Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Hành động cầu khiến trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.36 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ KIM TUYẾN

HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN TRONG
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2005


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ KIM TUYẾN

HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN TRONG
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành

: Lí luận NGÔN NGỮ

Mã số

: 5 04 08


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2005


MỤC LỤC
]U^
DẪN NHẬP
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ...............................................2
Lịch sử nghiên cứu vấn đề .........................................................................3
Nội dung nghiên cứu .............................................................................. 10
Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ............................................10
Cấu trúc của luận văn ..............................................................................11

Chương Một: TỔNG QUAN VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ VÀ HÀNH
ĐỘNG CẦU KHIẾN
1. Hành động ngôn từ...................................................................................12
1.1 Khái niệm về hành động ngôn từ........................................................ 12
1.2 Các hành động ngôn từ....................................................................... 13
1.3 Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ ................................................ 16
1.4 Nghóa tường minh, nghóa hàm ẩn ....................................................... 20
1.5 Phương thức thể hiện hiệu lực tại lời.................................................. 22
2 Hành động cầu khiến

2.1. Khái niệm cầu khiến ........................................................................... 31
2.2. Các loại hành động cầu khiến chủ yếu............................................... 34
2.3. Cầu khiến lịch sự ................................................................................ 37

Chương Hai: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN
TRONG TIẾNG VIỆT
1. Phương thức thể hiện trực tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
1.1 Phương thức tỉnh lược chủ ngữ ở ngôi thứ hai.................................... 46
1.2 Phương thức dùng tiểu từ tình thái .................................................... 53
1.3 Phương thức dùng vị từ, phụ từ tình thái ............................................ 65
1.4 Phương thức dùng vị từ ngôn hành ..................................................... 88
2. Phương thức thể hiện gián tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
2.1 Dùng hình thức câu khăûng định.......................................................... 95
2.2 Dùng hình thức câu nghi vấn ............................................................... 98
KẾT LUẬN .....................................................................................................107

Trang 1


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu

Hành động cầu khiến nói riêng và hành động ngôn từ (speech acts) nói
chung là những vấn đề thuộc về ngữ dụng học, một phân ngành của ngôn ngữ
học phát triển khá mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây.
Ngữ pháp truyền thống đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến câu
cầu khiến nhưng chủ yếu xoay quanh vấn đề “phân loại câu theo mục đích phát

ngôn”. Về vấn đề này, trong hơn ba thập niên qua, lý thuyết về hành động
ngôn từ của J.L. Austin, H.P. Grice, J.R.Searle đã xác định những cách tiếp cận
mới sâu sắc và toàn diện hơn. Lý thuyết này cho rằng ngôn ngữ có chức năng
quan trọng trong hoạt động giao tiếp, nhưng đơn vị giao tiếp cơ bản không phải
là câu hay một hình thức ngôn ngữ nào đó mà là một phát ngôn nhằm thực hiện
một hành động nhất định. Cầu khiến là một trong những hành động ngôn từ
được người nói thực hiện để yêu cầu điều khiển người nghe hành động theo chủ
ý của mình. Đây là một vấn đề thuộc về dụng pháp nên nó thể hiện đặc trưng
văn hoá của từng địa phương, có mối liên hệ mật thiết với tính lịch sự trong
giao tiếp. Tùy theo hoàn cảnh phát ngôn, đối tượng tiếp nhận mà người nói thực
hiện những phương thức khác nhau: trực tiếp hay gián tiếp. Do vậy, chúng tôi
nhận thấy hành động cầu khiến trong tiếng Việt là một vấn đề lý thú và bổ ích.
Để tiện cho việc miêu tả, phân loại, chúng tôi tiếp thu quan điểm của
những người đi trước. Cụ thể là, chúng tôi dựa theo quan điểm của ngữ pháp
học truyền thống về việc phân loại câu theo mục đích phát ngôn. Đó là việc
xác định được mục đích giao tiếp của từng kiểu câu và những dấu hiệu hình
Trang 2


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
thức điển hình tương ứng để khảo sát đặc điểm ngữ nghóa ngữ dụng (các hành
động tại lời) của các phát ngôn. Từ đó, chúng tôi xác định phương thức thể hiện
phù hợp với hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Hướng đi của chúng tôi là
tập hợp các phát ngôn có hiệu lực tại lời cầu khiến xuất hiện chủ yếu trong
phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách văn chương nghệ thuật, phong
cách chính luận để khảo sát, khái quát hoá đặc trưng về hình thức cấu tạo và
nội dung ý nghóa của từng phương thức.
Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm
hành động cầu khiến, phân loại các hành động cầu khiến, miêu tả một số tình
thái cầu khiến lịch sự, những vấn đề mà xưa nay đã đề cập đến nhưng chưa

được quan tâm đúng mức và chưa được lý giải đầy đủ.
Về mặt thực tiễn, việc miêu tả các phương thức thể hiện hành động cầu
khiến trong tiếng Việt có thể đóng góp thêm cho việc miêu tả, phân tích và lý
giải cụ thể, thiết thực cho vấn đề dạy và học tiếng Việt.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong ngữ pháp truyền thống ở châu Âu, vấn đề nghóa cầu khiến hay
mệnh lệnh thường gắn với phạm trù ngữ pháp thức (mood), một phạm trù đặc
trưng của động từ trong các ngôn ngữ biến hình: Khái niệm thức được các nhà
nghiên cứu ngữ pháp giải thích bằng phạm trù biểu thị quan hệ giữa hành động
với thực tế khách quan và với người nói. Những thức thường gặp trong các ngôn
ngữ là thức tường thuật, thức mệnh lệnh, thức giả định, thức điều kiện. Trong đó
thức mệnh lệnh (imperative mood) biểu thị nguyện vọng, yêu cầu của người nói
đối với việc thực hiện hành động được nêu lên trong câu.
Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, vấn đề câu cầu khiến đã được bàn
luận khá nhiều. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn sự thiếu thống nhất trong quan
điểm của một số nhà ngôn ngữ học thuộc các khuynh hướng khác nhau. Đó là
quan điểm của ngữ pháp học truyền thống và quan điểm của ngữ dụng học.
* Quan điểm của ngữ pháp học truyền thống
Tiếng Việt là loại ngôn ngữ không biến hình từ cho nên trong hầu hết các
công trình nghiên cứu tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học thường không tuyệt đối
hóa về mặt hình thức mà chú ý đến cả hai mặt hình thức lẫn nội dung, thậm chí
một số nhà nghiên cứu còn coi mặt nội dung (ý nghóa của câu) quan trọng hơn
mặt hình thức. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung không phải trong trường
hợp nào cũng đồng nhất. Tuy nhiên, trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng có hiện
Trang 3


