Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.88 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các biện pháp đã sử dụng giúp học sinh lớp 4 yêu thích lịch sử
Việt Nam
3.1. Giáo viên phải có kiến thức, am hiểu, yêu mến và tự hào về lịch sử
dân tộc, nắm vững nội dung, chương trình, mục tiêu và phương pháp
dạy phần lịch sử lớp 4.
3.2. Chuẩn bị đầy đủ các tư liệu cho mỗi bài dạy, tích cực ứng dụng
cơng nghệ thông tin, các phương tiện dạy học khác.
3.3. Lựa chọn cách thức tổ chức dạy học phù hợp đặc trưng bộ mơn,
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
3.4. Phối hợp và sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học
phù hợp với từng dạng bài lịch sử.
3.5.Giúp học sinh nắm chắc 3 yếu tố lịch sử quan trọng: thời gian,
sự kiện, nhân vật.
3.6. Dạy lịch sử gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử,
tham quan dã ngoại, hoạt động ngồi giờ lên lớp và các mơn học khác.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
1
2


2
2
2
3
4
4
6
7
11
13
16
16
17
18


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta có một bề dày lịch sử lâu đời. Từ những ngày đầu của vua
Hùng dựng nước cho đến những năm tháng đấu tranh giữ nước và xây dựng Tổ
quốc. Từng chặng đường, từng giai đoạn lịch sử đã ghi lại những mốc son chói
lọi, là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Ai đã đi qua những chặng đường ấy
luôn cảm thấy yêu quê hương và con người Việt Nam biết chừng nào. Thế hệ trẻ
hôm nay sẽ viết tiếp những trang sử vàng cho dân tộc bằng tài năng, trí tuệ và
nhiệt huyết của mình. Để làm được điều đó, trước hết các em phải biết lịch sử
Việt Nam, yêu thích lịch sử quê hương, lịch sử dân tộc. Thuở sinh thời Bác Hồ
đã dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Đúng vậy, là người con của đất nước Việt Nam thì phải biết cội nguồn của

mình, biết những gì mà cha ông ta đã trải qua, biết truyền thống hào hùng của
dân tộc và sự phát triển của đất nước, từ đó chúng ta mới biết kế thừa, phát huy
những gì tốt đẹp tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước trong tương lai.
Trong những năm gần đây, tình hình học sinh (HS) tiếp thu, ghi nhận
những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông
tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của HS trung học phổ thông
quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao
kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy? Phải chăng lịch sử bây
giờ dài hơn ngày xưa nên HS không tiếp thu được? Làm thế nào để nâng cao
chất lượng môn lịch sử cho HS? ... Đây cũng chính là nỗi day dứt của rất nhiều
thầy giáo, cơ giáo.
Bản thân tôi nhận thấy môn lịch sử là một mơn khoa học xã hội rất quan
trọng, nó giúp ta quay ngược lại thời gian để tìm hiểu, phân tích đánh giá những
sự kiện nhân vật trong lịch sử. Là môn khoa học xã hội nhưng lịch sử lại yêu cầu
độ chính xác cao bởi mỗi mốc thời gian, mỗi sự kiện, mỗi nhân vật đều mang
một ý nghĩa lịch sử riêng biệt. Vì thế địi hỏi người tìm hiểu lịch sử phải có thái
độ nhận thức một cách nghiêm túc, tuyệt đối không được nhầm lẫn. Học sử
không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vơ cảm những sự kiện, con số,
ngày tháng, mà học lịch sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử; để rút ra
những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và
thực hành. Dạy Lịch sử có vai trị quan trọng như vậy nhưng rất tiếc, thực tế
hiện nay một số khơng ít giáo viên (GV) vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan
tâm xứng đáng cho tiết dạy, nhiều HS khơng có hứng thú khi học dẫn đến chất
lượng giờ Lịch sử còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt với HS lớp 4 lần đầu được học về lịch sử dân tộc qua môn Lịch
sử và Địa lí. Các em rất bỡ ngỡ trong việc tiếp thu kiến thức cũng như phương
pháp học phân môn này. Vấn đề đặt ra cho GV phải làm thế nào để ngay từ khi
mới làm quen HS nhận thức được vai trị, ý nghĩa của mơn lịch sử. Hình thành
cho HS một phương pháp học phù hợp với đặc trưng bộ môn và nắm vững kiến
thức môn lịch sử. Có như vậy mới giúp HS hứng thú, yêu thích với mơn học. Từ

thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 4, tôi đã nhận thức được tầm quan trọng và
1


những khó khăn khi dạy phần Lịch sử cho HS nên năm học 2017 – 2018 tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích Lịch
sử Việt Nam” để nghiên cứu, thử nghiệm và đúc rút thành sáng kiến kinh
nghiệm này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tơi nghiên cứu đề tài này với mục đích để tìm ra một số biện pháp giúp HS
lớp 4A ở trường tiểu học Hoằng Minh yêu thích Lịch sử Việt Nam. Từ đó tổng
kết rút ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích Lịch sử Việt Nam”
nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này tơi đã nghiên cứu phương pháp và hình thức tổ chức dạy phần
Lịch sử cho HS lớp 4A trường tiểu học Hoằng Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Tơi đã tìm hiểu đặc điểm tâm lí HS tiểu học và tâm lí HS lớp 4 để lựa chọn
phương pháp và hình thức dạy học phù hợp đem lại hiệu quả cao nhất giúp các
em u thích lịch sử dân tộc.
Đọc, tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu về lịch sử Việt Nam, trọng tâm là
phần lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước tới nửa thế kỉ XIX.
Nghiên cứu kỹ cách dạy phần Lịch sử cho HS tiểu học và HS lớp 4.
4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, đàm thoại, thu thập thông tin:
Tôi đã gần gũi nói chuyện với HS để biết được tâm tư, nguyện vọng và
mức độ yêu thích phần Lịch sử của HS lớp 4A, lớp 4B trường tiểu học Hoằng
Minh để lập bảng số liệu điều tra.
Trao đổi với đồng nghiệp về thực trạng dạy phần Lịch sử cho HS tiểu học
nói chung và HS lớp 4 nói riêng.

4.3. Phương pháp thực nghiệm:
Dự giờ đồng nghiệp về dạy phần Lịch sử lớp 4.
Thực nghiệm cách dạy mới ở lớp 4A trường tiểu học Hoằng Minh từ đầu
năm học.
Dạy theo cách cũ ở lớp 4B trường tiểu học Hoằng Minh để đối chứng.
4.4. Phương pháp quan sát, thống kê, xử lý số liệu:
Tôi đã quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi,
cử chỉ của học sinh trong học tập để từ đó điều chỉnh hay phát huy tính tích cực,
tự giác của học sinh.
Thống kê, so sánh, đối chiếu kết quả giờ dạy, mức độ yêu thích và kết quả
học tập phần lịch sử của lớp 4A và 4B để rút ra các kết luận.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Kiến thức lịch sử ở Tiểu học khơng được trình bày theo một hệ thống chặt
chẽ mà chỉ chọn ra những sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử tiêu biểu cho
một giai đoạn lịch sử nhất định đưa vào chương trình phần lịch sử. Tuy vậy,
những kiến thức trong phần lịch sử vẫn đảm bảo tính hệ thống và tính logic
của lịch sử ở mức độ thích nhất định. Đặc điểm của phần lịch sử lớp 4 là cung
2


cấp cho HS một số kiến thức cơ bản thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử
tiêu biểu,sắp xếp theo thứ tự thời gian, đại diện cho các thời kỳ lịch sử, không
chứa đựng huyền thoại, truyền thuyết hay phóng tác, hư cấu lịch sử. Về mức
độ giữa biết, hiểu, vận dụng chương trình coi trọng mức độ biết lịch sử. Cụ thể
là sự kiện, hiện tượng lịch sử đó diễn ra ở đâu? Vào thời gian nào? Diễn ra như
thế nào? Các nhân vật nào là tiêu biểu? Còn yêu cầu về hiểu và vận dụng lịch
sử chỉ ở mức rất sơ đẳng, chủ yếu xem xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân
vật lịch sử đối với xã hội. Đối với những HS hoàn thành tốt có thể đặt yêu cầu
cao hơn.

