Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) công tác chỉ đạo đưa trò chơi dân gian vào trường tiểu học nam xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trị chơi dân gian là một hoạt động đặc thù chỉ có trong xã hội loài người
được nhân dân sáng tạo ra từ thực tiễn cuộc sống của họ, được lưu truyền tự
nhiên qua nhiều thế hệ. Trong các nhà trường nếu được trú trọng và quan tâm thì
nó là một mơn học luôn được học sinh hứng thú và đặc biệt nếu được bổ sung
cho phù hợp với từng nơi, từng lúc, thì trị chơi dân gian giúp ích cho tinh thần
về nhu cầu vui chơi giải trí, giao lưu văn hóa và phát triển các mặt thể chất tinh
thần của con người.
Hướng đến mục tiêu “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
việc đưa trị chơi dân gian vào trường học mang nhiều ý nghĩa thiết thực. Nó
khơng chỉ góp phần rèn luyện sức khỏe, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh
hoạt theo nhóm mà cịn giúp học sinh rèn khả năng ứng xử văn hóa, khơng sa đà
vào những games trực tuyến bạo lực vô bổ đang tràn lan và các tệ nạn xã hội.
Trong trường học sau những giờ học căng thẳng, những buổi sinh hoạt
ngoại khố, các em được chơi các trị chơi dân gian bổ ích sẽ tạo nên hứng thú
cho những giờ học tiếp theo. Thông qua hoạt động tiếp cận của học sinh khi
chơi trị chơi dân gian thì chính các em là những người ni dưỡng và phổ biến
văn hố dân tộc ở lứa tuổi đó là điều quan trọng nhất để hình thành văn hố dân
tộc. Vì vậy đưa trị chơi dân gian vào trường học là phù hợp và cần thiết vì nó
khơng chỉ là một giải trí đơn thuần mà thơng qua việc chơi cũng đã góp phần
vào việc giáo dục có hiệu quả, giúp học sinh tăng cường sức khoẻ, phát triển
giao tiếp, bình đẳng giới, hình thành nhân cách con người Việt Nam trong thời
đổi mới. Vì tất cả những lý do trên mà tơi đã chọn đề tài: “Cơng tác chỉ đạo
đưa trị chơi dân gian vào trường tiểu học”.
1.2 . Mục đích nghiên cứu.
Trị chơi dân gian là một sinh hoạt văn hóa do nhân dân sáng tạo trong
quá trình lao động, sản xuất và được lưu truyền tự nhiên, rộng rãi trong cộng
đồng, trị chơi dân gian xưa được xem như là hình thức giáo dục đơn giản, giúp
hình thành nhân cách cũng như phát triển thể chất cho trẻ nhỏ.
Đưa trò chơi dân gian vào trường tiểu học với mục đích giới thiệu đến các


em những trị chơi bổ ích, học mà chơi - chơi mà học của cha ông xưa. Trong
khuôn viên nhà trường học sinh có thể thỏa sức chơi những trị chơi dân gian.
Qua đó, đã giúp các em có được giờ phút giải trí đúng nghĩa sau những ngày học
tập căng thẳng. Đưa ra được những giải pháp nhằm chỉ đạo tốt cơng tác đưa các
trị chơi dân gian vào trường tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển trí tuệ, thể
chất cho học sinh từ khối lớp 1 đến khối lớp 5 của trường Tiểu học Nam Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết


+ Phân tích, so sánh, hệ thống hóa các vấn đề lí luận từ các cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến sử dụng trò chơi và trò chơi dân gian, các vấn đề
liên quan đến tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu
học.
+ Nghiên cứu các văn bản và chỉ thị giáo dục về tổ chức các hoạt động
giáo dục và dạy học trong nhà trường tiểu học, nghiên cứu chương trình giáo
dục của tiểu học, xác định cơ sở pháp lý của việc đề xuất các biện pháp sử dụng
trò chơi dân gian trong nhà trường tiểu học hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng khảo sát ý kiến của giáo viên tiểu học, các
em học sinh các khối lớp từ khối 1 đến khối 5.
Quan sát và ghi chép có biên bản nhận xét đánh giá đối với những hoạt
động tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tổ chức các hoạt động
vui chơi giải trí.
Đàm thoại với giáo viên và học sinh để tìm hiểu những nội dung liên quan
đến nội dung tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho các em học sinh
tiểu học.
Tổ chức lấy ý kiến của phụ huynh học sinh.