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
tượng từ một hình thức câu nào đó có giá trị biểu đạt tương ứng với một mục
đích phát ngôn. Và ngược lại một mục đích phát ngôn có thể được thực hiện

thông qua những hình thức câu khác nhau. Có khi dùng hình thức câu này để
biểu hiện mục đích phát ngôn thường được biểu hiện của hình thức câu khác.
Thế nhưng, khi phân loại các kiểu câu “theo mục đích phát ngôn”, ngữ pháp
nhà trường chỉ phân thành bốn kiểu câu câu trần thuật, câu cầu khiến, câu cảm
thán và câu nghi vấn và giải thích khái niệm của các loại câu này bằng cách
nêu “mục đích phát ngôn” của câu gắn với những phương tiện ngôn ngữ điển
hình cấu tạo nên. Tuy việc sử dụng thuật ngữ có khác nhau như “Câu phân loại
theo mục đích phát ngôn”, “Câu phân loại theo mục đích nói năng”, “Phân loại
câu theo mục đích”, “Phân loại câu theo mục đích nói”,…hay cũng có tác giả
không sử dụng những thuật ngữ này như Lê Văn Lý (1977), Bùi Đức Tịnh
(1995)…nhưng quan điểm của hai ông thì phù hợp với khuynh hướng vừa nêu
trên.
Trước hết là quan điểm của Trần Trọng Kim (1940) trong Việt Nam văn
phạm. Qua khảo sát, tác giả nhận thấy có bốn loại câu: câu xác định, câu phủ
định, câu nghi vấn, câu hoài nghi. Nhưng sự tách bạch hai loại câu nghi vấn với
câu hoài nghi có phần chưa thoả đáng (có thể coi câu hoài nghi thể hiện ý nghóa
tình thái của câu nghi vấn - hỏi nhưng dường như đã biết ít/ nhiều chỉ “hoài
nghi” chứ chưa hẳn không biết hoàn toàn). Mặt khác trong định nghóa về câu
phủ định tác giả nêu: câu phủ định là câu có dùng tới phủ định trạng từ (trạng từ
là tiếng dùng phụ thêm nghóa cho một tiếng động từ; một tiếng tính từ, một
tiếng trạng từ khác hay cả một mệnh đề) như không, chưa, chẳng, chớ,…Các từ
này thường đặt trước động từ. Và tác giả đưa ra thí dụ minh hoạ:
Anh đừng đùa cợt.
Tác giả cho rằng đừng là phủ định trạng từ, đặt trước động từ, có tác dụng
nhận diện loại câu.
Nguyễn Kim Thản (1977) trong Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt cũng chú
ý phân biệt loại câu nghi vấn chân chính với các loại câu nghi vấn khác như câu
nghi vấn tu từ học, câu nghi vấn khẳng định, câu nghi vấn phủ định, câu nghi vấn
cầu khiến. Đồng thời tác giả còn nhận diện động từ khi mang ý nghóa ngữ pháp
mệnh lệnh thì biểu thị ý chí, tức lời yêu cầu đề nghị hay mệnh lệnh của người

nói (người viết) đối với người nghe (người đọc), đòi hỏi người này phải thực
hiện quá trình do động từ biểu thị.

Trang 4


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Lê Văn Lý (1968) trong Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam khảo sát câu tiếng
Việt và phân làm 13 loại câu: câu danh từ, câu động từ, câu khẳng định, câu
phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lịnh, câu biểu cảm, câu tự loại, câu đơn
giản, câu đặt cạnh nhau, câu liên kết, câu phụ thuộc, câu phức tạp. Trong đó,
câu khuyến lịnh được tác giả quan niệm rằng người nói dùng câu câu khuyến
lịnh để bộc lộ ý muốn của mình. Việt ngữ có nhiều phương tiện để làm thành
khuyến lịnh, ta có thể xếp các phương tiện đó vào ba mục sau đây: giọng điệu,
thành tự và trạng tự (thành tự và trạng tự được tác giả gọi là ngữ vị). Đó là các
tiếng như đi, hãy, hẵng, đừng, chớ,…
Hoàng Trọng Phiến (1980) trong công trình nghiên cứu Ngữ pháp tiếng
Việt đã khẳng định:
– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn giúp cho người đọc nhận diện
được ý nghóa của câu và một mặt khác nữa là để xác nhận giá trị của các mô
hình cấu trúc câu.
– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn cho phép lý giải thoả đáng các
mô hình cấu trúc các loại câu: câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến
câu.

– Phân chia theo mục đích phát ngôn là mô tả ngữ nghóa, cú pháp của

– Phân chia câu theo mục đích phát ngôn có liên quan đến việc phân chia
theo thực tại hoá(có quy định bởi bối cảnh và văn cảnh).Đây là một lý thuyết
mới do nhà trường Tiệp Khắc Mathesius đề xướng. Sự phân chia này gắn liền

với trật tự phân bố các yếu tố của câu.
-Phân chia theo mục đích phát ngôn là phân chia theo ngữ pháp-thông
báo. Ngữ điệu, ý chí, nguyện vọng cùng với sự kích thích của chủ thể làm thành
những thông số cần yếu cho việc chia câu.
Tác giả xác định các loại câu: câu kể, câu cầu khiến, câu hỏi và câu than
gọi. Tác giả cho rằng câu cầu khiến không có những dấu hiệu ngữ pháp đặc biệt
gì, ngoài một số phương tiện như hư từ và ngữ điệu. Câu cầu khiến có nhu cầu
của ý chí làm thành yếu tố thường trực của câu. Nó nêu lên ý muốn của chủ thể
phát ngôn và yêu cầu người nghe đáp lại bằng hành động. Câu cầu khiến gắn
liền với ý nghóa hành động. Nội hàm của khái niệm cầu khiến bao gồm sự mời
mọc, yêu cầu, mệnh lệnh, cấm đoán và chúc tụng. Câu cầu khiến cũng có khẳng
định và phủ định.Hai dạng câu này có một số từ chuyên dùng để thể hiện.
Trang 5


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Tác giả Diệp Quang Ban (2002) trong Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Câu
phân loại theo mục đích nói đã phân thành câu tường thuật, câu nghi vấn, câu
mệnh lệnh, câu cảm thán. Quan niệm của tác giả về câu mệnh lệnh (còn gọi là
câu cầu khiến) là dùng để bày tỏ ý muốn nhờ hay bắt buộc người nghe thực hiện
điều được nêu lên trong câu và có những dấu hiệu hình thức nhất định. Tác giả
lưu ý khi khảo sát câu mệnh lệnh thì ta cần xét xem đó là câu mệnh lệnh đích
thực hay câu mệnh lệnh lâm thời.
Câu mệnh lệnh đích thực của tiếng Việt có cấu tạo nhờ những phụ từ tạo
ý mệnh lệnh, ngữ điệu mệnh lệnh hoặc đảm bảo điều kiện là chỉ chứa những từ
(phụ từ, vị từ) liên quan đến nội dung của lệnh.
Câu mệnh lệnh lâm thời là những câu không phải là câu mệnh lệnh đích
thực nhưng mang nội dung mệnh lệnh. Muốn xác định được nội dung này, ta
cần lưu ý đến những dấu hiệu hình thức như ngữ điệu, phụ từ (dùng đi kèm),
hoặc một tình huống nói năng.