Tư duy HS tiểu học là tư duy trực quan cụ thể chiếm ưu thế. Các em
không suy nghĩ trước mà trực tiếp vừa làm, vừa nghĩ, vừa điều chỉnh qua hoạt
động. Các em khó tư duy trừu tượng dựa trên khái niện mà cần có chỗ dựa đó
là trực quan. Vì thế, dạy phần lịch sử giáo viên cần tổ chức cho học sinh tự
mình khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của GV), tức là HS phải được
tiếp xúc với các tư liệu lịch sử: tranh ảnh, bản đồ lịch sử, các di vật, câu
chuyện lịch sử được ghi lại thành lời văn dưới dự định hướng và kết luận của
GV để HS tự hình thành các biểu tượng lịch sử. Giúp cho HS yêu thích lịch sử
Việt Nam.
Mỗi chúng ta sinh ra và lớn lên trên đất nước Việt Nam. Mỗi người đều
mang trong mình dịng máu Lạc Hồng, chúng ta đều là con một mẹ, sống chung
một mái nhà nước Việt.Vậy tại sao con em chúng ta không hiểu biết gì về lịch
sử nước ta. Khơng biết, khơng hiểu sao yêu mến được? Tất cả phải làm sao cho
các em biết, hiểu,yêu mến, tự hào về lịch sử dân tộc. Trách nhiệm nặng nề, vẻ
vang này là của mỗi GV. Người GV là người lãnh sứ mệnh cao cả đó. Là cầu
nối để đưa các em đến gần hơn với những trang lịch sử hào hùng của ông cha ta.
Nhưng làm được điều đó trước hết người GV phải có kiến thức, am hiểu, yêu
mến và tự hào về lịch sử dân tộc thì mới thực sự làm trịn được trách nhiệm vẻ
vang đó.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Hoằng Minh và trao đổi với
đồng nghiệp tôi thấy thực trạng dạy và học phần lịch sử lớp 4 như sau:
2.1. Về giáo viên
Một số GV đã quan tâm, coi trọng dạy phần lịch sử, tích cực đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giờ học lịch sử cho HS. Tuy nhiên,
nhiều GV vẫn còn bị ảnh hưởng của phương pháp dạy truyền thống thuyết trình,
giảng giải là chính, cịn cứng nhắc trong phương pháp giảng dạy, các hình thức
dạy học cịn đơn điệu, thiếu đầu tư về phương tiện dạy học, chưa đi sâu nghiên
cứu tài liệu, chưa nhiệt tình trong giảng dạy. Bản thân GV cịn coi mơn này là
mơn học phụ, chưa đầu tư như mơn Tốn và mơn Tiếng Việt, chính vì thế khi

tham gia các hội thi GV giỏi các cấp nhiều đồng chí rất ngại dạy Lịch sử.
2.2. Về học sinh
Học sinh lớp 4 lần đầu tiên được làm quen với môn Lịch sử và Địa lí với
kênh chữ đóng vai trị chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức nên nhiều HS bỡ
ngỡ, lúng túng khi tìm hiểu bài học. Các em chưa biết cách ghi nhớ các yếu tố
lịch sử, nhận thức bài học một cách thụ động, hiểu bài đấy xong lại quên ngay.
3


Chỉ sau một kì kiểm tra lại kết quả cho thấy đối với HS hoàn thành gần như
quên hết, HS hồn thành tốt có nhớ nhưng lộn xộn về thời gian và sự kiện. Thậm
chí HS cịn nhầm lẫn giữa nhân vật lịch sử nước nhà với nhân vật lịch sử trong
phim ảnh. Nhiều em không hứng thú khi học dẫn đến ngại học lịch sử.
* Nguyên nhân của thực trạng
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh khơng u thích lịch sử?
Qua q trình giảng dạy lớp 4, tơi nhận thấy học sinh chưa u thích lịch sử Việt
Nam do nhiều nguyên nhân như:
- Do phim ảnh, sách truyện về lịch sử của nước ta còn nghèo nàn đơn điệu,
không phong phú, sức hấp dẫn chưa cao. Nhiều thể loại chưa phù hợp với lứa
tuổi thiếu nhi, các em bị ảnh hưởng nhiều bởi phim truyện nước ngồi,…
- Trang thiết bị phục vụ cho mơn học cịn nghèo nàn.
- HS chưa biết cách ghi nhớ các yếu tố lịch sử.
- GV chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt tình trong bài
dạy. Các hình thức dạy học cịn đơn điệu, khơ cứng cịn áp đặt HS, chưa phát
huy được tính tích cực của học sinh. Bản thân GV, phụ huynh và HS có phần
xem nhẹ phân mơn này so với mơn Tốn và Tiếng Việt…
2.3. Số liệu thống kê
Vì lớp 4 các em mới được học môn lịch sử nên sau 4 tuần học tơi khảo sát
mức độ u thích mơn lịch sử của lớp 4A dạy theo cách đổi mới và lớp 4B dạy
theo cách chưa đổi mới (đều do tôi dạy).Với số lượng học sinh bằng nhau (23

em), trình độ HS các mơn Tốn, Tiếng Việt và các mơn khác được đánh giá
tương đương nhau. Kết quả như sau:
Lớp
4A
4B

HS yêu thích, hứng
thú học phần Lịch sử
SL
TL
8
34,8%
6
26,1%

HS học chỉ vì yêu
cầu của GV
SL
TL
9
39,1%
8
34,8%

HS khơng thích
học phần Lịch sử
SL
TL
6
26,1%

9
39,1%

3. Các biện pháp đã sử dụng giúp học sinh lớp 4 yêu thích lịch sử Việt
Nam
Xuất phát từ thực trạng và các nguyên nhân ở trên, đồng thời xác định rõ
vai trò, nhiệm vụ của người GV, tôi mạnh dạn đưa ra các biện pháp để giúp HS
lớp 4 yêu thích lịch sử Việt Nam như sau:
3.1. Giáo viên phải có kiến thức, am hiểu, yêu mến và tự hào về lịch sử dân
tộc, nắm vững nội dung, chương trình, mục tiêu và phương pháp dạy phần lịch
sử lớp 4.
Làm thế nào để HS tích cực, tự giác, tham gia hứng thú các hoạt động học
tập để các em nhớ được những nhân vật, sự kiện lịch sử bằng sự khám phá của
bản thân với sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên?... Điều cơ bản là GV phải có
kiến thức, am hiểu, yêu mến và tự hào về lịch sử dân tộc, nắm vững nội dung
chương trình, mục tiêu cần đạt được đồng thời biết lựa chọn và vận dụng linh
hoạt các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp để tổ chức cho HS hoạt động.
Biết được HS cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác
4


lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ
cung cấp tiếp theo. Lập được kế hoạch bài dạy khoa học. Cụ thể, GV cần nắm
vững những vấn đề sau:
a. Nội dung chương trình và sách giáo khoa
*SGK mơn Lịch sử và Địa lí lớp 4 gồm có ba phần: Phần mở đầu trình bày
sơ lược về nội dung, yêu cầu và một số kiến thức, kĩ năng chung khi học môn
Lịch sử và Địa lí. Phần lịch sử trình bày những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu
biểu, phản ánh những cộc mốc đánh dấu sự phát triển của các giai đoạn lịch sử,
những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước (kinh tế, chính trị, văn hóa,…) và