Phương pháp thống kê lựa chọn
Sử dụng phương pháp thống kê lựa chọn để xử lý kết quả khảo sát thực
trạng đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Trò chơi dân gian là loại trò chơi do nhân dân nghĩ ra và được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Từ xa xưa người lớn dùng để dạy trẻ học nói, học
đếm, học tính tốn…Trị chơi dân gian là một hình thức văn hóa phản ánh cuộc
sống của mỡi dân tộc, mỡi địa phương qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, mỡi
dân tộc, mỡi địa phương đều có những trị chơi của dân tộc mình, các trị chơi đó
lớn lên, sống mãi theo thời gian với dân tộc mà ngày nay người ta gọi là trò chơi
dân gian.
Đối với trẻ em khơng thể thiếu những trị chơi. Trị chơi dân gian khơng
đơn thuần là một trị chơi của trẻ con mà nó cịn chứa đựng cả một nền văn hóa
dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ nâng
cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo
mà cịn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước.
Ngày nay, các em đang sống trong một xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời
gian giành nhiều cho học tập, xem ti vi và chơi điện tử, trò chơi dân gian đang
ngày càng bị mai một và quên lãng khơng chỉ ở các thành phố, mà cịn ở các vùng
q, vùng miền núi. Chính vì vậy để giúp các em hiểu và quay về với cội nguồn
là một việc làm vô cùng cần thiết, làm cho các em luôn biết quý trọng giá trị tinh
thần văn hoá của xã hội.


2.2. Thực trạng của vấn đề:
a. Thuận lợi:
- Nhà trường đóng trên địa bàn gần trung tâm xã, nhân dân và địa phương
rất quan tâm đến phong trào giáo dục.
- Các em học sinh chủ yếu là con em dân tộc Thái và dân tộc Mường.

- Tất cả các thầy cơ giáo trong nhà trường đều nhiệt tình, tâm huyết hướng
dẫn học sinh tham gia các trò chơi dân gian.
- Các em học sinh chăm ngoan, hăng hái, thích khám phá những điều mới
lạ, đặc biệt là các trò chơi. Các em muốn hịa mình vào các trị chơi tìm sự thoải
mái thư giãn sau tiết học căng thẳng.
b. Khó khăn:
- Học sinh cịn ham chơi khơng chú tâm cho việc học, ngoài ra các em
thường xem ti vi, chơi điện tử. Chính vì vậy các trị chơi dân gian dường như đã
bị lãng qn, có những em khơng biết gì về các trị chơi dân gian, các bài hát,
bài đồng dao, các câu thành ngữ.
- Vốn kiến thức về trò chơi dân gian của giáo viên rất nghèo, nhiều giáo
viên không thuộc các bài hát, bài đồng dao, không nắm được cách chơi. Cách tổ
chức chơi cho học sinh chưa linh hoạt, sáng tạo, nhiều giáo viên rất lúng túng
khi làm người quản trò, thời lượng dành cho tổ chức trị chơi dân gian rất ít.
c. Khảo sát phân loại học sinh:
Sau 2 tuần của tháng 8, Tôi đã khảo sát học sinh ở hai khu Nam Tân và
khu Bút của trường về việc hiểu khả năng nhận biết về các trò chơi dân gian như
sau:
Phân loại đối tượng
Tổng số HS yêu thích HS hiểu biết HS biết tự tổ
Hs khơng quan
Học sinh trị chơi dân
về trị chơi
chức trị chơi tâm, khơng biết về
gian
dân gian
trị chơi dân gian
162
69 (42,5%)
50 (31,8 %)

30 (18,5 %)
13 (7,2%)
2.3. Giải pháp thực hiện:
Để đưa “Trò chơi dân gian vào trường học”, là Hiệu trưởng của một
trường tiểu học tơi ln trăn trở để tìm ra các biện pháp tổ chức trò chơi dân
gian cho các em học sinh một cách có hiệu quả nhất, để giúp các em có những
phút vui chơi thối mái sau những giờ học căng thẳng, tạo cho các em thêm
hứng thú để học tập, sống hồn nhiên, hạn chế những tật xấu, đồng thời rèn luyện
thể chất và tâm hồn trong sáng của các em để giúp các em hiểu và quay về với
cội nguồn. Để đưa các trò chơi dân gian vào nhà trường, tôi đồng loạt thực hiện
các biện pháp sau:
- Biện pháp thứ nhất là: Tập huấn cho giáo viên và tổng phụ trách đội
cách hướng dẫn và tổ chức trò chơi dân gian.


