HT HTT HT HTT HT

14
8

8

14

24

2

6
16

16
10

HTT HT

5

17

14


12

Kết quả trên cho thấy được những ưu điểm của các biện pháp giáo dục kĩ
năng sống mà tôi đã áp dụng cho học sinh lớp 4B. Nó đã mang lại niềm vui cho cả
thầy và trị trong suốt q trình thực hiện, góp phần vào thành tích chung cho nhà
trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
16


Qua một thời gian thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tôi đã rút ra
được những bài học quý giá như sau:
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong cơng tác trồng người. Vì
thế, bản thân luôn cố gắng trao dồi kinh nghiệm, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như
đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn,
luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt,
bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách tồn
diện.
Để thành cơng trên con đường dạy học, người giáo viên phải luôn học tập,
rèn luyện, nêu cao khẩu hiệu là một giáo viên có tấm gương tốt cho học sinh noi
theo. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngồi nhà trường để
xây dựng mơi trường an tồn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa
phương đáp ứng nhu cầu mới của xã hội .
Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học
sinh trong lớp .
Có bước chủ động trong cơng việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực hiện
một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời
điểm. Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía học

sinh.
Phối hợp nhịp nhàng với các đồn thể trong nhà trường, phụ huynh học sinh.
Luôn lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh, giúp cho các em
đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có năng lực tự học và biết tự điều chỉnh
hành vi, tự giác chấp hành tốt nội quy nhà trường.
3.2 Kiến nghị
* Về phía nhà trường.
- Chỉ đạo sát sao công tác dạy kĩ năng sống cho từng tổ chuyên môn, từng khối lớp.
- Chỉ đạo hoạt động của thư viện, trang bị thêm tài liệu về kĩ năng sống để có thêm
nguồn tài liệu cho giáo viên và học sinh tham khảo.
- Chỉ đạo Đoàn – Đội tổ chức nhiều hoạt động ngồi giờ lên lớp, tạo mơi trường tốt
để học sinh rèn kĩ năng sống.
- Phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua để đẩy mạnh chất lượng dạy kĩ
năng sống trong đơn vị.
* Về phía giáo viên.
- Trước hết, giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho trẻ,
tạo điểm tựa vững chắc để học sinh chia sẻ, bày tỏ.
- Luôn phối kết hợp với nhà trường, các tổ chức đồn thể trong trường trong cơng
tác giáo dục kĩ năng sống, dõi theo mọi biểu hiện của các em để có sự giáo dục phù
hợp.
- Cố gắng áp dụng những kinh nghiệm hay của đồng nghiệp, sáng tạo thêm những
phương pháp mới nhằm nâng cao những kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi
trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối
17


sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm
vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện
pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4. Tôi rất mong nhận được những ý kiến

đóng góp của đồng nghiệp để các biện pháp trên khả thi hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 16 tháng 3 năm

2017
TRƯỞNG PHỊNG

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác
Ngư

ời viết

Hoàng Thị Hảo

18


19



×