giữ nước của ơng cha ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đến buổi đầu thời
Nguyễn. [2]
Các bài học được biên soạn phù hợp với tâm lý nhận thức của HS lớp 4.
Không quá tải về kiến thức.Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp
dạy học. Giúp HS tự học tại lớp, tại nhà. Nhằm giúp HS có ý thức tự giác trong
học tập.
Phần lịch sử ở lớp 4 gồm 29 bài SKG mỗi bài dạy trong 1 tiết,1 tiết ôn tập
cuối năm; 2 tiết kiểm tra cuối học kì I và cuối năm.
* Nội dung chương trình lịch sử lớp 4 gồm có 8 giai đoạn lịch sử là:
- Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179
TCN).
- Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến
năm 938.
- Buổi đầu độc lập (Từ năm 938 đến năm 1009).
- Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226).
- Nước Đại Việt thời Trần (Từ năm 1226 đến năm 1400).
- Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV).
- Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVIII.
- Buổi đầu thời Nguyễn (Từ năm 1802 đến năm 1858)
b.Mục tiêu của phần lịch sử lớp 4
Cung cấp cho học sinh có một số kiến thức cơ bản, thiết thực về:
Các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu,tương đối có hệ thống theo dịng thời
gian lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước tới nửa thế kỉ XIX.
Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng :
- Quan sát các sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các
nguồn khác nhau.
- Nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong q trình học tập và chọn thơng tin để giải
đáp.
- Nhận biết các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử.
- Trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết. hình vẽ, sơ đồ, …

- Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói
quen:
- Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh các em.
- Yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước
- Tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa gần gũi với HS.[2]
5


c. Phương pháp và hình thức giảng dạy phần lịch sử lớp 4
Một số phương pháp thường dùng: Nêu và giải quyết vấn đề; Thảo luận
nhóm; Trực quan; Trị chơi học tập; Kể chuyện lịch sử; Vấn đáp; …
Vận dụng và kết hợp các phương pháp dạy học trên nguyên tắc: HS được
tự hoạt động để phát hiện, nhận thức kiến thức.
Một số hình thức dạy học:
- Dạy trong lớp học: Dạy cả lớp; Dạy học theo nhóm; Dạy cá nhân.
- Dạy ngoài hiện trường: Dạy cả lớp; Dạy học theo nhóm; Dạy cá nhân.
3.2. Chuẩn bị đầy đủ các tư liệu cho mỗi bài dạy, tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin, các phương tiện dạy học khác.
Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong q
khứ. Vì vậy khơng thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch
sử, mà cần phải thơng qua những "dấu tích" của quá khứ, những chứng cứ về sự
tồn tại của các sự việc đã diễn ra. Cho nên việc tất yếu là phải cho học sinh tiếp
nhận thông tin từ sử liệu bằng nhiều hình thức khác nhau. Học sinh tiểu học cần
có những biểu tượng về "các sự kiện đã diễn ra", cần tạo ra trong nhận thức của
học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động rõ nét về các nhân vật lịch sử và hoạt
động của họ trong thời gian không gian, trong những điều kiện lịch sử cụ thể,
những quan niệm xã hội cụ thể. Vì vậy việc chuẩn bị đầy đủ các tư liệu cho mỗi
bài dạy (tư liệu viết, tư liệu băng hình, tư liệu tranh ảnh…) để minh họa cho các
sự kiện, nhân vật lịch sử trong bài giảng trên lớp đem lại hiệu quả cao cho giờ

dạy. Giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu những kiến thức lịch sử mà các em thu nhận
được. Đặc biệt những hình ảnh, tư liệu sống động, phong phú sẽ góp phần làm
tái hiện cho HS những sự kiện, nhân vật lịch sử bổ sung những kiến thức lịch sử
đã học trên lớp một cách cụ thể hơn. Phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư
duy và ngôn ngữ của HS. Đem đến cho HS sự yêu thích lịch sử Việt Nam.
Ví dụ: Khi quan sát các hình ảnh lưỡi cày đồng, mơi bằng đồng, vịng trang
sức bằng đồng, đồ gốm, … HS có thể hình dung phần nào đời sống xã hội của
người Lạc Việt, tạo biểu tượng về đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần của
người Lạc Việt thời Hùng Vương.
Với mỗi bài lịch sử tôi đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã
trang bị để GV và HS chủ động trong bài dạy. Tích cực sưu tầm tư liệu phục vụ
cho bài dạy. Khi sử dụng những tư liệu băng hình tơi xem trước, rồi cắt bỏ bớt
chỉ chọn những đoạn phục vụ cho yêu cầu bài dạy với thời gian tối đa là 5 phút.
Đặc biệt, trường Tiểu học Hoằng Minh tất cả các lớp học đều có máy chiếu nên
bản thân tôi đã mạnh dạn việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thiết
kế bài dạy điện tử, sử dụng các phương tiện nghe nhìn như: phim video, radio
cassette, phim đèn chiếu, máy chiếu overhead,… đã đem lại một số hiệu quả
nhất định, tạo hứng thú cho HS trong học tập. Việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu là
rất quan trọng để các em dễ hình dung, dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Ngồi sự
chuẩn bị của GV, tôi kết hợp với phụ huynh khuyến khích HS chuẩn bị ở nhà
sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan để tham gia thảo luận, đọc trước sách giáo
khoa kết hợp với những tư liệu sưu tầm được hoặc do GV cung cấp để nắm
vững được nội dung bài, nhiều em rất thích thú khi được hướng dẫn tự sưu tầm
tài liệu cho tiết học mới. Khơi dậy trong các em niềm yêu thích lịch sử dân tộc.
6


3.3. Lựa chọn cách thức tổ chức dạy học phù hợp đặc trưng bộ mơn, phát
huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Cách thức tổ chức dạy học chính là cách thức tổ chức hoạt động dạy của

GV và hoạt động học của HS nhằm thực hiện những nhiệm vụ của tiết học đề ra
để đạt được mục tiêu bài học. Ngày nay cách thức tổ chức dạy học là một trong
những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến chất lượng dạy và học.
Học Lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là sự học thuộc, nạp vào
trí nhớ của người học theo lối thầy đọc- trò chép, thầy giảng- trò nghe, HS học
thuộc lòng theo thầy, theo sách giáo khoa mà là: HS thông qua quá trình làm
việc với sử liệu, tự tạo cho mình các hình ảnh lịch sử, tự hình dung về lịch sử đã
diễn ra trong quá khứ. Muốn làm được điều đó tơi đã lựa chọn cách thức tổ chức
dạy học mà ở đó các hoạt động của HS được chuyển đổi đa dạng: Làm việc cá
nhân, hợp tác nhóm và hoạt động chung cả lớp. Thay vì tạo ra một khơng gian
học tập tĩnh, mang tính cá nhân, tơi khuyến khích HS tạo ra một khơng gian học
tập sơi nổi với những hoạt động hợp tác, thảo luận diễn ra hài hòa, đều đặn. Hoạt
động học linh hoạt, HS sẵn sàng chuyển từ học cá nhân sang thảo luận nhóm, rút
ra nhận xét, ... HS liên tục được thử nghiệm trong những vai trò mới khiến cho
mỗi giờ học đều trở nên thú vị.
Sau đây là cách thức tổ chức dạy học chung cho phần lịch sử lớp 4 mà tôi
đã áp dụng ở lớp 4A đem lại hiệu quả cao cho giờ dạy, HS vừa được lĩnh hội
kiến thức, vừa thoải mái và vui vẻ hơn giúp HS yêu thích lịch sử Việt Nam.
Cách tổ chức
dạy học ở lớp
4B
Hoạt động 1:
Kiểm tra bài

GV nêu câu
hỏi về nội
dung bài cũ,
gọi 1 số HS trả
lời hoặc gọi
HS đọc mục

ghi nhớ của
bài học, HSGV nhận xét.
Cách kiểm tra
này vơ tình để
nhiều HS rơi
vào tình trạng
“học vẹt” đọc
thuộc lịng
nhưng khơng
nhớ được mốc