- Biện pháp thứ hai là: Chọn những trò chơi phù hợp với ngày lễ, ngày
hội.
- Biện pháp thứ ba là: Chọn những trò chơi tổ chức trong những buổi sinh
hoạt ngoại khóa.
- Biện pháp thứ tư là: Tổ chức trò chơi trong những giờ ra chơi.
2.3.1. Tập huấn cho giáo viên cách hướng dẫn và tổ chức trò chơi dân
gian.
Góp phần hưởng ứng phong trào thi đua “Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, góp phần gìn giữ, phát huy các trò chơi dân gian, làm cho vốn kiến
thức về trò chơi dân gian ngày càng phong phú về thể loại. Phát huy khả năng
tìm tịi, sáng tạo trong các hoạt động để có thể lồng ghép các trị chơi đó vào các
tiết học với nội dung phù hợp. Để tất cả giáo viên có những kiến thức và nhớ về
trò chơi dân gian (cách chơi và lời đồng dao kèm theo trong khi chơi), ngay từ
đầu năm học, tôi đã tổ chức tập huấn giới thiệu một số trò chơi dân gian cho
giáo viên trong trường, người trực tiếp tập huấn, triển khai cho giáo viên là cô

Hà Thị Thược – giáo viên Âm nhạc kiêm Tổng phụ trách đội. Mỡi trị chơi sau
khi đã được hướng dẫn cách chơi, yêu cầu giáo viên đều tham gia chơi thử.
Đồng thời yêu cầu mỗi giáo viên giới thiệu cho đồng nghiêp của mình một trị
chơi khác mà mình đã biết đề bổ sung vốn kiến thức về trò chơi dân gian cho
phong phú.
Sau khi tập huấn nhà trường đã thành lập được Thư viện trò chơi dân gian
để giáo viên tham khảo. Còn giáo viên trở nên năng động, linh hoạt, tự tin hơn
khi tổ chức các hoạt động tập thể từ đó tham gia nhiệt tình các phong trào tập
thể, và nâng cao năng lực chuyên môn.
2.3.2. Chọn những trò chơi phù hợp với ngày lễ, ngày hội:
Trò chơi dân gian có nhiều thể loại phong phú, mỡi trị chơi dân gian đều
có quy luật riêng, mang những sắc thái khác nhau, chính vì thế người giáo viên
phải chọn những trò chơi phù hợp với học sinh về sức khoẻ, trình độ, hồn cảnh
điều kiện, trong những ngày lễ, ngày hội như: Khai giảng, tết Trung thu, chào
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, chào mừng ngày Thành lập Đồn 26/3…
thì cần chọn những trị chơi đồng đội mang tính tập thể. Trong khi tổ chức cho
học sinh chơi các trị chơi có tính chất đồng đội, u cầu các thầy cô giáo phải
quan tâm đến yếu tố thi đua có chuẩn bị và thang đánh giá thành tích của cá
nhân cũng như thành tích chung của đồng đội.
Nhờ vậy, ln kích thích được tính tích cực phấn đấu của học sinh vì
thành tích bản thân, vì thành tích đồng đội mà mình là thành viên. Qua đó, vun
đắp cho các em ý thức đồng đội, tình bạn thân ái. Các trị chơi có thể tổ chức ở
các ngày lễ, hội như:
a) Trò chơi: Ném Còn đây là trò chơi đặc trưng của dân tộc Thái. Tiếng
Thái gọi trò chơi này là (bặt con).


Học sinh trường Tiểu học Nam Xuân chiếm 90% là dân tộc Thái và
Mường, vì vậy tổ chức chơi ném còn vào các ngày lễ hội của trường là rất phù
hợp.. "Cịn" được thầy cơ làm bằng vải, những mảnh vải vụn cắt thành hình ơ