Như vậy vấn đề về “phân loại câu theo mục đích phát ngôn” đã gặp một
số rắc rối giữa lý thuyết và thực tiễn bởi những lý do sau đây:
Theo lý thuyết về hành động ngôn từ của J. L. Austin (1962) có tới hàng
trăm mục đích phát ngôn; không phải trong trường hợp nào kiểu câu cũng phù
hợp với mục đích phát ngôn; và muốn xác định được nhiều mục đích phát ngôn
trong nhiều trường hợp đó thì phải dựa vào ngữ cảnh; cần thiên về việc tìm ra
các dấu hiệu hình thức để phân loại câu. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học
truyền thống như tác giả Diệp Quang Ban khi “phân loại câu theo mục đích
phát ngôn” cũng nhận thấy rằng chưa đặt câu vào đời sống hiện thực của nó đối
với những câu lân cận hay tình huống nói. Sự phân loại câu có liên quan đến
vấn đề dấu hiệu hình thức. Và theo tác giả, phân loại câu theo mục đích nói là
cách phân loại theo công dụng, ngữ pháp. Khi xem xét câu theo mục đích nói, ta
nhận diện được câu đó là câu đích thực, câu giả hay câu lâm thời. Cuối cùng
tác giả đưa ra kết luận: Quan điểm vấn đề về phân loại câu dựa theo công dụng
và ngữ pháp mới chỉ thể hiện là những nhận định mang tính chất khái quát,
không áp dụng được trên thực tế, vì không thể vận dụng nhất quán để phân loại
một cách hệ thống các kiểu câu khi gặp những câu mà giữa hình thức và công
dụng của nó không có sự thống nhất.
* Quan điểm ngữ dụng học
Ở Việt Nam, ngược lại với quan điểm của ngữ pháp học truyền thống,
một số nhà ngôn ngữ học tiêu biểu là Nguyễn Thiện Giáp (1999), (2000), Đỗ
Trang 6


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Hữu Châu (1993), Nguyễn Đức Dân (2000), Hồ Lê (1989), Cao Xuân Hạo
(1991) tuyệt nhiên không nói đến phân loại câu theo mục đích phát ngôn mà chỉ
khảo sát các hành động tại lời (hành động ngôn trung) trong các phát ngôn. Một
số tác giả chẳng hạn như Cao Xuân Hạo (1991)…tiến hành phân loại cấu trúc
theo hành động ngôn trung và nhấn mạnh quan điểm cho rằng căn cứ vào hình

thức của câu để phân loại câu còn mục đích của phát ngôn (công dụng) thì chỉ
được xét đến sau khi các kiểu câu đã được xác định.
Trong Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (1963), hai tác giả Trương Văn
Chình và Nguyễn Hiến Lê có khuynh hướng dung hòa hai khuynh hướng cổ
truyền và miêu tả tác dụng. Hai tác giả phân loại câu và phân cú theo hai
phương diện: theo cách cấu tạo thì phân thành câu đơn, câu phức…, theo ngữ
điệu thì phân biệt câu nói theo giọng thường, giọng hỏi và giọng biểu cảm. Hai
tác giả cho rằng ngữ điệu theo giọng mình nói có thể phân biệt ra giọng thường
hỏi và giọng biểu cảm. Hai tác giả đưa ra ví dụ để minh chứng cho điều này như
Làm việc này cho tôi ngay. Câu này có thể nhã nhặn nói theo giọng thường hay
cất cao giọng nói (biểu cảm). Như vậy, hai tác giả không phân loại câu theo
mục đích phát ngôn như ngữ pháp truyền thống mà đi vào phân loại câu theo
ngữ điệu. Rõ ràng ngay từ buổi sơ khai, trong việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng
Việt, các nhà ngôn ngữ học đã đi từ cấu trúc về mặt (hình thức) để miêu tả và
phân loại câu. Có thể coi đóng góp của hai tác giả tuy còn khiêm nhường nhưng
đã tạo tiền đề, góp phần thể hiện sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ trong
hoạt động giao tiếp.
Hồ Lê (1992) trong cuốn Cú pháp tiếng Việt quyển 2 cho rằng mỗi câu
phát ra đều phải theo bốn định hướng: trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán.
Người thụ ngôn phải cảm nhận cho được định hướng của từng câu để có phản
xạ thích hợp. Đối với câu cầu khiến, anh ta không những phải hiểu được nội
dung ấy mà còn phải nhận ra điểm cầu khiến trong câu (thường được diễn đạt
hiển ngôn nhưng cũng có khi ẩn mặc) và chuẩn bị hành động phản ứng. Các
sách ngữ pháp trước đây đều quan niệm bốn loại câu trên là kết quả của sự
phân loại câu theo mục đích nói năng. Ông cho rằng mục đích nói năng không
thể nào là một phạm trù rõ và được xác định bằng quan hệ ngữ nghóa – cú pháp
cả.
- Mục đích ngôn ngữ là ý định sâu kín của người phát ngôn, là phạm trù
thuần tuý chủ quan, nó cần đo lường bằng những phương tiện ngữ nghóa cú
pháp. Do đóù, cần phải trả bốn loại câu này về đúng vị trí của nó bởi nó ra đời

do sự đối lập của bốn kiểu định hướng phát ngôn, mà định hướng phát ngôn lại
là một biểu hiện tình thái bắt buộc, phải hiện diện trong mỗi câu.
Trang 7


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
- Tác giả căn cứ vào đặc điểm ngữ nghóa – cú pháp phân câu cầu khiến
ra làm bốn kiểu.
+ Câu mệnh lệnh
Xét về mặt ngữ nghóa, nó buộc người khác phải thực hiện điều nó nói ra.
Còn về mặt cú pháp, câu thường do động từ hoặc từ tổ động từ đảm nhiệm, chủ
ngữ trong câu thường bị tỉnh lược, câu rất ít sử dụng trợ từ mà nếu dùng thì trợ
từ thích hợp là “đi” đặt ở cuối câu, ngữ điệu thường được xướng cao và mạnh.
VD : Bên trái quay!.
+ Câu yêu cầu
Về ngữ nghóa, nó đòi hỏi làm hoặc không làm một điều gì đó. Về mặt cú
pháp, câu thường có kết cấu đề – thuyết, và thường sử dụng những từ tình thái
như: hãy, đừng, chớ, đi nào…
VD : Ông hãy đi khỏi đây.
+ Câu khuyên răn.
Về mặt ngữ nghóa, nó bảo ban người khác về một điều gì đó. Về mặt cú
pháp, câu thường có kết cấu đề – thuyết và thường dùng những động từ tâm lý
như: cần/ cần phải, phải, nên,…
VD : Chị không nên liều mình như thế.
+ Câu dặn dò
Về ngữ nghóa, nó nhắc nhở người khác một điều gì đó. Về cú pháp, câu
thường có kết cấu đề- thuyết và thường dùng động từ “nhớ”, phụ từ “hả” và
những trợ từ “nhé”, “nghe”, “nghen”.
Qua Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Cao Xuân Hạo (1991) đã
bày tỏ quan điểm khi nói ra một câu, ta thực hiện một hành động nhận định,

nghóa là xác lập một mệnh đề, nhưng đồng thời cũng thực hiện một hành động có
mục tiêu giao tế nào đấy. Đó là một hành động ngôn trung. Và tác giả cho rằng
sự phân biệt về hình thức để phân loại là một việc làm chính đáng… sự phân loại
“theo mục đích nói là hoàn toàn không đúng với thực tế sử dụng của ngôn ngữ.
Tuy nhiên, trên cơ sở tiếp thu cách phân loại cũ về căn bản và đặc biệt là căn
cứ vào hình thức ngữ pháp (thuộc tính về cấu trúc cú pháp) của câu tiếng Việt,
tác giả chia câu ra làm hai loại lớn: câu trần thuật và câu nghi vấn. Còn câu cầu
Trang 8