Cách tổ chức dạy học ở lớp 4A
Hoạt động 1: Củng cố nội dung bài học trước.
Thời gian kiểm tra từ 3 đến 5 phút nên tôi thường chuẩn bị các
câu hỏi của bài dưới dạng trắc nghiệm: Đúng ghi Đ, sai ghi S,
chọn đáp án đúng, … và tổ chức cho HS tham gia trò chơi “Ai
nhanh, ai đúng?” hay “Ai nhanh hơn?”… HS cả lớp giơ thẻ Đ,
S hoặc ghi kết quả vào bảng con, tất cả học sinh đều được làm
việc, qua trị chơi tơi kiểm tra được nhiều học sinh, tạo cho học
sinh sự hứng thú ngay từ đầu tiết học. Ngồi hình thức trị chơi
tơi cịn tổ chức cho HS nói với bạn sơ đồ tư duy của mình vẽ về
bài đã học theo nhóm đơi, thi giới thiệu sơ đồ tư duy đẹp, khoa
học; thi kể chuyện lịch sử; … Với các cách kiểm tra trên các
em không phải nghe hai tiếng “kiểm tra” nặng nề vì thế mà
kích thích được sự sáng tạo, kích thích được trí nhớ của các em,
đồng thời khắc sâu hơn nội dung bài học trước.
Ví dụ: Để củng cố bài 11. Cuộc kháng chiến chống quân Tống
lần thứ 2.
Tôi tổ chức trò chơi “Ai nhanh, ai đúng?” cho HS cả lớp tham
chơi ghi đáp án vào bảng con. Tất cả HS đều được kiểm tra với

nhiều nội dung của bài nhưng HS lại rất hào hứng tham gia.
7


thời gian, sự
kiện, nhân vật.

Thứ hai, ngày 22 tháng 3 năm 2010
Lich sử
Hãy viết chữ cái chỉ đáp án đúng nhất vào bảng con.

1. Nhà Tống xâm lược nước ta năm nào ?
a. 1067

b. 1076.

c. 1670.

d. 1760.

2. Trận quyết chiến diễn ra ở đâu ?
a. Sông Đuống.

b. Sông Như Nguyệt.

c. Sông Thương.

d. Sông Lục Nam.

3. Nhờ đâu cuộc kháng chiến giành được thắng lợi ?

a. Trí thơng minh của nhân dân.
b. Lòng dũng cảm của nhân dân.
c. Sự tài giỏi của Lý Thường Kiệt.
d. Cả ba ý trên.

Hoạt động 2:
Tìm hiểu bài
mới
- GV nêu tên
bài học mới:
Hôm nay
chúng ta học
bài 27: Nhà
Nguyễn thành
lập, yêu cầu
HS nhắc lại.
- Yêu cầu HS
đọc nội dung
sách giáo
khoa, quan sát
hình minh họa
hoặc nghe
giáo viên đọc,
kể chuyện và
trả lời các câu
hỏi trong bài.
- GV nêu từng
câu hỏi gọi HS
trả lời, GV rút
ra nội dung

chính: Nguyên
nhân, diễn
biến, ý nghĩa
của cuộc khởi
nghĩa, … HS
nhắc lại.

Hoạt động 2: Tìm hiểu bài mới
Trong hoạt động này tùy từng bài học tôi chia thành các hoạt
động khác nhau. Thông thường tôi dạy qua 4 bước sau:
* Bước 1: Giáo viên đặt vấn đề cần giải quyết trong bài học
thông qua việc nêu các tình huống có vấn đề, liên quan tới nội
dung bài học.
GV phải nêu được vấn đề vừa có tính khái qt vừa có tính cụ
thể để học sinh tư duy và nhận thức được vấn đề mà giáo viên
đưa ra, hướng học sinh vào vấn đề cần giải quyết. Muốn định
hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập được tốt, phần nêu
vấn đề của GV phải đạt các yêu cầu:
- Lời dẫn phải xúc tích, giàu tính khái qt và giàu hình ảnh.
GV có thể khéo léo liên hệ giữa bài cũ và bài mới. Đây là một
trong những yếu tố lôi cuốn sự hứng thú của người học giúp HS
ghi nhớ các sự kiện một cách có hệ thống từ đó HS dễ hiểu bài
và nhớ lâu hơn.
.
- Phải đề cập được cốt lõi của bài học.
- Gợi trí tị mị của HS.
Ví dụ: Khi dạy bài 27. Nhà Nguyễn thành lập
Tôi dẫn dắt vào bài bằng cách kết nối chuyển tiếp từ bài 26 :
Những chính sách về kinh tế và văn hố của Vua Quang Trung
sang bài 27: Nhà Nguyễn thành lập như sau:

Vua Quang Trung là vị vua anh minh đã có nhiều chính sách
nhằm phát triển kinh tế và văn hố của đất nước. Cơng việc
đang tiến hành thuận lợi thì Quang Trung mất, triều đại Tây
Sơn suy yếu dần. Lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Ánh đã huy
động lực lượng tấn công nhà Tây Sơn. Vậy nhà Nguyễn được
thành lập như thế nào?Chính sách của nhà Nguyễn ra sao? Bài
học hơm nay sẽ giúp các em biết về những điều đó.
Hoặc bằng cách dẫn chuyện, GV trước khi nhắc đến nhân
vật lịch sử nào đó, cần cung cấp để HS biết được những nét sơ
lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật
8


hoạt động. Cho HS xem phim tư liệu, quan sát tranh và đặt một
số câu hỏi gợi sự hứng thú, trí tị mị ở HS: Nhân vật đó là ai?
Đã có cống hiến gì cho đất nước? Những việc ơng (bà) làm có
ảnh hưởng gì đến cơng cuộc giải phóng đất nước?....Chúng ta
cùng tìm hiểu qua bài …..
* Bước 2: Tổ chức cho HS khai thác các tư liệu trong SGK,
tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, xem các đoạn phim tư liệu, các câu
chuyện lịch sử, các trích đoạn sân khấu, ... đã sưu tầm được.
Chính nhờ việc sử dụng phong phú đồ dùng dạy học giúp HS
gần gũi với các sự kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em
ấn tượng sâu sắc, hứng thú tìm tịi, học tập. Nó tạo điều kiện
cho HS dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện, hiện tượng lịch sử, phát
triển năng lực chú ý quan sát, óc tị mị khoa học. Đặc biệt, nó
phù hợp với đặc điểm nhận thức, đặc điểm lứa tuổi của các em.
* Bước 3: Trên cơ sở các biểu tượng về lịch sử đã được hình
thành, GV sẽ đặt các câu hỏi, đưa ra các bài tập và vận dụng
các hình thức tổ chức dạy học (cá nhân, nhóm, cả lớp), giúp HS

bước đầu biết so sánh các điểm giống và khác nhau nêu đặc
điểm, tổng hợp những nét chung của sự kiện, hiện tượng lịch
sử. Tất cả HS đều được tham gia hoạt động một cách tích cực,
chủ động. Sau mỗi nhóm thảo luận xong GV nên khéo léo dùng
kiến thức mà HS đã biết để liên hệ giữa câu hỏi nhóm này với
nhóm khác, giúp HS thấy cơng việc của nhóm mình và của bạn
có liên hệ chặt chẽ với nhau khơng thể tách rời – cơng việc
mình làm khơng thể thiếu. Điều này giúp các em tự tin và mạnh
dạn hơn trong giờ học và cử đại diện trình bày lại diễn biến
theo phiếu học tập của nhóm mình. Giáo dục HS trong lớp biết
lắng nghe và có thái độ đúng khi nghe bạn nói. Các nhóm khác
nhận xét bổ sung nếu thiếu. GV làm trọng tài điều chỉnh và
chốt lại kiến thức và kỹ năng cơ bản. GV cần có tranh ảnh tư
liệu sưu tầm được để làm bằng chứng cho những báo cáo của
HS, điều này làm các em sẽ vô cùng thích thú, sự khen ngợi của
GV cũng tạo hưng phấn giúp HS học tốt hơn. GV khơng nói
thay, làm thay HS, cũng khơng dùng một số HS hồn thành tốt
làm thay cả lớp.
* Bước 4: Từ những hiểu biết trên, GV tổ chức cho học sinh
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau (nói, viết , vẽ,...) về
sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách sinh động và chính xác;
đồng thời các em cũng biết vận dụng các kiến thức đã học vào
các nội dung như bảo vệ di tích lịch sử và di tích văn hóa của
dân tộc. Có thể cho HS thi đua với nhau bằng cách trực tiếp lên
chỉ lược đồ để nói lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa theo lời
văn của mình. Từ các nghiên cứu cho thấy bộ não của con
người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự
suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của mình. Vì vậy tơi đã
9