vng, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt
bơng hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sơi. Dây cịn cũng được
khâu bằng vải, dài độ nửa sải tay, một đầu đính vào điểm tâm giao của hình
vng quả cịn. Tua cịn được cắt bằng vải vụn, đủ màu sắc, sau đó đính vào 4
góc quả cịn và đính so le điểm trên dây cịn, tạo thành biểu tượng như hình con
rồng bay. Tiếng Thái gọi là "Cón cuống", mang niềm tin gửi gắm nơi con rồng
đem lại sự phồn thịnh, hạnh phúc.
*Cách chơi: Gọi là “ tọt cón vóng” là tung cịn vịng, ở giữa sân bãi, chôn
một cây tre cao 5 - 8 m, đầu trên cao có gắn một cái vịng trịn đường kính khoảng
50 - 70cm theo phương thẳng đứng. Sau đó gắn vải đỏ, phần trên khâu chắc vào
mép vịng, ở dưới thả bng để khi ai đó tung trúng vào trong vòng còn dễ phát
hiện ra, thể hiện sự khéo léo của người chơi. Trò chơi này giành cho mọi đối tượng
lớp 4, lớp 5.
*Hình thức chơi: Mỡi lớp chọn một đội. Ban tổ chức sẽ quy định cách
đứng chơi và mục tiêu là phải tung quả còn chui qua vòng. Tổ trọng tài theo dõi
chấm điểm.
Trò chơi ném cịn vừa mang tính văn hóa lại vừa mang tính thể thao, rèn
luyện sự tinh tế, khéo léo, tài tình, ước lệ và duyên dáng, nhẹ nhàng khi tung,
khi bắt; Vừa kết hợp các động tác toàn thân, vừa sảng khối tinh thần, vừa được
giao lưu, đồn kết, vui vẻ. Công cụ vừa rẻ tiền lại vừa dễ chơi, ai chưa biết chơi
chỉ cần quan sát một đôi lần là sẽ nhập cuộc được ngay.

(Giáo viên hưỡng dẫn học sinh chơi Ném còn)


(Học sinh chơi Ném cịn)
b) Trị chơi: Tó Lẹ đây là trò chơi rất phổ biến nhất của dân tộc Thái.
Cách chơi Tó lẹ cũng rất đơn giản, vật dụng để sử dụng trong trị chơi
chính là quả má lẹ. Đối tượng tham gia chủ yếu là học sinh nữ, một trong những
cách chơi trị này đó là dùng tay ném, đặt lên đùi hay quắp vào chân…làm sao

cho quả tó lẹ chạm đổ quả ở vạch đích là ghi điểm. Đội nào càng ghi được nhiều
điểm với các tư thế ném khó sẽ thắng cuộc.

(Trị chơi: Tó lẹ)


c) Trò chơi kéo co:
Kéo co là một trò chơi thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam,
mỡi địa phương đều có tục kéo co khác nhau, nhưng ở trường chọn luật chơi kéo
co như sau:
Chuẩn bị dụng cụ trước khi chúng ta bắt đầu trò chơi: Một sợi dây thừng
dài khoảng 7m, dùng một dây vải màu đỏ buộc ở giữa dây thừng làm ranh giới
giữa 2 đội để dễ phân biệt thắng thua. Vẽ 1 đường chỉ vạch làm ranh giới giữa 2
đội.
Cách chơi: Chia các thành viên tham gia thành 2 đội, mỗi đội có số thành
viên bằng nhau, tương đương ngang sức nhau, xếp thành 2 hàng dọc đối diện
nhau. Mỗi đội nên chọn thành viên có sức khỏe tốt để đứng ở vị trí đầu tiên, mỡi
thành viên tham gia kéo co nắm chặt sợi dây thừng của bên mình lại. Khi có tín
hiệu của ban tổ chức thì các thành viên tham gia tiến hành kéo sao cho dây
thừng về phía bên mình. Nếu đội nào dẫm vạch trước thì đồng nghĩ với việc là
đội đó thua cuộc.
.
Luật chơi: Bên nào dậm vạch trước thì bên đó thua.

( Trị chơi: Kéo co )
d) Trò chơi: Nhảy bao bố.
Nhảy bao bố là trị chơi dân gian mang tính tập thể, nhằm rèn luyện thể
lực, sức bật, sự khéo léo và khả năng giữ thăng bằng của người chơi.
Thể lệ:
- Trước khi chơi, trọng tài điểm số người chơi để chia thành 3 đội (ứng

với 3 lớp), mỡi đội có 5 người (3 nam, 2 nữ).
- Khi chơi, có bao nhiêu đội tham gia thì kẻ bấy nhiêu hàng dọc và kẻ hai
vạch ranh giới ở hai đầu các hàng dọc, cách nhau khoảng 8m, một vạch là mốc
xuất phát và một vạch làm điểm quay đầu (điểm quay đầu có cắm một lá cờ, vận