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
khiến được xếp vào một tiểu loại của câu trần thuật khác các tiểu loại khác về
tình thái. Căn cứ vào giá trị ngôn trung, câu hỏi gần với câu mệnh lệnh nhiều
hơn: cả hai câu đều nhằm yêu cầu người đối thoại làm việc gì, chẳng qua trong
câu hỏi là cung cấp một thông tin, một tri thức, còn trong câu mệnh lệnh thì việc
đó là một hành động bất kỳ. Tác giả cũng dựa trên việc phân loại giá trị ngôn
trung của J.L. Austin, J.R. Searle… và khẳng định thêm rằng phần lớn giá trị
ngôn trung này lệ thuộc quá nhiều vào ngôn cảnh.
Như vậy việc “phân loại câu theo lực ngôn trung” của tác giả Cao Xuân
Hạo cũng dựa vào mặt hình thức chứ không phải chỉ dựa vào công dụng .
Cũng theo quan điểm này, tác giả Bùi Mạnh Hùng với bài “Bàn về vấn
đề phân loại câu theo mục đích phát ngôn” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 2
(2003) cho rằng trong cấu trúc của câu bao giờ cũng có phương tiện ngôn ngữ
giúp ta quy câu về một kiểu nhất định gắn với một mục đích phát ngôn (lực ngôn
trung) điển hình. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc của ngôn ngữ học. Tác
giả thay cho thuật ngữ “phân loại câu theo mục đích phát ngôn” của ngữ pháp
truyền thống “phân loại câu theo lực ngôn trung” của Cao Xuân Hạo là “phân
loại câu theo dấu hiệu hình thức gắn với mục đích phát ngôn điển hình”. Khi xác
định kiểu câu tác giả dựa trên ba nguyên tắc.
1. Không xét một câu nào đó vào hai kiểu câu khác nhau.

2. Mỗi một kiểu câu có một hình thức riêng mà kiểu câu khác không có
(hình thức riêng có thể biểu hiện chỉ qua một phương tiện ngôn ngữ mà cũng có
thể biểu hiện qua những phương tiện ngôn ngữ cùng một lúc)
3. Không coi ngữ điệu là phương tiện đánh dấu các kiểu câu.
Không dựa vào công dụng/ chức năng/ mục đích phát ngôn của toàn câu
để phân loại. Cũng từ những nguyên tắc này mà tác giả cho rằng câu cầu khiến
không nhất thiết phải được xác lập thành một kiểu câu riêng có được đích ngôn
trung là cầu khiến có thể diễn đạt bằng kiểu câu trần thuật hay nghi vấn (đây
chính là phương thức gián tiếp thể hiện hành động cầu khiến). Tuy nhiên có lẽ
do hành động yêu cầu, đề nghị, ra lệnh,… là hành động thường xuyên và quan
trọng đến mức không có ngôn ngữ nào trên thế giới thiếu kiểu câu này, vì vậy
tác giả đưa ra khái niệm về câu cầu khiến như sau:
Câu cầu khiến là câu có từ cầu khiến như hãy / đừng / chớ và chủ thể của
hãy / đừng / chớ bao giờ cũng ở ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất số nhiều; có khả
năng thêm từ hãy / đừng / chớ vào những câu đã nêu trên
Trang 9


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Như vậy là có sự khác biệt rạch ròi giữa câu cầu khiến và hành động cầu
khiến. Câu cầu khiến dựa vào dấu hiệu hình thức để xác định còn hành động cầu
khiến thì căn cứ vào lực ngôn trung.
Ngoài ra rải rác trên các tạp chí chuyên ngành có khá nhiều bài viết đề
cập đến câu cầu khiến, lời cầu khiến và hành động cầu khiến trong giao tiếp.
Chẳng hạn như Cầu khiến lịch sự, Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng
Việt của Vũ Thị Thanh Hương, Quan hệ “Quyền’’ và hành động ngôn từ cầu
khiến của Nguyễn Thị Thanh Bình,…

3. Nội dung nghiên cứu
Trong tiếng Việt, cầu khiến là một khái niệm rộng, thể hiện nhiều nét

nghóa khác nhau như thỉnh cầu, ra lệnh, yêu cầu / đề nghị,…. Chính vì vậy mà
hành động cầu khiến được người Việt sử dụng cũng mang giá trị tại lời khác
nhau. Nó có thể là hành động ra lệnh, hành động thỉnh cầu hay hành động yêu
cầu / đề nghị,…để không chỉ thể hiện nội dung mà còn biểu đạt những sắc thái ý
nghóa khác nhau của người nói trong giao tiếp. Phương thức thể hiện hành động
cầu khiến trong mỗi ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng đều đa
dạng, phong phú thể hiện những nét đặc trưng văn hoá của quốc gia và từng địa
phương. Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiếp nhận và vận dụng những
thành tựu của ngôn ngữ học về vấn đề cầu khiến để từ đó đặc trưng hoá các
phương thức thể hiện hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Đó là:
− Phương thức thể hiện trực tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
− Phương thức thể hiện gián tiếp hành động cầu khiến trong tiếng Việt
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu khoa học phù hợp với đặc trưng chuyên ngành như: thu thập ngữ
liệu, phân loại, khảo sát, nhận xét... Các phương pháp đó bổ sung, hỗ trợ và tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, phương pháp chủ yếu được sử dụng là:
! Phương pháp miêu tả: được dùng để khảo sát, miêu tả các loại hành
động cầu khiến chủ yếu và phương thức thể hiện chúng trong tiếng
Việt.
! Phương pháp thống kê: để xác định và đối chiếu đặc điểm ngữ nghóa,
ngữ pháp của các loại hành động cầu khiến chủ yếu trong tiếng Việt.
Trang 10


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
! Phương pháp phân tích ngữ nghóa – ngữ dụng học: có kết hợp với phân
tích ngữ nghóa cú pháp của các biểu thức biểu hiện các loại hành động
cầu khiến chủ yếu trong tiếng Việt .

4.2. Nguồn ngữ liệu
Các ngữ liệu đã khảo sát và trình bày trong luận văn được thu thập chủ yếu
từ lời ăn tiếng nói hàng ngày mà người viết quan sát được và từ một số văn bản
viết, đặc biệt là các tác phẩm văn chương.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 110 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham
khảo. Phần nội dung chính của luận văn được chia làm hai chương:
Chương Một có tiêu đề là Tổng quan về hành động ngôn từ và hành động
cầu khiến trong tiếng Việt. Trong chương này, luận văn trình bày hai vấn đề lớn
hành động ngôn từ và hành động cầu khiến trong tiếng Việt. Trong vấn đề thứ
nhất, luận văn trình bày về khái niệm hành động ngôn từø, các hành động ngôn
từ, điều kiện sử dụng hành động ngôn từ, nghóa tường minh nghóa hàm ẩn và
phương thức biểu hiện hành động ngôn từ. Trong vấn đề thứ hai, luận văn trình
bày về khái niệm cầu khiến, các loại hành động cầu khiến chủ yếu và cầu khiến
lịch sư.ï
Chương Hai có tiêu đề là Phương thức thể hiện hành động cầu khiến
trong tiếng Việt. Trong chương này, luận văn trình bày hai phương thức phương
thức thể hiện trực tiếp và phương thức thể hiện gián tiếp hành động cầu khiến
trong tiếng Việt. Phương thức thể hiện trực tiếp bao gồm phương thức tỉnh lược
chủ ngữ ở ngôi thứ hai, phương thức dùng tiểu từ tình thái, phương thức dùng vị
từ, phụ từ tình thái và phương thức dùng câu ngôn hành. Phương thức gián tiếp
thể hiện ở dạng khẳng định và dạng nghi vaán.