sử dụng sơ đồ tư duy giúp HS học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não. Vận dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học lịch sử, GV giúp HS tập thói quen tự tay ghi chép hay
tổng kết một sự kiện lịch sử, một giai đoạn lịch sử đã học theo
cách hiểu của các em dưới dạng sơ đồ tư duy. Tôn trọng mọi cố
gắng của HS, động viên khích lệ kịp thời để HS phấn khởi và
tự tin trong học tập.
Ví dụ: Bài 26 Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua
Quang Trung - 1 HS đã vẽ sơ đồ như hình dưới.

Hoạt động 3:
Củng cố, dặn
dị
- GV tóm tắt
lại nội dung
của bài.
- Gọi HS đọc
lại phần kiến
thức cần ghi
nhớ.
- Dặn HS học
thuộc phần ghi
nhớ.

Hoạt động 3: Củng cố, dặn dò
- Để củng cố khắc sâu những kiến thức của bài học tơi đã tổ
chức cho HS tham gia tích cực vào các trò chơi học tập như: Ai
nhanh, ai đúng?; Ơ chữ bí ẩn; Hướng dẫn viên du lịch; Phóng
viên nhí, ... Qua trị chơi làm sống lại những sự kiện, nhân vật

lịch sử, quá khứ hào hùng của dân tộc một cách tự nhiên, chân
thực. Đồng thời các em biết và hiểu lịch sử sâu sắc hơn, tránh
sự gị bó, áp đặt trong lĩnh hội kiến thức lịch sử. Khi sử dụng
trò chơi để củng cố, GV chú ý tránh trùng với trò chơi đầu tiết
học, lựa chọn trò chơi phù hợp. Trong một tiết dạy chỉ nên tổ
chức 1 đến 2 trị chơi học tập.
Ví dụ: Bài 7. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân tôi tổ chức cho
HS chơi trị chơi “Ơ chữ bí mật”.
Qua trò chơi cả lớp nhớ lại được nội dung bài học một cách
sinh động.
- Ngồi ra tơi thường sưu tầm và khuyến khích HS sưu tầm
những câu chuyện phù hợp với nội dung mỗi bài lịch sử để kể ở
cuối tiết học, vừa để thay đổi khơng khí học tập vừa khắc sâu
kiến thức bài học cho HS.
Ví dụ: Bài1. Nước Văn Lang- kể chuyện: Bánh trưng bánh dầy.
Bài 2. Nước Âu Lạc - kể chuyện: Nỏ thần.
Bài 9. Nhà Lý dời đơ ra Thăng Long – kể chuyện: Sự
tích rồng bay lên.
- Việc dặn dò HS học bài và chuẩn bị bài ở nhà rất quan trọng.
10


Vì nội dung bài lịch sử gắn liền với thời gian, sự kiện, nhân vật
nên không dễ hiểu, dễ nhớ như bài tập đọc. Do đó tơi thường
u cầu HS viết lại nội dung bài vừa học dưới dạng sơ đồ tư
duy và đọc trước bài mới ở nhà, sưu tầm tài liệu cho bài mới.
3.4. Phối hợp và sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học
phù hợp với từng dạng bài lịch sử.
Trong dạy học không có phương pháp, hình thức dạy học vạn năng, tối ưu
cho tất cả các bài học kể cả các phương pháp hiện đại nhất. Phương pháp nào,

hình thức dạy học nào cũng có ưu điểm và hạn chế nhất định. Dạy học là nghệ
thuật, nghệ thuật sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học. Để tổ chức
hoạt động dạy học có hiệu quả GV cần phải chủ động lựa chọn các phương pháp
và hình thức dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung của từng loại bài học, với
từng đối tượng HS nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
HS để HS phải tự khám phá ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV.
Thơng thường mỗi dạng bài lịch sử có phương pháp dạy học đặc trưng
riêng. Do đó việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn HS cách học là
rất quan trọng. Trong chương trình lịch sử lớp 4 tôi chia thành các dạng bài và
vận dụng các phương pháp dạy học như sau:
3.4.a. Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến: Dạng bài này chiếm
nhiều nhất ở phần lịch sử lớp 4, gồm 10 bài (Bài 4. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
bài 5. Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo, bài 7. Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn 12 sứ quân, bài 8. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ
nhất, bài 12. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai, bài 14.
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên, bài 16. Chiến thắng
Chi Lăng, bài 21. Trịnh – Nguyễn phân tranh, bài 24. Nghĩa quân Tây Sơn tiến
ra Thăng Long, bài 25. Quang Trung đại phá quân Thanh). Khi dạy dạng bài này
tôi sử dụng phương pháp chủ đạo là kể chuyện, nêu và giải quyết vấn đề, miêu
tả, tường thuật kết hợp với đồ dùng trực quan là hết sức quan trọng. Giúp HS
biết được nguyên nhân (hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa, diễn biến, kết quả
và ý nghĩa của chiến thắng ấy.
3.4.b. Dạng bài về cơ cấu bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế -văn hoá - xã
hội: gồm 6 bài (Bài 1. Nước Văn Lang, bài 2. Nước Âu Lạc, bài 9. Nhà Lý dời
đô ra Thăng Long, bài 12. Nhà Trần thành lập, bài 17. Nhà Hậu Lê và việc tổ
chức quản lí đất nước, bài 27. Nhà Nguyễn thành lập). Ở dạng bài này tơi tổ
chức cho HS tự tìm hiểu, tự phát hiện vấn đề thông qua phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề, vấn đáp, thảo luận nhóm, trị chơi học tập, áp dụng tối đa phương
pháp trực quan sử dụng đồ dùng dạy học để HS biết hoàn cảnh ra đời, địa phận,
thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước, tên vua, tên nước, nơi đóng đô. HS vẽ

sơ đồ hoặc mô tả được tổ chức bộ máy nhà nước. Mơ tả được những nét chính
của đời sống kinh tế, vật chất, tinh thần của con người trong xã hội đó; cách tổ
chức quân đội, luật pháp.
3.4.c. Dạng bài về tình hình kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội: gồm 4 bài
(Bài 3. Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, bài 15.
Nước ta cuối thời Trần, bài 23. Thành thị ở thế kỉ XVI-XVII, bài 26. Những
11