động viên phải nhảy vòng qua lá cờ theo chiều ngược chiều với kim đồng hồ).
- Trong cuộc chơi, người chơi nào nhảy trước hiệu lệnh xuất phát, nhảy
chưa đến vạch điểm quy định mà quay lại, nhảy chưa đến đích đã bỏ bao ra đều
phạm qui và bị trừ 10 điểm/ 1 lỗi.
- Khi người nhảy trước chưa về đến vạch tiếp sức mà người tiếp theo đã
nhảy trước thì phạm quy.
- Vận động viên nào bị ngã trong khi thi thì nhanh chóng đứng dậy nhảy
tiếp phần thi của mình
- Phần thắng thuộc về đội có ít lần phạm quy nhất, trường hợp số người
phạm qui như nhau hoặc khơng có đội nào phạm quy thì phần thắng thuộc về
đội kết thúc trước phần thi của mình. Trường hợp có hai đội bằng điểm nhau thi
chọn mỡi đội 01 VĐV tham gia thi quyết định.
Cách chơi: Trước khi chơi, mỗi đội được phát một bao bố loại 100kg và
xếp thành một hàng dọc trước ô hàng của đội hiệu, người tham gia trò chơi đứng
đúng vạch quy định.
Khi trọng tài thổi tiếng còi thứ nhất, báo hiệu cuộc chơi bắt đầu, những
người đứng đầu ở các đội bước vào trong bao bố, hai tay giữ chặt miệng bao.
Khi nghe tiếng cịi thứ hai, thì bắt đầu nhảy, người chơi phải nhanh chân nhảy
từng bước một đến vạch phía trước rồi quay trở lại vạch xuất phát đưa bao cho
người thứ hai. Cứ như vậy lần lượt đến người cuối cùng. Việc khó nhất khi nhảy
bao bố là phải giữ thăng bằng vì rất dễ bị vấp ngã khi cố sức nhảy nhanh để vượt
qua đối thủ. Đội nào về trước, bị trừ ít điểm phạm qui thì thắng cuộc.

(Học sinh chơi Nhảy bao bố)



2.3.3. Chọn trò chơi tổ chức trong những buổi sinh hoạt ngoại khóa.
Trị chơi dân gian nhằm phát triển các tố chất vận động ,mang tính tập thể
địi hỏi phải có khơng gian rộng, nên tơi chọn tổ chức vào buổi sinh hoạt ngoại
khóa, và yêu cầu giáo viên thực hiện. Các trò chơi phù hợp với các buổi sinh
hoạt ngoại khóa như là: Bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, Mèo đuổi chuột, Cướp
cờ, Trồng nụ Trồng hoa, Nhảy dây.... Là trò chơi nhằm rèn luyện sức khoẻ, sự
nhanh nhẹn, khéo léo, kỹ năng ứng xử trong cuộc sống , giáo dục cho trẻ tinh
thần đồng đội, giao lưu đồn kết bạn bè, tơn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp.
a) Trò chơi: Bịt mắt bắt dê.
Rèn luyện thính giác, óc phán đốn. Cần một sân chơi rộng vừa đủ cho số
lượng người chơi, phù hợp với những buổi sinh hoạt ngoại khóa.
Cách chơi: Sau khi chơi trò chơi “Tay trắng tay đen” để loại ra 2 người.
Hai người đó sẽ chơi oẳn tù tì, người thua sẽ bịt mắt đi tìm dê, người thắng làm
dê. Những người còn lại đứng thành vòng tròn. Người làm dê phải luôn miệng
kêu “be, be” và né tránh người bị bịt mắt đang tìm cách bắt dê. Người làm dê
khơng được chạy ra ngồi vịng trịn, nếu phạm luật sẽ bị bịt mắt. Khi nào người
bịt mắt bắt được dê thì thay đổi người khác

(Trị chơi: Bịt mắt bắt dê)
b) Trò chơi: “Rồng rắn lên mây”
Rèn luyện phản xạ nhanh nhẹn, sức khỏe, tính đồng đội, kỉ luật. Tạo
khơng khí sôi nổi trong học tập, sinh hoạt.
Chuẩn bị: Địa điểm chơi: Sân chơi khoảng 10m x 10m
Các bước thực hiện:
* GV nêu tên trò chơi: Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người
còn lại xếp thành hàng một, tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên



vai người trước. Sau đó tất cả đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay khơng?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
- Thầy thuốc đi chơi! (hay đi chợ, đi câu cá, đi vắng,.. tùy ý). Đoàn người
lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
- Có!
Và bắt đầu đối thoại như sau:
- Thầy thuốc hỏi: Rồng rắn đi đâu?
- Người đứng làm đầu của rồng rắn trả lời: Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa
bệnh cho con.
- Thầy thuốc hỏi: Con lên mấy?
- Trả lời: Con lên một.
- Thầy thuốc: Thuốc chẳng hay!
- Con lên hai.
- Thầy thuốc: Thuốc chẳng hay!
Cứ thế cho đến: Con lên mười.
- Thầy thuốc: Thuốc hay vậy.
Kế đó thì thầy thuốc địi hỏi:
- Xin khúc đầu
- Những xương cùng xẩu.
- Xin khúc giữa.
- Những máu cùng me.
- Xin khúc đi.
- Tha hồ mà đuổi.
Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách làm sao mà bắt cho được người cuối
cùng trong hàng.
Ngược lại, thì người đứng đầu phải dang tay chạy, cố ngăn cản không cho

người thầy thuốc bắt được cái đi của mình, trong lúc đó cái đi phải chạy và
tìm cách né tránh thầy thuốc. Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người
đó phải ra làm thầy thuốc.
Nếu đang chơi dằng co giữa chừng mà rồng rắn bị đứt ngang thì tạm
ngừng để nối lại và tiếp tục trò chơi.


( Trò chơi : Rồng rắn lên mây)
c) Trò chơi: Trồng nụ trồng hoa.
Trò chơi trồng nụ trồng hoa giúp học sinh phát triển cơ bắp, phản ứng
nhanh.
Cách chơi: 4 học sinh chơi một nhóm: 2 học sinh làm nhiệm vụ nhảy, 2
học sinh ngồi đối diện nhau, 2 chân duỗi thẳng chạm vào bàn chân của nhau,
bàn chân của cháu B trồng lên bàn các ngón chân của cháu A (bàn chân dựng
đứng). 2 học sinh nhảy qua rồi lại nhảy về. Sau đó cháu A lại chồng 1 nắm tay
lên ngón chân của cháu B làm nụ. 2 học sinh lại nhảy qua, nhảy về. Rồi cháu B
lại dựng đứng tiếp 1 bàn tay lên trên bàn tay nụ để làm hoa. 2 học sinh nhảy qua,
nếu chạm vào nụ hoặc hoa thì mất lượt phải ngồi thay cho học sinh ngồi. Nếu
nhảy không chạm vào nụ, hoa thì được học sinh ngồi cõng chạy 1 vịng. Sau đó
tiếp tục đổi vai chơi.
đi chợ/ về chợ
(chưa đưa chân)
đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân)
đi canh hai/ về canh hai
(chồng thêm một chân, là hai bàn chân)
đi canh ba/ về canh ba
(chồng thêm, ba bàn chân)
đi canh tư/ về canh tư
(chồng thêm, bốn bàn chân)
đi sen búp/ về sen búp

(chồng thêm một bàn tay chụm lại)
đi sen nở/ về sen nở
(chồng thêm bàn tay hơi xòe nở)
đi sen tàn/ về sen tàn
(bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ)


(Trò chơi: Trồng nụ trồng hoa)
2.3.4. Tổ chức trò chơi trong giờ ra chơi
Giờ ra chơi với thời gian nghỉ là 25 phút vì vậy nên chọn những trị chơi
vận động nhẹ nhàng, những trị chơi trí tuệ, khéo léo, luyện sự phán đốn tính
tốn chính xác. Có thể tổ chức các trị như: Ơ ăn quan, chơi chuyền, cờ gánh….
a) Trò chơi: Chơi chuyền (Một bộ chuyến gồm mười cây chuyền dài
bằng chiếc đũa ăn cơm, có thề nhỏ hơn hay ngắn hơn một chút và một quả bóng
nhỏ bằng nắm tay học sinh)
Vừa chơi, học sinh vừa hát những câu đồng dao quen thuộc. Các bài đồng
dao đó khiến cho khơng khí chơi vui vẻ, nhộn nhịp hơn và phù hợp với tư duy
của học sinh. Nên người giáo viên muốn tổ chức các trò chơi dân gian có hiệu
quả, thu hút học sinh tham gia bắt buộc phải thuộc các lời bài hát hoặc đồng dao
của trò chơi đó. Đồng dao bao gồm nhiều loại cung cấp cho các em kiến thức
mà không là kiến thức hệ thống như tư duy người lớn mà là trình bày liệt kê,
dừng lại ở những nét bề ngoài dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tị mị ở trẻ em.
Ở trò chơi chuyền học sinh hát đồng dao bắt đầu từ bàn một: “ Cái mốt, cái mai,
cái trai, cái hến, con nhện, chăng tơ, quả mơ có hột....” sau đó là nhóm đơi: “
Đơi tơi, đơi chị.....cùng với đọc là việc tung quả bóng lên và tay nhặt lấy cây
chuyền và đỡ quả bóng vừa tung sao cho khỏi rơi.


