A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Tiếng Việt là môn học có nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, giúp học sinh lĩnh hội hệ thống kiến
thức, kĩ năng cơ bản về tiếng Việt, góp phần trang bị cho thế hệ trẻ khả
năng sử dụng tiếng Việt để học tập ở tiểu học và các bậc học cao hơn, để
suy nghĩ và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Ngoài những kiến thức, kĩ năng cần thiết, môn Tiếng Việt còn bồi
dưỡng cho học sinh tình yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lẽ phải và
sự công bằng trong xã hội. Đồng thời, giáo dục cho các em lòng yêu mến
và thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học đã nối kết một cách tự nhiên các
bài học khác nhau trong môn Tiếng Việt, nhằm giúp học sinh có một năng
lực mới năng lực sản sinh ngôn bản. Nhờ năng lực này, các em biết cách
sử dụng tiếng Việt văn hoá làm công cụ tư duy, giao tiếp và học tập. Bản
thân mỗi giáo viên đều biết phân môn Tập làm văn đòi hỏi học sinh phải
huy động vốn từ, vốn kiến thức của nhiều mặt, từ những hiểu biết về
cuộc sống đến các tri thức về văn hoá, khoa học thường thức. Nhưng học
sinh không chỉ vận dụng những hiểu biết đó vào việc viết văn là xong mà
các em còn phải thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình khi làm bài để bài
viết của các em có cá tính, có hồn, làm rung động được người đọc.
Thể loại văn miêu tả là một thể loại có số lượng lớn trong chương
trình Tập làm văn ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng. Văn miêu tả là
loại văn mà học sinh phải dùng ngôn ngữ để tái hiện cảnh vật, sự vật, sự
việc... mà mình quan sát và cảm nhận được. Văn miêu tả còn giúp cho
người đọc có thể hình dung ra đối tượng mà người viết sẽ miêu tả một
1
cách rõ nét, cụ thể như nó vốn có trong cuộc sống. Một bài văn miêu tả
hay, không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng
miêu tả mà còn thể hiện trí tưởng
tượng, cảm xúc, đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả.
Các bài văn miêu tả ở lớp 4 chỉ yêu cầu tả những đối tượng quen
thuộc ở xung quanh các em. Mặc dù là những đối tượng miêu tả khá quen
thuộc, gần gũi với các em, song các em lại thiếu vốn ngôn ngữ để diễn tả
những điều mình quan sát được. Ở một số em tìm được từ ngữ miêu tả thì
lại vụng về trong cách diễn đạt hoặc dùng từ tối ý, hoặc từ không gợi tả,
gợi cảm khiến cho bài văn miêu tả mang tính kể lể sự việc là chính. Còn có
nhiều em rất lúng túng khi viết văn, không biết sắp xếp ý như thế nào cho
phù hợp để có một bài văn hoàn chỉnh và cho rằng phân môn Tập làm văn
rất khó, từ đó các em sinh ra ngại viết văn.
Đặc biệt là với chương trình sách giáo khoa hiện nay, để có một bài
văn hoàn chỉnh, các em phải học qua một số tiết Tập làm văn. Mỗi tiết Tập
làm văn chỉ thực hành rèn luyện một vài kỹ năng cơ bản nào đó của quá
trình làm văn. Vậy các em phải kết nối mạch kiến thức đó như thế nào để
có một bài văn hoàn chỉnh, một bài văn hay, giàu cảm xúc…?
Từ thực tế trên đây, tôi nhận thấy vấn đề dạy bồi dưỡng kiến thức và
cách làm văn cho học sinh là rất cần thiết. Do đó, trong quá trình giảng dạy
bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ phải làm thế nào để giúp học sinh yêu
thích, và có khả năng làm văn miêu tả tốt hơn. Vì vậy, trong phạm vi hẹp
của đề tài này, tôi xin được mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm nhỏ của mình
về “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt văn miêu tả cây cối”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC LÀM VĂN MIÊU TẢ CÂY
CỐI
1. Thực trạng:
2
a) Thực trạng việc dạy văn miêu tả cây cối ở trường tiểu học Mỹ
Lộc.