chính sách về kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung). Khi dạy các bài này tôi
đã sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, vấn đáp, thảo luận nhóm, trị
chơi học tập, trực quan để HS mơ tả được tình hình nước ta như thế nào? Trong
tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và
kết quả của những việc làm đó ra sao?...
3.4.d. Dạng bài về kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa, khoa học, giáo dục: gồm
4 bài (Bài 10. Chùa thời Lý, bài 18. Trường học thời Hậu Lê, bài 19. Văn học
và khoa học thời Hậu Lê, bài 28. Kinh thành Huế). Để HS mô tả được những
đặc điểm nổi bật của cơng trình kiến trúc (Q trình xây dựng, quy mơ, cấu trúc,
kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ), mô tả cách tổ chức giáo dục, thi cử, nội
dung giáo dục của một thời kỳ. Nêu được các thành tựu cơ bản về văn học, khoa
học trong thời kì nào đó. Tơi đã sử dụng phương pháp quan sát, nêu và giải
quyết vấn đề, thảo luận nhóm, miêu tả, vấn đáp, trị chơi học tập.
3.4.e. Dạng bài về hoạt động xây dựng, sản xuất phát triển kinh tế: gồm 2
bài (Bài 13. Nhà Trần và việc đắp đê, bài 22. Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong).
Khi dạy các bài này tôi sử dụng phương pháp vấn đáp, thảo luận nhóm, trị chơi
học tập và trực quan để HS nắm được vì sao triều đại này phải tiến hành hoạt
động đó? Hoạt động đó nhằm mục đích gì? Hoạt động đó diễn ra như thế nào?
Kết quả, ý nghĩa của hoạt động đó đối với đất nước lúc bấy giờ.
3.4.g. Dạng bài tổng kết, ôn tập: Gồm 3 bài (bài 6. Ôn tập, bài 20. Ôn tập,
bài 29. Tổng kết). Theo tôi với đặc trưng của môn lịch sử quan trọng nhất là

phần ôn tập tổng kết cuối năm. Nếu GV hướng dẫn HS ôn tập tổng kết tốt thì HS
sẽ ghi nhớ rất lâu. Thông thường khi dạy dạng bài này tôi sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp trong đó chủ yếu là phương pháp thống kê tổng hợp, kết hợp
trò chơi học tập để học sinh hệ thống hoá và củng cố lại những kiến thức đã học.
Vẽ được sơ đồ. Lập bảng niên biểu.Thống kê.Tìm các dẫn chứng và nêu được ý
nghĩa của những sự kiện lịch sử tiêu biểu.
Ví dụ: Khi dạy bài 29. Tổng kết tôi tổng hợp kiến thức cho HS bằng cách
tổ chức trò chơi học tập và lập bảng thống kê.
- Để củng cố 8 giai đoạn lịch sử từ buổi đầu dựng nước đến giữa thế kỉ
XIX tơi tổ chức cho HS chơi trị chơi “Nhanh lên bạn ơi”
Luật chơi: 3 tổ tham gia chơi, từng thành viên trong tổ nối tiếp chọn giai
đoạn lịch sử đã học theo thứ tự từ buổi đầu dựng nước đến giữa thế kỉ XIX rồi
gắn lên bảng, tổ nào gắn đúng và nhanh hơn tổ đó giành chiến thắng.
Sau đó yêu cầu 1 số HS nhắc lại cả 8 giai đoạn lịch sử.
- Để lập bảng thống kê năm, tên các triều đại, tên nước, tên kinh đô tôi
thiết kế thành phiếu học tập dưới dạng bài trắc nghiệm điền năm, tên triều đại,
tên nước, tên kinh đơ thích hợp vào chỗ chấm yêu cầu HS thảo luận nhóm đơi
hồn thành phiếu bài tập:
Phiếu học tập
Điền năm, tên triều đại, tên nước, tên kinh đơ thích hợp vào chỗ chấm.
Năm
939
968

Triều đại
Nhà Ngô


Tên nước


Đại Cồ Việt

Kinh đô
Cổ Loa
Cổ Loa
12



1010
1226
1400


Nhà Tiền Lê

Nhà Trần



Đại Cồ Việt
Đại Việt

….
Đại Việt

Hoa Lư

Thăng Long
Tây Đơ (ThanhHố)

Thăng Long

- Gọi các nhóm trình bày kết quả bằng máy chiếu, HS dưới lớp dễ dàng
quan sát và nhận xét bổ sung. GV chốt lại bảng làm đúng.
- Yêu cầu HS nối tiếp đọc theo hàng ngang bảng thống kê tên các triều
đại, tên nước, tên kinh đô.
- Để thống kê các sự kiện, nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam từ
buổi đầu dựng nước đến giữa thế kỉ XIX. Tôi yêu cầu HS về nhà tự làm trước
bài tập: “Từ hiểu biết của mình, em hãy lập bảng thống kê các sự kiện, nhân vật
tiêu biểu của mỗi thời kì trong lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước đến giữa
thế kỉ XIX.” [1], khuyến khích HS có thể vẽ sơ đồ tư duy về các sự kiện, nhân
vật tiêu biểu của mỗi thời kì trong lịch sử Việt Nam, đến lớp yêu cầu HS thảo
luận nhóm 4 thống nhất lại kết quả. Đại diện các nhóm trình bày, các nhóm khác
theo dõi, bổ sung. Cuối cùng GV chốt đáp án đúng.
3.5.Giúp học sinh nắm chắc 3 yếu tố lịch sử quan trọng: thời gian, sự
kiện, nhân vật.
Trước khi học từng bài của phần lịch sử tôi giới thiệu cấu trúc cơ bản của
một bài lịch sử lớp 4 để các em phần nào định hình được mỗi bài lịch sử bao giờ
cũng liên quan đến ba yếu tố cơ bản là: Thời gian, sự kiện (Mỗi sự kiện thường
có ba yếu tố: nguyên nhân, diễn biến, kết quả); Nhân vật.
Vậy làm thế nào để các em có phương pháp tìm hiểu và ghi nhớ từng yếu
tố một cách hiệu quả? Bản thân tôi đã làm như sau:
3.5.a.Về thời gian
Khi bắt đầu giới thiệu nội dung chương trình mơn lịch sử lớp 4 tơi hướng
dẫn các em đọc phần mục lục cuối sách để biết rõ mốc thời gian lịch sử mà mình
sẽ được học. Đồng thời giải thích kĩ các thuật ngữ chỉ thời gian như: Công
Nguyên, trước Công Nguyên(TCN), sau Công Nguyên, đầu thế kỉ, giữa thế kỉ,
cuối thế kỉ.
Ví dụ: Dựa vào mục lục các em dễ dàng xác định mốc lịch sử được học:
(từ 700 năm trước Công Nguyên đến giữa thế kỉ XIX.)

Vì thời gian được viết bằng những con số chính vì vậy các em rất hay
qn và hay bị nhầm nên khi dạy bài sau tôi thường nhắc lại mốc thời gian của
bài trước hoặc liên hệ khoảng cách giữa sự kiện trước với sự kiện sau. Để các
em dễ ghi nhớ, cứ sau vài bài tôi yêu cầu HSvnhắc lại mốc thời gian bằng cách
ghi lên bảng theo cột dọc thứ tự thời gian tiếp nối, đồng thời ghi sự kiện tương
ứng bên cạnh. Khi viết chữ số tơi viết to, rõ ràng (vì theo tơi sự ghi nhớ bằng
mắt sẽ bền hơn sự ghi nhớ đơn thuần bằng tai).
Ví dụ:
Thời gian
Sự kiện
Năm 700 TCN
Nước Văn Lang ra đời.
Năm 218 TCN
Nước Âu Lạc ra đời.
13


