Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Quản lý tốt tiền ĐTĐ làm giảm nguy cơ mắc bệnh pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.65 KB, 5 trang )

Quản lý tốt tiền ĐTĐ làm giảm
nguy cơ mắc bệnh

Ở người lớn được chẩn đoán tiền ĐTĐ, việc thay đổi hành vi lối sống có
thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2. Kết
quả từ Chương trình Phòng chống bệnh ĐTĐ của Cơ quan về dịch vụ Sức khỏe và
con người Hoa Kỳ (HHS) tiến hành trên 3.000 người cho thấy giảm từ 5 - 7% kg
cân nặng có thể làm giảm 58% nguy cơ bệnh tiến triển lên ĐTĐ type 2. Có thể
giảm cân bằng cách ăn kiêng (giảm chất béo và lượng calo ăn vào) cũng như tập
thể dục với mức độ vừa phải tối thiểu 150 phút một tuần (hầu hết những người
tham gia nghiên cứu chọn đi bộ).
Uống thuốc điều trị ĐTĐ gốc metformin cũng có thể làm chậm quá trình
tiến triển của bệnh lên ĐTĐ type 2 ở một số người tham gia nghiên cứu. Các thuốc
điều trị ĐTĐ khác không được khuyến cáo sử dụng trong giai đoạn tiền ĐTĐ.

Hướng dẫn mới về quản lý tiền ĐTĐ

Theo một tuyên bố đồng thuận do Hội Nội tiết lâm sàng Mỹ (AACE), quản
lý tiền ĐTĐ bao gồm cả thay đổi hành vi lối sống và đặt mục tiêu điều trị huyết áp
và mỡ máu như đối với người bệnh ĐTĐ.
Vì tiền ĐTĐ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiến triển thành
ĐTĐ type 2, những hướng dẫn này cũng giúp phát hiện và điều trị bệnh ĐTĐ type
2 sớm hơn và hiệu quả hơn. Do đó hiện nay chưa có phác đồ điều trị bằng thuốc
nào được Cơ quan Quản lý thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) duyệt, dùng cho
người mắc tiền ĐTĐ để ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2, hội đồng
các chuyên gia đưa ra hướng dẫn điều trị tiền ĐTĐ bằng 2 hướng.
Mục tiêu đầu tiên là thay đổi hành vi một cách tích cực để ngăn ngừa bệnh
tiến triển lên thành ĐTĐ type 2. Mục tiêu thứ hai là ngăn ngừa biến chứng tim
mạch bằng cách điều trị bằng thuốc đối với những người mắc tiền ĐTĐ mà thay
đổi lối sống không hiệu quả. Ngoài thuốc hạ đường huyết, có thể phải điều trị cả
thuốc hạ huyết áp, hạ mỡ máu vào thời điểm thích hợp. Những người có yếu tố


nguy cơ cao với mức đường huyết chạm ngưỡng của người bệnh ĐTĐ, huyết áp
cao hoặc mỡ máu cao cần theo dõi các yếu tố nguy cơ chặt chẽ hơn.
Những câu hỏi cụ thể và những nhận xét xác đáng được đề cập đến trong
tuyên bố đồng thuận:

Sự khác nhau giữa đường huyết bình thường, tiền ĐTĐ và ĐTĐ

Đường huyết được coi là bình thường khi đường huyết đói dưới 100mg/dL
(5,6mmol/L) và đường huyết sau ăn 2h dưới 140mg/dL (7,8mmol/L). Được chẩn
đoán ĐTĐ khi đường huyết đói lớn hơn hoặc bằng 126mg/dL (7mmol/L) và
đường huyết sau ăn 2h lớn hơn hoặc bằng 200mg/dL (11,1mmol/L); khoảng cách
giữa ĐTĐ và không ĐTĐ chưa được định nghĩa rõ ràng. Ở một số người có mức
đường huyết chấp chới ngưỡng (đường huyết đói trong khoảng từ 100 -
125mg/dL; đường huyết sau ăn 2h từ 140 - 199mg/dL) cảnh báo nguy cơ có thể
mắc bệnh ĐTĐ type 2, bệnh tim mạch và các biến chứng mạch máu nhỏ.

Những rủi ro lâm sàng người bệnh có thể mắc phải là gì?

Trong nghiên cứu DECODE, nguy cơ tử vong do tất cả các nguyên nhân
tăng đáng kể nếu đường huyết 2h sau ăn tăng từ 95 lên 200mg/dL.

Trong Chương trình Phòng chống bệnh ĐTĐ, khoảng 8% bệnh nhân rối
loạn dung nạp đường huyết bị biến chứng võng mạc và 13% trong số họ sẽ bị mắc
ĐTĐ.

Nghiên cứu STOP NIDDM cho thấy nhóm chứng (placebo) với huyết áp
cao (> 140/90mmHg) và tiền sử rối loạn dung nạp glucose 3 năm làm tăng nguy
cơ bị các biến cố về tim mạch khoảng 5% trong vòng 4 năm.

Nghiên cứu Honolulu về tim mạch (Honolulu Heart Study) cho thấy tăng

đường huyết sau ăn thường đi kèm với tăng các ca đột tử trong 23 năm nghiên
cứu.

×