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ của đồng nghiệp, tôi thấy giáo viên
đã hiểu rõ được vai trò, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn nói chung,
cũng như cách thức hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tiết học văn miêu tả
cây cối cơ bản đã đúng trình tự các bước lên lớp. Học sinh phần nào đã
biết làm bài tập làm văn theo các dạng bài khác nhau. Song về phía giáo
viên, khi dạy chưa chú trọng nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng quan sát,
tìm ý, sắp xếp ý cũng như định hướng cho học sinh biết cách làm giàu vốn
từ ngữ. Cũng như khi sử dụng phương pháp dạy Tập làm văn vẫn còn
nhiều lúng túng, đôi khi còn đơn điệu, chưa phát huy được tính chủ động
sáng tạo của học sinh.
Ví dụ, có những bài dạy hướng dẫn học sinh quan sát cây cối, để học
sinh phát hiện đặc điểm cây mình tả có nét gì khác, nổi bật so với các cây
khác. Để từ đó học sinh chọn tả được những điểm nổi bật của cây và so
sánh các bộ phận của cây với những sự vật, hiện tượng quen thuộc. Lẽ ra
giáo viên nên khuyến khích cho học sinh quan sát thực tế, được quan sát
những cây cụ thể mà đề bài yêu cầu. Từ đó các em nhớ, lựa chọn ý và viết
lại theo sự cảm nhận của riêng mình. Nhưng có khi vì không có điều kiện,
nên giáo viên chỉ hướng dẫn cho học sinh những ý cần phải giải quyết theo
yêu cầu của sách giáo khoa và dạy cho học sinh học tập những bài văn
mẫu.
Đối với tiết trả bài đôi khi còn đơn điệu, giáo viên chỉ nhận xét chung
từng bài của học sinh về ưu điểm và nhược điểm cơ bản nhất hoặc nêu
những lỗi về dùng từ, đặt câu, viết đoạn để học sinh sửa rồi trả bài. Hoặc
đọc những bài văn hay cho học sinh tham khảo. Giáo viên chưa chú trọng
nhiều về việc hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi sai trong bài, cách sửa
3
câu, dùng từ, cách viết những câu văn hay có hình ảnh hoặc phát hiện
những câu văn hay, những hình ảnh đẹp. Như vậy, tiết học diễn ra đều
đều, theo một qui trình rập khuôn dưới sự hướng dẫn của giáo viên, còn
học sinh lại không tự mình phát hiện lỗi sai trong bài cũng như chưa tìm ra
được những câu văn miêu tả hay của bạn để học tập. Thông qua tiết trả
bài như vậy, tôi thấy học sinh học tập được rất ít ở bạn bè. Bởi học sinh ít
được luyện tập, rèn luyện kỹ năng và thói quen “tự điều chỉnh”, tự học tập
để tiến bộ và cũng chưa có cơ hội để thể hiện mình. Do vậy, chất lượng
dạy văn miêu tả còn nhiều hạn chế.
b) Thực trạng việc học văn miêu tả cây cối của học sinh lớp 4.
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, phần nào tôi đã nắm được chất
lượng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 4. Cơ bản các em đã
nắm được thể loại văn miêu tả cây cối, bài văn có bố cục rõ ràng và bước
đầu đã biết miêu tả một cách đơn giản. Tuy nhiên, khi làm dạng văn này
học sinh vẫn còn nhiều lúng túng như dùng từ chưa phù hợp, cách miêu tả
chưa theo một trình tự hợp lý, chưa biết sắp xếp ý và liên kết các câu cũng
như chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tả. Số học sinh được
làm bài miệng còn ít. Các em còn thiếu tự tin, chưa mạnh dạn khi trình bày
bài văn miệng. Do đó, nhiều câu văn còn mang tính sao chép, cứng nhắc,
chưa thực tế, bài văn chưa có cảm xúc, chưa có tính thuyết phục, chưa hay.
Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học ham chơi, khả
năng tập trung chú ý nhận thức về các sự vật còn hạn chế, năng lực sử
dụng ngôn ngữ chưa thật phát triển nên việc học tập ở phân môn Tập làm
văn gặp những khó khăn như: thiếu vốn sống, vốn hiểu biết về đối t ượng
cần miêu tả hoặc không biết cách diễn đạt về đối tượng cần tả. Do vậy,
học sinh rất ngại khi làm bài Tập làm văn.
2. Kết quả điều tra chất lượng học Tập làm văn miêu tả cây cối.
4
Sau một thời gian giảng dạy kết hợp với việc đi dự giờ thăm lớp,
phần nào tôi đã nắm được thực trạng dạy và học phân môn Tập làm văn ở
trường tiểu học Mỹ Lộc. Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả học tập của
học sinh và chọn học sinh lớp 4A để khảo sát chất lượng làm bài viết.