Trang 11


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt

NỘI DUNG


Chương một

TỔNG QUAN VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
VÀ HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN
1. HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
1.1 Khái niệm về hành động ngôn từ
Khi tìm hiểu về lịch sử vấn đề lý thuyết hành động ngôn từ, người ta cho
rằng người đặt tiền đề, đi tiên phong cho lý thuyết này là nhà triết học người
Áo L.Wittgenstein . Ông đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và
việc sử dụng ngôn từ (lời nói) như một hành động. Chính vì vậy tất cả đóng góp
của ông chỉ dừng lại ở việc tìm ra những quy tắc nhất định khi con người sử
dụng lời nói.
Nếu như L Wittgenstein là người đặt tiền đề thì J. L. Austin lại là người
đặt nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ. Qua công trình nghiên cứu
“How to do thing with words” ông bày tỏ luận điểm “To say is to do something”
(nói là làm) Ông cho rằng để biểu hiện, diễn tả một hành động ngôn từ thì cần
phải nói ra điều đó và làm - đi vào thực tế, thực tiễn sử dụng ngôn ngữ. Từ luận
điểm này mà người ta đã xây dựng nên lý thuyết về hành động ngôn từ. Như
vậy, hành động ngôn từ là nhấn mạnh bản chất của câu nói. Khi ta nói một câu
nghóa là ta đã thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn như thông báo,
khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn,… Đó là những hành động được thực hiện
bằng ngôn từ và được gọi là hành động ngôn từ. Và J.L.Austin xem hành động
ngôn từ là một thể thống nhất những hành động:
− Hành động tạo lời (locutionary act)
Trang 12


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
− Hành động tại lời (illocutionary act)
− Hành động mượn lời (perlocutionary act)

1.2 Các hành động ngôn từ
! Hành động tạo lời: J.L.Austin đặt tên cho hành động này là “nói một
điều gì đó”. Đây là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu nói
! Hành động tại lời: Hành động tại lời là nói một điều gì đó và thực
hiện điều đó như thế nào. Và thực hiện hành động ấy phải ngay khi
phát ra câu nói.
Ví dụ: – Lớp ồn quá! (Hành động tại lời là nhận xét lớp ồn)
– Không nói chuyện riêng. (Hành động tại lời là đề nghị học sinh không
nói chuyện riêng trong lớp)
Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó
bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều
kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành động
tại lời.
! Hành động mượn lời : Hành động mượn lời là hành động thông qua
việc phát ngôn câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình cảm…
của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể
không nhận ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành
động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác nhau.
VD : Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với
người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: Anh về cho em đi ngủ.
Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau :
1. Mấy giờ rồi anh?
2. Ngày mai em phải đi dạy sớm .
3. Anh à ! Mẹ thường nhắc nhở em đi ngủ sớm có lợi cho sức khoẻ,…
J.R. Searle với lý thuyết về hành động ngôn từ: J. R. Searle đặc biệt quan
tâm đến người nói và điều được nói. Từ những mặt còn hạn chế của Austin,
Searle đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Qua công trình “Các hành
động ngôn từ gián tiếp”,1969, Searle bày tỏ quan điểm: Một hành động ngôn
từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một

Trang 13


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
hành động ngôn từ khác. Nghóa là một hành động tại lời được thực hiện gián
tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác. Nó có đặc điểm sau:
− Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những
hành động tại lời khác nhau.
− Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp
khác nhau.
VD : Bạn có thể cho tớ mượn cái áo mưa được không?
Ở ví dụ trên hành động tại lời là hỏi (hình thức) nhưng mục đích lại là đề
ngh:Bạn hãy cho tớ mượn cái áo mưa.
J.R. Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với J.L.
Austin. Ông đưa ra 12 tiêu chí để phân loại. Trong đó có 3 tiêu chí quan trọng
chi phối sự phân loại đó là:
* Mục đích của hành động tại lời (Illocutionary point)
* Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực (Direction of fit)
* Trạng thái tâm lý được biểu hiện.
Dựa vào những tiêu chí này mà J.R. Searle chia hành động ngôn từ ra
thành 5 loại :
(1) Khẳng định (Assertives)
* Mục đích của hành động tại lời là người nói chịu trách nhiệm về giá trị
chân lý của mệnh đề được biểu đạt.
* Hướng thích nghi là từ hiện thực đến lời lẽ.
* Trạng thái tâm lý là tin tưởng vào tính đúng đắn, giá trị chân lý của
điều được nói ra.
(2) Cầu khiến (Directive)-Mệnh lệnh
* Mục đích của hành động tại lời: nhằm để người tiếp nhận làm một việc
gì đó.

* Hướng thích nghi từ lời lẽ đến hiện thực: Lời lẽ có trước, hiện thực thay
đổi theo lời lẽ, do người tiếp nhận thực hiện
* Trạng thái tâm lý: Người nói mong muốn điều cầu khiến sẽ được thực
hiện
J.R. Searle phân loại hành động cầu khiến như sau:

Trang 14


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Hành động cầu khiến bao gồm những hành động như cầu khiến, ra lệnh,
van nài, đề nghị, cảnh báo, cho phép, hỏi... Riêng với hành động cảnh báo thì
J.R. Searle khái quát một số ngôn ngữ qua biểu thức:
Khéo kẻo x: Khéo kẻo ngã; khéo kẻo vỡ …
Coi chừng x: Coi chừng mất xe; coi chừng móc túi; coi chừng thắng gấp
,…
Hay dùng câu ngôn hành:
Tôi cảnh báo cho anh biết nếu lần sau còn tái phạm tôi sẽ đuổi việc.
(3) Hứa hẹn (Commissive)
* Mục đích của hành động này là người nói tự gán trách nhiệm cho mình
là phải thực hiện một hành động nào đó.
* Hướng thích nghi: Từ lời nói đến hiện thực đều do người nói thực hiện
* Trạng thái tâm lý: Khi hứa hẹn trạng thái tâm lý không xác định, phụ
thuộc vào từng hành động hứa cụ thể
Hành động hứa hẹn bao gồm: hứa, thề, cam đoan, cho, tặng, biếu… Tuy
nhiên hành động cho, tặng, biếu không phải là hành động ngôn từ thuần tuý
Ví dụ: Tôi cam đoan đó là sự thật .
Tôi hứa sẽ đúng hẹn .
(4) Bày tỏ (Expressive)
* Mục đích: Bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó.

* Hướng thích nghi: Người nói làm cho lời lẽ thích nghi với hiện thực. Và
hiện thực xảy ra trước, lời lẽ được làm cho thích nghi.
* Trạng thái tâm lý: Không xác định, phụ thuộc vào hành động ngôn tư ø.
Hành động bày tỏ bao gồm những hành động như: cảm ơn, xin lỗi, chúc
mừng, hối tiếc, hoan nghênh, phàn nàn, an ủi, chấp nhận,…
Ví dụ: Xin lỗi anh vì tôi đến trễ .
Thật buồn (thật hối tiếc) khi không kịp gặp anh.
(5) Tuyên bố (Declaratives)
* Mục đích: gây ra một sự thay đổi nào đó bằng lời tuyên bố.
Trang 15


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
* Hướng thích nghi: Từ lời lẽ đến hiện thực, hiện thực xảy ra ngay sau khi
hành động ngôn từ được thực hiện.
* Trạng thái tâm lý: Không xác định được nhưng các yếu tố của thể chế
làm cho hành động ngôn từ của người nói có giá trị.
trừ,…

Tuyên bố bao gồm những hành động như: tuyên bố, kết tội, từ chức, khai
VD: Tôi tuyên bố buổi lễ bắt đầu .
Cuộc họp được tổ chức để khai trừ anh ra khỏi Đảng.

