Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

hinh tuong nguoi thay trong tho Tran Dang Khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.33 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>HÌNH TƯỢNG NGƯỜI THẦY GIÁO TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA</b>
ThS. Nguyễn Thị Bích Hường
<b> Từ lâu, cái tên Trần Đăng Khoa đã trở nên quen thuộc và gần gũi với đông đảo </b>
bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc ở lứa tuổi thiếu nhi. Thơ Trần Đăng Khoa - nhất
là mảng thơ viết thời thơ ấu - có sức cuốn hút đặc biệt đối với bạn đọc. Điều thú vị,
hấp dẫn và cũng rất sâu sắc là hình tượng người thầy đã đi vào thơ Khoa ngay từ
buổi đầu anh chập chững làm thơ và đã in dấu ấn sâu đậm trong thơ anh.


Trong những bài thơ đầu tay viết vào năm 1966, khi đang còn là một chú bé
tám tuổi, Khoa đã có một chùm thơ về thầy giáo của mình. Tháng tư năm 1966,
tiễn thầy giáo đi bộ đội, Khoa viết bài thơ “Thầy giáo đi bộ đội” với lời đề tặng
“Kính tặng thầy Việt”. Tháng chín năm đó, Khoa viết bài “Hỏi đường” và đến năm
sau (1967) anh có tiếp bài “Nghe thầy đọc thơ”. Chùm thơ viết về thầy giáo của
Khoa thể hiện những tình cảm xúc động của người học trò đối với người thầy của
mình khi thầy phải tạm rời xa bục giảng để lên đường nhập ngũ. Đó là nỗi buồn rất
thực, là sự kính trọng, là lịng biết ơn và tha thiết nhớ thương, là niềm mong đợi
ngày thầy trở về để rồi sẽ lại được lắng nghe những lời giảng ấm áp và thân thiết
của thầy. Những tình cảm đẹp đẽ, trong sáng cứ ngày một chín dần và sự trưởng
thành của Khoa đã được bộc lộ qua một trong những bài hay nhất của anh, bài thơ
“Bàn chân thầy giáo” (1972):


Thầy ngồi ghế giảng bài
Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ
Một bàn chân đâu rồi
Chúng em không rõ
Sáng nào bom Mĩ giội


Phượng đổ ngổn ngang mái trường tốc ngói
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi


Thầy cầm súng ra đi



Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng


Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
Năm nay thầy trở về


Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa
Nhưng một bàn chân khơng cịn nữa
Ôi, bàn chân


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo


Của cả cuộc đời mình


Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh
Hay Tây Ninh, Đồng Tháp
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người


Em lắng nghe thầy giảng từng lời
Rung động bao điều suy nghĩ


Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mĩ
Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường
Em đi suốt chiều dài yêu thương


Chiều sâu đất nước



Theo những dấu chân người thầy năm trước
Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất


Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời...


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

súng ra đi lên đường ra mặt trận. Chúng em tiễn thầy trong màu lửa phượng rực
cháy “một góc trời”.


Hôm nay thầy đã trở về! Nụ cười vui trên đôi môi thầy vẫn “nguyên vẹn
như xưa” nhưng một bàn chân của thầy khơng cịn nữa. Thầy đã gửi lại một bàn
chân ở chiến trường, đã hi sinh một phần cơ thể của mình cho độc lập tự do của
nhân dân và đất nước. Bàn chân đó đã “đạp xuống đầu lũ giặc”, là bàn chân chiến
thắng. Và cao hơn cả, bàn chân đó đã dạy cho chúng em “lẽ sống làm người”. Cả
dân tộc Việt Nam vùng lên đánh Mĩ. Hàng triệu triệu bàn chân đã lên đường đi
khắp mọi nẻo chiến trường Khe Sanh, Tây Ninh, Đồng Tháp; lập nên những chiến
công oanh liệt vẻ vang. Người thầy giáo thương binh qua hành động đẹp đẽ của
mình ở chiến trường và qua giờ dạy tâm huyết trên bục giảng đã làm “rung động
bao điều suy nghĩ” trong lòng lớp lớp học trò. Dù chỉ mới lên tám lên mười, chúng
em vẫn có thể lắng nghe qua lời giảng của thầy “âm vang tiếng gọi của chiến
trường”; vẫn lắng nghe lời thầm thì vọng lại của những bàn chân đi đánh Mĩ; vẫn
có thể cùng những dấu chân của thầy “đi suốt chiều dài yêu thương” và “chiều sâu
đất nước”. Sự hóa thân của tác giả - một chú bé mới mười bốn tuổi - vào chủ thể
trữ tình: em, chúng em khiến cho hình ảnh thơ, giọng thơ vừa hồn nhiên mang
dáng dấp tuổi thơ lại vừa hằn dấu trí tuệ suy tư mang tầm thời đại. Lối so sánh dấu
nạng gỗ tròn thầy giáo đi qua để lại “hai bên như hai hàng lỗ đáo” thật đúng là của
trẻ con nhưng từ hai hàng lỗ đáo - hai hàng dấu nạng gỗ chân thầy giáo mà nhận ra
những điều “chưa hoàn hảo của cả cuộc đời mình” thì thật là người lớn, thật sâu
sắc biết bao!



Hai câu cuối của bài thơ đúc kết ý nghĩa cao đẹp của hình tượng bàn chân
thầy giáo. Người thầy giáo thương binh tiếp tục cống hiến tài năng, trí tuệ và phần
sức lực cịn lại của mình cho thế hệ trẻ; cho sự nghiệp giáo dục vinh quang của đất
nước. Ngay cả phần cơ thể của thầy đã mất đi cũng vẫn có ý nghĩa lớn lao trong
cuộc sống của chúng em. Bàn chân đã mất của thầy “vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn
cuộc đời”. Hóa ra, bàn chân đó khơng hề mất, nó vẫn hiện diện trong tâm trí học
trị của thầy, vẫn đầy sức sống như ngọn lửa rực cháy của hoa phượng vẫy gọi thế
hệ trẻ vươn đến tương lai.


Với bài thơ “Bàn chân thầy giáo”, nhà thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa đã thay
mặt các thế hệ học trị Việt Nam nói lên sự kính trọng, lịng biết ơn chân thành đối
với những người thầy đã không tiếc tuổi xuân cống hiến cả cuộc đời cho đất nước.
Bằng tất cả tình cảm trân trọng dành cho nhà giáo và nghề giáo, với truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo”, ngọn lửa tình yêu cuộc sống, tình yêu
con người, tình yêu nghề giáo sẽ mãi mãi rực sáng trong tâm trí chúng ta; thúc giục
chúng ta phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4></div>

<!--links-->

×