Năm 179 TCN


Quân Triệu Đà chiếm được Âu Lạc


3.5.b.Về sự kiện
Cũng giống như yếu tố thời gian tôi cũng hướng dẫn các em xem trước
phần mục lục để xác định được các sự kiện lịch sử mà mình sẽ được học trong
năm học lớp 4.
Ở mỗi bài lịch sử bao giờ cũng có một mốc thời gian cụ thể kèm theo là
một sự kiện lịch sử và thông thường kết thúc sự kiện ở bài trước sẽ mở đầu cho
nguyên nhân của sự kiện ở bài sau. Chính vì vậy khi dặn dò HS chuẩn bị bài ở

nhà, các em phải đọc lại bài trước để kết nối sự kiện từ bài trước sang bài sau,
có như thế các em mới ghi nhớ sự kiện một cách hệ thống, liên tục.
Về sự kiện tôi chỉ yêu cầu HS nhớ được những ý cơ bản nhất chủ yếu ở
phần bài học, những HS hồn thành tốt có thế mở rộng thêm ở phần nội dung
trong bài càng tốt. Khuyến khích HS vẽ sơ đồ tư duy về sự kiện đã học. Giúp
cho HS phát triển khả năng thẩm mĩ do việc thiết kế sơ đồ phải có bố cục, sử
dụng màu sắc, đường nét, sắp xếp các ý tưởng khoa học. Phát huy được sự tự
tin, sự logic, sáng tạo và phát triển được khả năng tư duy, giúp cho HS thuộc bài
ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung bài học.
Ví dụ: Một số sơ đồ tư duy của HS:
Bài 4. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Năm 40)
Bài 5. Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938)
3.5.c. Về nhân vật.
Để HS nhớ nhân vật lịch sử tôi yêu cầu HS sưu tầm tranh ảnh hoặc tư liệu
về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp với đọc sách giáo
khoa trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới về cuộc sống và sự nghiệp
của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp.
Trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, tơi cung cấp để HS biết được
những nét sơ lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt
động. HS tự trình bày cơ sở hiểu biết đã có của mình về nhân vật lịch sử đó.
Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại đắt giá
thể hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, tơi cho HS tự đóng vai để diễn lại.
Nhân vật trong lịch sử là yếu tố các em có thể dễ nhớ hơn cả trong ba yếu
tố chính của một bài lịch sử. Tất nhiên đó chỉ là những nhân vật của những sự
kiện nổi bật.
Ví dụ: Hai Bà Trưng (Khởi nghĩa hai Bà Trưng - năm 40) hay Ngô Quyền
(Chiến thắng Bạch Đằng năm 938).
Tuy vậy còn rất nhiều nhân vật gắn với các sự kiện không đặc biệt nổi bật
các em sẽ rất dễ nhầm lẫn nhân vật của sự kiện này với nhân vật của sự kiện kia.
Chính vì thế khi tìm hiểu về nhân vật tơi nhấn mạnh một số đặc điểm riêng ở

nhân vật đó, tìm ra yếu tố liên quan mật thiết giữa nhân vật và sự kiện để học
sinh dễ ghi nhớ.
14


Ví dụ: Nói đến Quang Trung các em nhớ ngay đến hình ảnh “Gị Đống Đa” đó
chính là sự kiện Quang Trung đại phá Quân Thanh. Hay: Đinh Bộ Lĩnh gắn với
hình ảnh chú bé để tóc chỏm đào đánh trận cờ lau. Đó chính là nhân vật trong
bài Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Với những nhân vật có tên hiệu, tơi đặc biệt nhấn mạnh để các em khỏi
nhầm một nhân vật thành 2 nhân vật.
Ví dụ: Thục Phán tự xưng là An Dương Vương, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy hiệu
là Quang Trung. Vậy Thục Phán và An Dương Vương; Quang Trung và Nguyễn
Huệ chỉ là một nhân vật.
3.6. Dạy lịch sử gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử, tham
quan dã ngoại, hoạt động ngồi giờ lên lớp và các mơn học khác..
- Trong q trình trực tiếp giảng dạy, tơi hướng dẫn HS tìm hiểu về các
ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử qua các hoạt động: đọc báo, xem truyền hình
(các hình ảnh tư liệu), đài phát thanh… tơi dặn HS vào các ngày lễ lớn cần đón
xem trên ti vi vì đài truyền hình thường chiếu lại các đoạn phim tư liệu,tài liệu…
về các sự kiện lịch sử đó. Khi thơng báo cho HS nghỉ học vào các ngày lễ lớn,
kỉ niệm sự kiện lịch sử của nước nhà tơi cho HS nhắc lại: Ngày đó là ngày lễ
gì? Em biết gì về ngày này? … để khắc sâu kiến thức cho các em. Khuyến khích
HS đón xem phim lịch sử trong nước và địa phương như: Tây Sơn hào kiệt, Lý
Công Uẩn, …
- Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích lịch sử
dâng hoa lên tượng anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử: Phối hợp với
hội cha mẹ HS tổ chức cho các em tham quan dã ngoại các di tích lịch sử - văn
hóa, các cảnh đẹp ở địa phương, gặp gỡ các cá nhân, tập thể trực tiếp tham gia
vào những sự kiện lịch sử và hoạt động xã hội; tham quan các bảo tàng lịch sử

để các em được trực tiếp nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử.
- Khi dạy các tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp tơi tổ chức cho HS kể
chuyện về một nhân vật lịch sử mà em biết, kể lại một sự kiện lịch sử mà em
thích nhất, giới thiệu nội dung một bộ phim lịch sử mà em đã xem, … Thi “Em
tìm hiểu lịch sử”, Nhà sử học tí hon,… Các hoạt động được HS cả lớp tích cực
tham gia tiêu biểu như em Quốc Minh, Hương Ly, Hồng Anh, … Tơi sưu tầm
và cho HS xem thêm các đoạn phim tài liệu, phim tư liệu, phim lịch sử.… để
giúp các em hiểu rõ, nắm sâu hơn về các sự kiện và nhân vật lịch sử đã học.
Đồng thời tôi lồng ghép lịch sử vào các tiết học, môn học khác nhằm thấm sâu
vào các em lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ đó giúp các em phát huy được ý thức vai trị trách nhiệm của mình,
tăng cường vốn kiến thức lịch sử, khả năng ghi nhớ lâu dài và chính xác khi
nhắc đến các nhân vật hay sự kiện lịch sử ở bất kì tình huống nào. Tạo cho các
em niềm u thích lịch sử Việt Nam.
*Tóm lại: Dù tổ chức dạy học bằng hình thức nào thì khi dạy phần Lịch
sử GV cần chú ý:
- Tập trung vào dạy cách học lịch sử cho HS.
- Tạo cho HS có nhu cầu học lịch sử và biết cách học.
- Coi trọng và khuyến khích HS học tập tích cực mơn lịch sử.
15


- Tôn trọng sự chủ động và sáng tạo của HS.
- Khơng biến giờ học lịch sử thành giờ chính trị.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để nhắc nhở HS học và chuẩn
bị trước bài ở nhà, sưu tầm tài liệu phục vụ bài học.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một năm thực nghiệm đề tài tơi nhận thấy: Đã phát huy được tính
tính cực, chủ động sáng tạo của học sinh; Kích thích sự tìm tịi, khám phá và

niềm u thích lịch sử Việt Nam ở các em. Giờ học lịch sử không khô khan như
trước, học sinh rất hứng thú và yêu thích mơn học. Tất cả các em đều được hoạt
động theo đúng năng lực của mình, HS thực sự hứng thú học tập, nắm bài sâu
hơn, chắc hơn và lâu hơn, thầy và trò hiểu nhau hơn. Bản thân các em trong tiết
học lịch sử luôn mạnh dạn, tự tin đưa ý kiến, câu hỏi thắc mắc của mình đến
cho GV, cho các bạn trong lớp. Điều này càng làm tơi khơng ngừng tìm tịi,
nghiên cứu kiến thức để giải đáp thắc mắc cho các em. Đó cịn là động lực để tơi
tiếp tục hồn thiện tốt vai trị của người giáo viên trong thời đại mới. Vì vậy mà
các tiết thao giảng, chuyên đề về phần lịch sử của tôi được ban giám hiệu và
đồng nghiệp đánh giá cao.
Bảng số liệu sau là một minh chứng cho kết quả của sáng kiến kinh
nghiệm giữa lớp 4A dạy theo các biện pháp nêu trên và lớp 4B dạy theo cách
chưa đổi mới. Kết quả học sinh yêu thích lịch sử ở lớp 4A được nâng cao rõ rệt.
Lớp 4A
Lớp 4B
Mức độ của học sinh
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
SL TL
SL TL
SL TL
SL TL
Yêu thích hứng thú 8 34,8% 18 78,3% 6 26,1% 8 34,8%
học phần Lịch sử
Học chỉ vì yêu cầu của 9 39,1% 5 21,7% 8 34,8% 10 43,5%
giáo viên
Không thích học phần 6 26,1%
9 39,1% 5 21,7%