b) Trị chơi: Ơ ăn quan
Ơ ăn quan là một trò chơi quen thuộc của hầu hết trẻ em Việt Nam. Chỉ với

bãi đất nhỏ, với những viên đá, viên sỏi, ơ ăn quan trở thành một trị chơi chiến
thuật thú vị. Ô ăn quan buộc học sinh phải nghĩ ra cách đi thông minh nhất để
giành được nhiều quân hơn đối phương. Trò chơi này rất phù hợp cho học sinh
chơi trong giờ ra chơi.

(Trị chơi: Ơ ăn quan)
c) Trị chơi: Cờ gánh
Chỉ cần lấy mỡi bên 8 viên sỏi đặt lên mặt bàn cờ vẽ bằng gạch hoặc phấn
là những học sinh đã có một bàn cờ gánh đơn giản nhưng đầy trí tuệ, phóng
khống. Trị này đơn giản hơn các loại cờ khác khi chỉ cần đi thẳng hoặc chéo
theo đường vẽ trên bàn cờ để tìm những kẽ hở, biến quân đối phương thành
quân mình. Cách chơi cũng hiện lên tính cánh khơng thích vịng vo, dài dòng mà
dễ hiểu.
Cách chơi: Khi lọt vào giữa hai đầu “quân” hay gọi nôm na là “gánh” đối
thủ, lập tức những quân cờ bị “gánh” sẽ bị thu phục và chuyển sang phe mình.


Cứ như thế cho đến khi nào phía đối phương hết qn thì ván cờ kết thúc. Cũng
có trường hợp, đối phương vẫn cịn vài qn nhưng bị cơ lập ở các góc “chết”
khơng di chuyển được thì ván đấu cũng sẽ kết thúc. Trò này đòi hỏi sự quan sát
nhạy bén và tính tốn chuẩn xác để sớm đưa đối phương vào thế tàn cuộc.
Đơn giản là vậy nhưng trong bàn cờ gánh vẫn ẩn chứa nhiều nét thâm
thúy, sâu xa gợi lên ước vọng của con người. Trong các qn cờ trên một phía
khơng hề có phân biệt hậu, vua, tướng, sĩ mà đều được di chuyển như nhau, bình
đẳng như nhau. Nó tốt lên mong ước về sự hịa hợp, bình đẳng trong cộng đồng
con người, khơng có sự phân biệt thiệt hơn nên đây là một nét đặc sắc rất lớn
trong cờ gánh.

( Trò chơi: Cờ gánh)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

Từ khi triển khai cho các thầy cơ giáo đưa trị chơi dân gian vào trường
học, học sinh thích chơi các trị chơi dân gian, có sự tiến bộ rõ rệt trong khi chơi.
Học sinh nhớ tên các trò chơi biết được cách chơi và luật chơi của những trị
chơi dân gian, vì vậy tăng khả năng ghi nhớ có chủ đích và khả năng tưởng
tượng trong các hoạt động vui chơi, học sinh tích cực trong học tập, chủ động
trong giao tiếp nhiều hơn. Học sinh học 10 buổi / tuần nên thời gian ở trường là
nhiều việc xem phim hay chơi games đã hạn chế rất nhiều,
Đa số các em đều tích cực và thích thú khi chơi các trị chơi dân gian, tham
gia nhiệt tình, sơi nổi, thoải mái và tự tin. Các em góp phần khơng nhỏ vào sự
thành công của các hoạt động trong nhà trường như lễ khai giảng (Phẩn chơi các
trò chơi dân gian), tết Trung thu, kỉ niệm ngày thành lập Đoàn 26/3, các buổi
hoạt động ngoài giờ lên lớp...