1.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ
1.3.1 Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ
Trong hoạt động giao tiếp, lời nói được xem là một hành động. Việc sử
dụng lời nói chịu sự chi phối nhất định mà L.Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn
ngữ” đồng thời J.Austin cũng đưa ra luận điểm “nói là làm” nói là một cách sử
dụng âm thanh ngôn ngữ để bộc lộ một nội dung thông báo nào đó. Và để đạt
được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các điều kiện sử

dụng của các hành động ngôn từ. Bởi lẽ để hành động được thực hiện thì mỗi
hành động ngôn từ đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người
nghe thực hiện một hành động nào đó như yêu cầu, đề nghị, sai bảo, khuyên
răn… mà người nói mong muốn thì phía người nói phải lựa chọn cách nói làm
sao để người nghe không chỉ hiểu điều mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri
nhận đích ngôn trung.
Một em bé chưa biết nói nếu khát sữa không thể thực hiện được một
hành động ngôn từ. Hay khi ta muốn ra lệnh cho một em bé người ngoại quốc
làm một điều gì đó thì ta phải biết ngôn ngữ của quốc gia đó hoặc người ra lệnh
hoặc người nhận lệnh cùng biết một ngôn ngữ thì cuộc hội thoại bằng ngôn ngữ
mới được diễn ra và hành động đó mới được thực hiện. Chính vì vậy mà đối với
hành động ngôn từ tạo lời, các điều kiện sử dụng của nó là vềø ngữ âm, từ ngữ,
ngữ pháp của một ngôn ngữ để cấu tạo nên lời nói. Người nói cần phải tôn
trọng về mặt ngữ âm, từ ngữ, ngữ pháp của ngôn ngữ đó. Đồng thời các phía
người nói lẫn người nghe không bị hạn chế về mặt sinh lý như câm (phía người
nói) và điếc (phía người nghe).
Các hành động tại lời cũng đòi hỏi những điều kiện nhất định. Các hành
động tại lời bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng vì
vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng của nó mà
Trang 16


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Austin gọi tên chúng là những điệu kiện thuận lợi. Về vấn đề này Searle chia
làm 3 loại chính như sau:
− Điều kiện ban đầu
− Điều kiện chân thực
− Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản)
* Điều kiện ban đầu
VD: Hành động ngôn từ ra lệnh.

+ S ra lệnh cho H làm một việc gì đó có lợi cho S còn H bị thiệt (về thời
gian, công sức hay tiền của…)
+ S có vị thế giao tiếp (biểu hiện vị thế xã hội) cao hơn hoặc là người bậc
trên so với H (trong trường hợp vị thế xã hội không bình đẳng) Hệ quả là tính
bắt buộc cao.
+ Ra lệnh là làm một việc gì đó cho tôi, hoặc cho cả anh và cả tôi hoặc
không liên quan gì đến anh nhưng anh vẫn phải làm.
+ Khi S ra lệnh cho H làm một hành động C thì đương nhiên là hành động
đó chưa được thực hiện hoặc thực hiện rồi mà chưa đạt yêu cầu nên S mới ra
lệnh cho H thực hiện hay thực hiện lại mà thôi .
+ Đồng thời người ra lệnh cần biết được rằng người nhận lệnh có khả
năng hiểu được và thực hiện được mệnh lệnh của mình. Như vậy điều kiện ban
đầu liên quan đến quan hệ giữa hai người: người nói và người nghe, tới những ý
nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe.
* Điều kiện chân thành.
VD : Hành động ngôn từ mời mọc.
Khi S mời H (ăn uống hay tham dự một cuộc vui chơi hoặc tham gia vào
một công việc kinh doanh…nào đó) thì S phải chân thành phải mời thực chứ
không phải mời lơi. Mời mọc thường mang lợi cho H gây thiệt cho S. Vì vậy
một lời mời chân thành không chỉ hiển ngôn đều lợi mà H nhận được mà còn
cần phải gia tăng tính ép buộc mà vẫn không làm mất đi tính lịch sự của lời
mời. Chẳng hạn S dùng câu cầu khiến trực tiếp để mời mọc H Thế nào tối mai
H cũng phải tới nhà tôi dùng bữa đấy nhé! H tới nhà S dùng bữa, H được lợi
còn S bị thiệt (S phải tốn tiền, mất thời gian chuẩn bị bữa ăn…) và rõ ràng trong
lời mời của S, S đã hiển ngôn điều lợi tới dùng bữa và S thể hiện tấm chân tình
Trang 17


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
của mình bằng cách ép buộc thế nào cũng phải tới… Đây chính là điều kiện

chân thực của hành động mời mọc. Khác hẳn với lời mời gián tiếp bằng hình
thức một câu hỏi Tối mai H có tới nhà tôi dùng bữa được không? S đã đặt H vào
tình huống lựa chọn có/không. Trong một hoàn cảnh nào đó thì có thể coi đây là
lời mời lơi, mời cho có mời.
Như vậy điều kiện chân thành tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm
lý của hành động mà người nói thực hiện. Thông báo một điều gì đó cho người
khác thì phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép
buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp hành. Dùng câu hỏi để
tìm hiểu thông tin, người hỏi chân thành khi hoàn toàn chưa biết gì và thật sự
muốn biết về thông tin đó chứ không phải là hỏi xã giao, lấy lệ… hay thực hiện
hành động mời mọc thì phải mong muốn người nghe nhận lời mời của mình…
Còn điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản) là nói về trách nhiệm, sự
ràng buộc với người nói hoặc người nghe khi hành động đã được thực hiện. Đối
với hành động ra lệnh thì trách nhiệm ấy thuộc về người nhận lệnh. Điều kiện
thiết yếu của hành động mời mọc là người nghe sẵn lòng nhận lời mời, của
hành động khuyên răn là người nghe nhận thấy được giá trị của lời khuyên và
thực hiện lời khuyên ấy hay của hành động yêu cầu đề nghị là người nghe chấp
nhận lời yêu cầu, đề nghị…
Ngoài ra lý thuyết hành động ngôn từ của Searle còn có các điều kiện
khác như: điều kiện xuất phát và tới đích, điều kiện về nội dung mệnh đề… có
tác động không nhỏ vào hiệu quả giao tiếp trong hội thoại.
Điều kiện sử dụng hành động tại lời là những điều kiện mà những hành
động tại lời phải đáp ứng để nó có thể thích hợp với hoàn cảnh phát ngôn.
Chúng tôi chỉ nói đến điều kiện sử dụng hành động tại lời chân thực, không
phải của hành động ngôn ngữ không chân thực, không phái sinh.
Austin cho rằng điều kiện sử dụng hành động tại lời là những điều kiện
“may mắn” nếu chúng được bảo đảm thì hành động mới đó được “ thành công”
tức là mang lại hiệu quả trong giao tiếp và ngược lại.
Chẳng hạn như khi ta biết anh B mắc bệnh gan nặng, mời anh đến nhà
dùng cơm ta không thể cứ rót rượu bia mời anh uống bởi vì ta biết chắc rằng

anh không thể uống theo lời mời được, nó rất nguy hiểm cho tính mạng, làm
bệnh tật của anh thêm trầm trọng hơn. Austin gọi điều kiện sử dụng hành động
tại lời là“điều kiện may mắn” còn Searle thì gọi la“điều kiện thoả mãn”. Một
hành động tại lời tạo thành một hệ những điều kiện thoả mãn.
Trang 18