Lịch sử
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Dạy học đối với GV chính là một sự rèn luyện toàn diện. Lịch sử là một
mơn học địi hỏi trình độ hiểu biết và năng lực thực hành toàn diện. Cho nên GV
phải say mê với nghề nghiệp, khơng ngừng tìm tịi, nghiên cứu nâng cao kiến
thức cũng như trình độ. Để người thầy thực sự là chỗ dựa, là niềm tin vững chắc
cho mỗi HS. Để giúp học sinh lớp 4 yêu thích lịch sử Việt Nam khi tổ chức
hướng dẫn cho các em học lịch sử GV cần phải:
- Có kiến thức, am hiểu, yêu mến và tự hào về lịch sử dân tộc, nắm vững
nội dung, chương trình, mục tiêu và phương pháp dạy phần lịch sử lớp 4.
- Tích cực sưu tầm tài liệu có liên quan đến bài giảng. Biết liên hệ thực tế
chuyển từ kiến thúc cũ giúp HS khai thác kiến thức mới một cách khoa học, hấp
dẫn. Biết tổ chức các hình thức học gắn với cách xây dựng thiết kế bài tập thực
hành, với hình ảnh, lược đồ, mơ hình trong SGK. Giúp HS mơ tả, trình bày, vẽ
16


sơ đồ tư duy hoặc kể lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chính
xác vì lịch sử là cần chính xác tuyệt đối về thời gian, về số liệu minh chứng. Đây
cũng là cách giúp các em ghi nhớ sâu sắc những sự kiện lịch sử, từ đó khi nhắc
tới những sự kiện đó là các em hình dung và tái hiện được ngay.
- Gần gũi với HS và có sự linh hoạt lựa chọn phương pháp và hình thức
dạy học phù hợp với đối tượng HS. Đa dạng hoá các hoạt động học tập, gây
hứng thú học tập cho HS. Giúp các em biết tự giác tìm tịi, khám phá, phát hiện
cái hay, cái đẹp, sửa chữa điểm sai của mình. Phát huy cao độ vai trò chủ thể của
HS trong hoạt động học tập. Giáo dục cho các em biết yêu quê hương đất nước
và tự hào về truyền thống hào hùng của dân tộc.
- Vận dụng dạy lịch sử bằng nhiều hình thức sinh động, phong phú như
dạy chính khố, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, lồng ghép vào các tiết

học, môn học khác nhằm thấm sâu vào các em lòng yêu nước nồng nàn, tinh
thần tự hào dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Giúp HS thể hiện tình yêu quê hương đất nước của mình qua việc giữ
gìn, bảo vệ các di tích lịch sử văn hố, phát huy truyền thống tốt đẹp của quê
hương. Các em cần học tập tốt góp phần mình xây dựng quê hương, đất nước
ngày càng tươi đẹp hơn.
2. Kiến nghị
Tôi muốn đề xuất với các cấp lãnh đạo ngoài việc cung cấp tài liệu hướng
dẫn giảng dạy như hiện nay. Ngành nên biên soạn thêm tài liệu tham khảo mở
rộng kiến thức lịch sử phù hợp với từng bài, từng giai đoạn lịch sử để GV có
thêm tư liệu khắc sâu kiến thức cho HS.
Phịng giáo dục nên tổ chức thêm chuyên đề về môn lịch sử, cụ thể về
cách dạy từng dạng bài, hướng dẫn cách kiểm tra, đánh giá phù hợp với thông tư
22. Đồng thời nên tổ chức các sân chơi về môn lịch sử cho HS vì đây là mơn
học giúp HS “Tìm về cội nguồn dân tộc”.
Về phía nhà trường trong các buổi sinh hoạt chuyên môn ở tổ mỗi GV cần
nêu ra những vướng mắc khó khăn trong giảng dạy mơn lịch sử để thảo luận tìm
cách thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ thực tế giảng dạy phần
lịch sử lớp 4. Do năng lực và thời gian còn hạn chế cho nên kinh nghiệm này
chưa hẳn đã đúng hoặc phù hợp với mọi lớp, mọi trường. Tơi rất mong nhận
được sự góp ý, bổ sung của các bạn đồng nghiệp, của hội đồng khoa học các cấp
để kinh nghiệm này được hoàn thiện và vận dụng vào thực tế giảng dạy tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

17


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 28 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Hồng Thị Hường

Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Lịch sử và địa lí lớp 4. Nguyễn Anh Dũng (chủ biên). Nhà xuất
bản giáo dục. Năm 2005.
2. Sách giáo viên Lịch sử và địa lí lớp 4. Nguyễn Anh Dũng (chủ biên). Nhà xuất
bản giáo dục. Năm 2005.
3. Thiết kế bài giảng lịch sử lớp 4. Nguyễn Trại (chủ biên). Nhà xuất bản Hà Nội.
Năm 2005.
4. Mạng Giáo dục.
5. Tạp chí Thế giới trong ta.
6. Tạp chí Giáo dục tiểu học.
7. Hướng dẫn viết SKKN của phòng giáo dục và đào tạo Hoằng Hóa.
8. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên GV tiểu học:
TH1. Một số vấn đề về tâm lí học dạy học ở tiểu học.
TH13. Kĩ năng lập kế hoạch bài học theo hướng dạy học tích cực.
TH15; 16. Một số kĩ thuật dạy học và phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học;
TH17. Sử dụng thiết bị dạy học ở tiểu học; ...
9. Việt Nam sử lược của học giả Trần Trọng Kim.
10. Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX của giáo sư Lê Thành
Khôi.

18



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Hoàng Thị Hường
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Hoằng Minh
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Tên đề tài SKKN
Nâng cao hiệu quả dạy tiết luyện tập
toán cho học sinh tiểu học.
Nâng cao hiệu quả dạy mĩ thuật cho
học sinh tiểu học.
Nâng cao hiệu quả dạy khoa học
cho học sinh tiểu học.

Một số biện pháp giúp học sinh lớp
3 học tốt môn tự nhiên và xã hội.
Phát huy tính tích cực của học sinh
trong mơn tốn lớp 4.
Một định hướng sáng tạo những bài
toán trong việc bồi dưỡng học sinh
giỏi lớp 5.
Một số biện pháp giúp HS lớp 5 học
tốt môn khoa học phần con người và
sức khỏe.
Nâng cao chất lượng giải toán về tỷ
số phần trăm cho học sinh lớp 5.
Giải toán chuyển động đều.
Sử dụng phương pháp dịch chuyển
và ghép hình trong giải tốn- Lớp 5.
Phương pháp giải bài tốn có tổng
các phân số trong bồi dưỡng học
sinh giỏi mơn tốn lớp 5.
Sử dụng phương pháp dùng tỉ số và
chia hình trong giải tốn có nội
dung hình học – Lớp 4; 5.
Nâng cao hiệu quả giáo dục an tồn
giao thơng cho học sinh lớp 5.

Cấp
đánh giá
xếp loại
Sở
GD&ĐT
Sở

GD&ĐT
Sở
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT

Kết quả
Năm học
đánh giá đánh giá xếp
xếp loại
loại
A

1996 - 1997

B

1996 - 1997

B

1998- 1999

A

2000- 2001

A


2003- 2004

Phòng
GD&ĐT

A

2004 - 2005

Phòng
GD&ĐT

A

2005 - 2006

A

2007 – 2008

A

2008- 2009

B

2010- 2011

Phòng

GD&ĐT

A

2012- 2013

Sở
GD&ĐT

C

2013- 2014

B

2015 - 2016

Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Sở
GD&ĐT

Phòng
GD&ĐT

19




×