Kết quả qua kiểm tra thái độ yêu thích các trị chơi dân gian cuối học kì II
đạt hiệu quả cao.
Phân loại đối tượng
Tổng số HS yêu thích HS hiểu biết HS biết tự Hs khơng quan tâm,
Học sinh trị chơi dân
về trị chơi
tổ chức trị
khơng biết về trị
gian
dân gian
chơi
chơi dân gian
162
130 (80,2%) 162 (100 %) 81 (50,0%)
0 (0 %)
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận:
Trường học là môi trường luôn làm cho học sinh nhận thức và cảm nhận
được: Mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Ngoài tiếp thu về kiến thức các
em luôn được quan tâm chăm sóc và vui chơi giải trí tinh thần và thể chất.
Đối vớí các em, những trị chơi dân gian là một trong những yếu tố hình
thành nên bản sắc văn hóa dân tộc, là nhịp cầu nối tâm thức các em với mọi bài
học về cuộc sống xã hội. Bởi vì nó có sức hấp dẫn, lơi cuốn mạnh mẽ nhất đối
với các em. Tổ chức cho các em chơi các trò chơi dân gian là phương tiện giúp
các em phát triển tình cảm, đạo đức, tình đồn kết, mở rộng nhận thức, tình yêu
thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Bằng những biện pháp tích cực có đầu tư
nghiên cứu, khắc phục những hạn chế nhất định. Tôi nhận thấy kết quả đã giúp
các em thỏa mãn nhu cầu vui chơi, kích thích học sinh học tập tốt, góp phần tích
cực trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Phụ huynh học sinh đồng tình ủng hộ và càng yên tâm hơn khi con em đến
trường đi học, tạo ra sân chơi bổ ích, lành mạnh và an tồn.
- Hiệu trưởng phải nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
đưa các trò chơi dân gian vào trường học.
- Chỉ đạo giáo viên tích cực tìm tịi, sưu tầm thật nhiều các trò chơi dân
gian. Cần lựa chọn các trị chơi mang tính giáo dục, lành mạnh, an tồn cho học
sinh.
- Ln tạo khơng khí thân mật, cởi mở, gần gũi với học sinh, tạo điều kiện
và khuyến khích cho tất cả học sinh được tham gia, cần động viên khi các em
chơi.
- Phát huy vai trò của Tổng phụ trách đội, các đồn thể, giáo viên bộ mơn,
giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Yêu cầu giáo viên cần nắm rõ cách chơi trước khi hướng dẫn các em.
Chọn trò chơi dân gian phù hợp với không gian và đặc điểm của buổi chơi.
3.2. Kiến nghị.
- Ngành giáo dục cần quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư cơ sở vật chất
nhằm phục vụ cho việc tổ chức trò chơi dân gian trong trường học.



- Cần tổ chức chuyên đề đưa trò chơi dân gian vào trường học cấp trường
để học sinh được chơi và giải trí, hạn chế tối đa việc học sinh xem phim ảnh
không lành mạnh trên ti vi hoặc chơi games, tệ nạn xã hội ... Giúp các em học
tập ngày càng tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong “Cơng tác chỉ đạo đưa trị chơi
dân gian vào trường tiểu học” cho học sinh. Rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của đồng nghiệp.

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
P. Hiệu trưởng

Lê Đình Sâm

Quan Hóa, ngày 18 tháng 4 năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Phạm Thị Thiệp


MỤC LỤC
I.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
1.3. Đối tượng nghiên cứu đề tài.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2. 1. Cơ sở lí luận
2.2.Thực trạng vấn đề
a. Thuận lợi
b. Khó khăn
c. Khảo sát phân loại HS
2.3 Giải pháp thực hiện
2.3.1. Tập huấn cho Giáo viên
2.3.2. Chọn những trò chơi phù hợp
a. Trò chơi (ném còn)
b. Trò chơi (Tó lẹ)
c. Trị chơi (Kéo co)
d. Trị chơi nhảy (Ba bố)
2.3.3. Chọn trò chơi tổ chức trong các buổi ngoại khóa
a. Trị chơi ( Bịt mắt bắt dê)
b. Trị chơi (Rồng rắn lên mây)
c. Trò chơi ( Trồng nụ trồng hoa)
2.3.4. Tổ chức trò chơi trong giờ ra chơi
a. Trị chơi chuyền
b. Trị chơi Ơ ăn quan
c. Trị chơi cờ gánh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 1

Trang 1+2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4,5
Trang 6
Trang 7
Trang 7,8

Trang 9
Trang 9
Trang 9,10

Trang 11
Trang 12
Trang 12
Trang 13
Trang 13, 14
Trang 14
Trang15
Trang 15
Trang15,16




×