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
Tất cả các điều kiện của hệ là điều kiện đủ còn mỗi một điều kiện là
điều kiện cần Searle chia toàn bộ điều kiện ấy thành bốn loại điều kiện.
-Điều kiện nội dung mệnh đề: Chỉ ra bản chất nội dung của hành động.
Nội dung mệnh đề có thể là một hành động của người nói hay một hành động
của người nghe.
VD : Con hứa sẽ chăm chỉ học bài.
Hành động của người nói là hứa và lời hứa ấy có nội dung (mệnh đề ấy
có nội dung) là chăm chỉ học bài. Nội dung của mệnh đề có thể là một hành
động của người nói hay một hành động của người nghe.
–Điều kiện chuẩn bị: Đó là những hiểu biết của người nói về năng lực,
lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người nghe.
VD : Dù thế nào đi chăng nữa thì chủ nhật tuần này cậu cũng phải đến
nhà mình dùng cơm đấy nhé.
Đây là hành động mời mọc. Điều kiện chuẩn bị là S nắm bắt gần như
chắc chắn H nhận lời mời và chủ nhật tuần này H sẽ tới. Người mời phải chuẩn
bị như thế nào để người được mời nhận lời? Có lẽ S đã kiến trúc câu trần thuật
Chủ nhật tuần này cậu đến nhà mình dùng cơm để tạo câu cầu khiến có tính áp
đặt cao bằng cách đặt ra tình huống dù thế nào đi chăng nữa cùng với sự tham
gia của phụ từ hãy và TTTT nhé. Khi mời mọc, người mời phải nắm được khả
năng người được mời sẽ nhận lời mời của mình, đồng thời phải biết rằng người
mời và người được mời có vị thế xã hội có lợi thế cho người nói như thế nào để
tạo kiến trúc câu cho phù hợp. Hay khi ra lệnh cũng vậy, người nói phải tin

rằng người nhận lệnh có khả năng thực hiện hành động quy định trong lệnh,
đồng thời cũng phải biết chắc rằng mối quan hệ giữa mình và người nghe có vị
thế xã hội có lợi cho chính mình. Khi ta hứa với ai về một điều gì đó thì ta phải
thực sự mong muốn ta thực hiện được lời hứa đó và người nghe cũng tin tưởng
vào lời hứa của ta. Những mệnh đề đơn giản với sự khảo nghiệm, xác tín không
những đòi hỏi người nói đưa ra những vấn đề đúng mà còn phải có những bằng
chứng xác thực.
Điều kiện chân thành : Chỉ trạng thái tâm lý tương ứng của người nói
phát ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín: lệnh
đòi hỏi lòng mong muốn, hứa hẹn đòi hỏi ý định của người nói…
VD : Đừng bao giờ “thử một lần cho biết”.
Trang 19


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
(Báo Công an TPHCM, số 136)
Đây là hành động khuyên nhủ. S nghó rằng hành động không “thử một
lần” có hại cho H.
Điều kiện căn bản: Điều kiện này đưa ra trách nhiệm mà người nói hoặc
người nghe bị ràng buộc khi hành động tại lời đó được phát ra. Chẳng hạn như
hành động ra lệnh, hứa hẹn, đề nghị, mời mọc,…được thực hiện hoặc đối với tính
chân thực của nội dung. Nghóa là một lời xác tín buộc người nói phải chịu trách
nhiệm về tính đúng đắn của điều được nói ra.
VD: Hãy bắt đầu một ngày mới bằng cách tập thể dục.
Đây là lời khuyên. Điều kiện căn bản của hành động ngôn ngữ này là
nhằm đảm bảo rằng tập thể dục có lợi cho sức khoẻ (mang lợi lại cho H)
1.4. Nghóa tường minh, nghóa hàm ẩn
Nghóa tường minh: Khi đánh giá về nghệ thuật ngôn từ trong các tác phẩm
văn chương nói riêng, của phát ngôn trong hoạt động giao tiếp nói chung, người
xưa đã nhận diện được nghóa tường minh được gọi là “ý tại ngôn trung”, ý ở

trong lời và nghóa hàm ẩn “ý tại ngôn ngoại”, ý ở ngoài lời. Sau này bộ môn
ngữ dụng học ra đời đã nhìn nhận nghóa của phát ngôn một cách toàn diện hơn.
Bất kì một phát ngôn nào cũng có ý nghóa tường minh. Một phát ngôn ngoài các
ý nghóa nói ra trực tiếp như các yếu tố ngôn ngữ như âm, từ, kết cấu câu…còn có
thể gợi ra nhiều ý nghóa khác mà người nghe phải dùng đến thao tác suy ý và
phải dựa vào các yếu tố ngoài ngôn ngữ, vào văn cảnh, vào các quy tắc điều
khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại…mới nắm bắt
được. Như vậy nghóa tường minh: là ý nghóa được nói ra trực tiếp nhờ các yếu tố
ngôn ngữ như âm, từ, kết cấu câu…ý nghóa này hiển hiện trên ngôn từ còn gọi là
hiển ngôn.
VD : Tiếng gà le te lần lượt từ nhà nọ truyền đến nhà kia. Dưới lớp mái
lụp xụp của túp lều tranh, chị Dậu và vầng trăng tàn thơ thẩn nhìn nhau, dường
như đôi bên đều có riêng một tâm sự.
(Ngô Tất Tố)
Ở ví dụ trên tầng nghóa thứ nhất hiển hiện trên ngôn từ đó là: Tiếng gà từ
các nhà truyền đi, truyền từ nhà nọ sang nhà kia; trong túp lều tranh rách nát
chị Dậu và vầng trăng tàn nhìn nhau và dường như đôi bên đều có riêng một nỗi
Trang 20


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
niềm tâm sự. Tầng nghóa này rõ ràng, hiển hiện, chỉ cần căn cứ vào câu chữ là
có thể nhận diện được.
Như vậy muốn xác định nghóa tường minh của phát ngôn phải dựa vào
nghóa của mẫu câu và nghóa của từ ngữ trong phát ngôn. Đối với vấn đề xác
định nghóa của mẫu câu thì theo hai cách phân loại: theo đích ngôn trung (mục
đích nói) phân chia thành câu tường thuật, nghi vấn, cầu khiến hay cảm thán;
phân loại theo cấu trúc cú pháp với hai loại câu đơn, câu phức (câu phức hay
câu ghép)
VD : Ông mua chứ ông có xin nhà mày đâu!

Về mặt mẫu câu đây là câu trần thuật khẳng định ông mua chứ ông không
xin với mẫu “A chứ B đâu!”.
Bên cạnh việc dựa vào mẫu câu để xác định nghóa tường minh thì cũng
cần đặt từ ngữ vào mẫu câu để xác định ý nghóa ấy. Như ở ví dụ trên từ “chứ”
có nghóa phủ định hành động B chứ không phải hành động A nghóa là ông mua
là hành động ông thực hiện chứ không có hành động ngược lại là xin. Chính vì
vậy ông mua thì mày phải đưa nếu như ông xin thì mày đưa hay không thì tuỳ
mày tóm lại là phải đưa.
Nghóa hàm ẩn: Nghóa hàm ẩn là ý nghóa không lộ ra trên mẫu câu, từ
ngữ. Muốn lónh hội được ý nghóa đó, người tiếp nhận phải trải qua một quá trình
suy ý từ nghóa tường minh, căn cứ vào tình huống phát ngôn, cách thức sử dụng
mẫu câu, từ ngữ và quy tắc hợp logic. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ học và ngữ dụng học. Người đầu tiên nghiên cứu và đưa ra những cơ
sở lý luận về nghóa hàm ẩn là H.P. Grice. Ông đối lập giữa ý nghóa tự nhiên
(natural meaning) và ý nghóa không tự nhiên (non – natural meaning) Grice xác
định về ý nghóa không tự nhiên như sau : Người nói A muốn truyền báo ý nghóa
không tự nhiên bằng phát ngôn U khi và chỉ khi mà
+ A có ý định thông qua phát ngôn U gây ra hiệu quả ở người nghe B.
+ A muốn (có ý định) rằng điều kiện gây hiệu quả ở người nghe B có
hiệu lực đơn giản chỉ là nhờ chỗ B nhận ra được ý định mà A gởi gắm. Và như
vậy ý nghóa hàm ẩn (không tự nhiên) theo quan niệm của Grice là phải nằm
trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết. Ví
như:
A: (Mẹ nói với con gái) Đã 6 giờ rồi mà con vẫn còn ngủ hả?
Trang 21


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
B: Hôm nay con được nghỉ dạy mẹ ạ.
Ở phát ngôn A

Ý nghóa tường minh: Người mẹ hỏi cô con gái đã 6 giờ rồi mà sao vẫn
còn ngủ.
Ý nghóa hàm ẩn.
+ Tiền giả định
pp’1: Trong nhà có cô con gái.
pp’2: Cô gái ngủ dậy trễ.
pp’3: Do đặc trưng công việc mà không thể thức dậy trễ.
pp’4: Dựa vào sự lợi/ hại cho sức khoẻ thì không nên thức dậy trễ.
+ Hàm ngôn: Tuy hình thức là câu hỏi nhưng đây là lời nhắc nhở của mẹ
vì vậy nó có đích ngôn trung là cầu khiến.
inp : Hãy dậy đi kẻo trễ giờ đi dạy.
Như vậy mặc dù dưới hình thức một câu hỏi nhưng hàm ý lại là lời nhắc
nhở. Rõ ràng ý nghóa hàm ẩn này nằm trong ý định của người nói (người mẹ)
và cái ý định đó được người nghe (người con) nhận biết. Hiểu được mục đích
phát ngôn trong câu nói của mẹ nên cô con gái trả lời “ Hôm nay con được nghỉ
dạy mẹ a”ï câu trả lời ấy giải thích lý do mẹ hỏi “Tại sao đã 6 giờ rồi mà vẫn
còn ngủ”.
Trong giao tiếp rất nhiều trường hợp người nói không muốn thể hiện hiển
ngôn ý định của mình thay vào đó là lối nói hàm ẩn. Bằng lối nói này người nói
buộc người nghe phải suy nghó để nắm bắt ý nghóa thực của lời nói của mình để
tăng sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho lời nói. Người nói dùng lối nói hàm ẩn
do nhiều nguyên nhân, có thể do khiêm tốn, không muốn làm mất thể diện của
người nghe, muốn mỉa mai, châm biếm hay không muốn trực tiếp chịu trách
nhiệm về điều mình nói ra… Như vậy việc sử dụng các hành động ngôn từ trực
tiếp / gián tiếp chính là biện pháp để truyền báo các ý nghóa tường minh / hàm
ẩn.

1.5. Phương thức thể hiện hiệu lực tại lời
Ở phần (I.1) chúng tôi đã trình bày về lý thuyết hành động ngôn từ mà J.
L. Austin và J. R. Searle là người đặt nền móng và từ đó đã đưa ngôn ngữ vào

sự phong phú, đa dạng nhưng không kém phần phức tạp của hoạt động ngôn
ngữ trong đời sống hàng ngày. Lý thuyết này đã khẳng định giao tiếp cơ bản
của ngôn từ là một phát ngôn thực hiện hành động. Ở các nước phương Tây, khi
Trang 22


Hành động cầu khiến trong tiếng Việt
tìm hiểu ngôn từ người ta lưu tâm nhiều đến các yếu tố của tình huống giao
tiếp. Còn ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán và một số nhà ngôn ngữ
khác nghiên cứu tiếng Việt trên lập trường phân tích diễn ngôn. Cuối cùng các
nhà ngôn ngữ học đưa ra hai kết luận về phương thức thể hiện hiệu lực tại lời
với hai phương thức là trực tiếp và gián tiếp.
– Phương thức thể hiện hiệu lực tại lời trực tiếp: Thông qua các yếu tố
ngôn từ và các hành động ngôn từ được thực hiện đúng với các điều kiện sử
dụng , chẳng hạn đích ở lời là cầu khiến thể hiện trong các phát ngôn sau :
VD: Đừng nói chuyện nữa .
Làm bài đi,…
– Ngược lại với phương thức thể hiện hiệu lực tại lời trực tiếp là phương
thức thể hiện hiệu lực tại lời gián tiếp. Theo lý thuyết hành động ngôn từ thì
một hành động ngôn từ được coi là gián tiếp nếu hành động ngôn trung của nó
được hiểu bằng một dạng thức cú pháp của một hành động ngôn trung khác. Và
trong thực tế sử dụng ngôn ngữ có nhiều lý do, người nói sử dụng hành động
ngôn từ này nhưng lại nhằm đạt đến hiệu lực ở lời của một hành động ngôn từ
khác.
VD: (Mẹ nói với con gái)Trời mưa rồi phải không con ?
Thay cho cách nói: Trời mưa rồi con cất quần áo đ i.
Tóm lại: Việc lựa chọn phương thức thể hiện hành động ngôn từ trực tiếp
hay gián tiếp là tuỳ thuộc vào người nói sao cho đạt được hiệu quả trong giao
tiếp . Dùng phương thức gián tiếp nhưng làm sao để người nghe tri nhận được
hiệu lực ở lời , người nghe hiểu được hiệu lực ở lời của nó hoàn toàn không

phải là sự lựa chọn giữa một hành động ngôn từ này hay một hành động ngôn từ
khác mà là một phản ứng hết sức tự nhiên từ phía người nói . Điều này phụ
thuộc vào các nhân tố tâm lý xã hội của các nhân vật tham gia giao tiếp cũng
như các điều kiện giao tiếp cụ thể. Theo Đỗ Hữu Châu thì: “ …có nhiều hiệu lực
tại lời gián tiếp đã trở thành quy ước, trở thành một thứ nghi thức phi ngôn
ngữ”mà người Việt sử dụng. Như khi hỏi về thời gian giờ giấc người Việt
thường dùng câu: Anh có đeo đồng hồ không? ; hỏi mượn tiền thì : Anh (chị) có
đem theo tiền không ?…không nhằm để xác định xem người nghe có / không đem
theo đồng hồ/ tiền mà đương nhiên người nghe hiểu được đây là lời cầu khiến
hãy cho tôi biết bây giờ là mấy giờ? và Hãy cho tôi mượn tiền ! …

Trang 23


×