Đề bài như sau: Em hãy tả một loại cây mà em thích.
Yêu cầu học sinh làm bài viết trong thời gian 35 phút. Kết quả thu được
là:
* Ưu điểm:
Học sinh hiểu được yêu cầu của đề bài và biết thực hành viết một
bài văn miêu tả cây cối.
Trong số bài học sinh làm đạt chất lượng khá, giỏi thì bài viết của
các em có bố cục rõ ràng, đảm bảo đủ 3 phần: Mở bài Thân bài Kết luận.
Một số học sinh biết viết câu văn đúng ngữ pháp, biết cách diễn đạt
ý và ít nhiều biết sử dụng các ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật đơn
giản để miêu tả.
* Nhược điểm:
Một số bài viết chưa có bố cục rõ ràng.
Nhiều bài sắp xếp ý còn lộn xộn, diễn đạt câu văn chưa sáng sủa.
Kỹ năng dùng từ của các em chưa đảm bảo: cách dùng từ chưa
chính xác, dùng sai nghĩa từ, lặp từ, vốn từ còn nghèo nàn, tẻ nhạt, từ dùng
chưa có
giá trị gợi tả, gợi cảm. Chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
Một số bài còn mắc nhiều lỗi chính tả, sử dụng dấu câu chưa phù
hợp.
Dưới đây là kết quả bài viết của học sinh đạt được như sau:
Tổn
g số
HS
SL
Giỏi
%
SL
Xếp loại
Khá
Trung bình
%
SL
%
SL
Yếu
%
5
22
2
9.1%
5
22.7%
12
54.6%
3
13.6%
Như vậy, qua kết quả điều tra trên cho ta thấy tỉ lệ học sinh khá, giỏi
còn thấp. Học sinh yếu còn nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Kết
quả của bài khảo sát khiến tôi trăn trở rất nhiều và tự đặt ra câu hỏi: Làm
thế nào để dạy học sinh viết văn miêu tả cây cối có hiệu quả? Trong quá
trình dạy học giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu nội dung bài dạy kết hợp
sử dụng, đổi mới các phương pháp dạy học như thế nào để tổ chức giờ
học nhẹ nhàng, tự nhên, hiệu quả, tạo điều kiện để phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập, giúp các em có cơ hội
được thể hiện mình thông qua những bài viết có cảm xúc? Từ những trăn
trở và những câu hỏi đặt ra đã thôi thúc tôi nghiên cứu để tìm ra một số
biện pháp dạy cho học sinh lớp 4 làm một bài văn miêu tả cây cối có chất
lượng.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
6
1.Tìm hiểu các nội dung dạy tập làm văn miêu tả cây cối trong SGK
Tiếng việt 4.
* Nghiên cứu kĩ về các kiến thức dạy tập làm văn lớp 4 và mảng kiến
thức dạy về văn miêu tả.
* Nghiên cứu cụ thể kiểu bài miêu tả cây cối.
2. Tìm hiểu các tiết tập làm văn miêu tả cây cối trong sách giáo viên
Tiếng việt 4 và các tài liệu tham khảo, kết hợp dự giờ đồng nghiệp và thảo
luận về dạy văn miêu tả.
Nhìn chung, các bài soạn trong sách giáo viên đều xây dựng nội dung
để học sinh thực hành, luyện tập làm văn theo hướng tích cực. Ở mỗi bài
soạn, các hoạt động được trình bày một cách chi tiết cụ thể. Tuy nhiên,
việc áp dụng các bài soạn trong sách giáo viên không thể dập khuôn như
sách hướng dẫn. Do đó, mỗi giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo cho mình một
cách dạy riêng cho mỗi bài dạy tập làm văn miêu tả cây cối để phù hợp với
tình hình lớp, trường, địa phương và khả năng của mình.
Bên cạnh đó, bản thân tôi đã tích cực dự giờ các đồng nghiệp trong
khối để phát hiện những ưu điểm, những tồn tại mà cả giáo viên và học
sinh đã làm được cũng như chưa làm được khi dạy và học Tập làm văn. Để
từ đó, bản thân có cơ hội được học hỏi, trao đổi cũng như rút kinh nghiệm
cho bản thân.
3. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng, tìm ý, lập dàn bài khi viết
bài văn miêu tả.
4. Rèn luyện cho học sinh viết văn có hình ảnh, sử dụng linh hoạt các
biện pháp nghệ thuật khi viết văn.
5. Nâng cao năng lực cảm thụ văn học và phát huy tính tích cực của
học sinh.
6. Thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh.
7
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Tổ chức tốt việc quan sát tìm ý và dựng đoạn cho học sinh khi
viết văn miêu tả
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn là một
việc làm cần thiết và quan trọng. Điều kiện cơ bản và cũng là phương pháp
cơ bản để làm tốt bài văn miêu tả là phải biết quan sát và chọn lọc những chi
tiết quan sát được. Mọi kết quả quan sát được thể hiện trong bài miêu tả.
Nếu quan sát tinh vi, thấu đáo bài viết sẽ đặc sắc, hấp dẫn. Quan sát hời hợt,
phiến diện bài viết sẽ khô khan, nông cạn. Do vậy, giáo viên phải tạo điều
kiện cho các em đến tận nơi quan sát đối tượng được miêu tả, coi việc tổ
chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả là một công việc thuộc
nguyên tắc dạy học làm văn miêu tả. Giáo viên phải dạy tốt tiết quan sát tìm
ý. Trong tiết học đó, học sinh phải tập quan sát bằng nhiều giác quan khác
nhau. Tuy vậy, giáo viên cũng cần hướng dẫn các em quan sát, phái huy động
vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại. Muốn vậy, giáo
viên phải nghiên cứu trước chương trình để có kế hoạch nhưhướng dẫn học
sinh quan sát trực tiếp đối tượng cần miêu tả. Việc quan sát cũng có khi tiến
hành trên lớp, cũng có khi tiến hành ngoài lớp (trước khi đến lớp). Để quan sát
có chất lượng, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát theo trình tự nhất
định (từ chung tới riêng, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần hay ngược lại) và
quan sát bằng nhiều giác quan rồi ghi chép lại những chi tiết đặc sắc, nổi bật
theo phần gợi ý của sách giáo khoa, nhờ đó mà bài văn của các em tả đúng
trọng tâm, sinh động, mới mẻ hơn.
Ví dụ : Khi dạy đến bài: Luyện tập quan sát cây cối. (Bài tập 2
SGK)
8
Đề bài : Quan sát một cây mà em thích trong khu vực trường em (hoặc
nơi em ở) và ghi lại những gì em quan sát được.
Trước khi dạy bài này, giáo viên cần dặn học sinh chuẩn bị quan sát
trước một cây cụ thể em thích trong khu vực trường hoặc nơi các em ở.
(Ví dụ: cây ăn quả, cây bóng mát, cây cảnh…). Nếu có điều kiện, trước giờ
học, giáo viên tổ chức cho cả lớp cùng quan sát một số cây cụ thể ở khu
vực
trường học.
Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát kĩ cây chọn tả
bằng nhiều giác quan theo một trình tự hợp lí. Mỗi học sinh chọn cây mình
sẽ tả là cây gì ? Cây đang trong thời kì nào? Xung quanh cây là cây gì hay có
những cảnh vật nào làm tôn lên vẻ đẹp của cây? Học sinh ghi chép lại
những gì quan sát được vào vở nháp và sắp xếp những điều quan sát được
theo một trình tự hợp lí để được một dàn ý chi tiết và trình bày trước lớp.
Sau đó, học sinh dựa vào dàn ý chi tiết để viết bài văn miêu tả gồm 3 phần.
* Dưới đây là ví dụ về dàn ý chi tiết yêu cầu mỗi học sinh cần đạt
được.
Mở bài :
Cây bàng ở sân trường em rất to, là món quà hội phụ huynh trồng
tặng nhân ngày thành lập trường.
Thân bài :
Hình dáng : Cây cao đến tầng hai, như một chiếc dù khổng lồ.
+ Rễ cây : nhô lên khỏi mặt đất như những con rắn đang bò.
+ Thân cây : tròn, màu nâu xỉn, sù xì như da cóc.
+ Tán lá : xanh um, mát rượi, che kín một khoảng sân trường. Mỗi khi
có làn gió nhẹ thổi qua, chúng rung rinh như chào đón.
+ Những chùm hoa li ti màu trắng xen lẫn giữa đám lá xanh.
9
+ Những chú chim sâu lích rích trong vòm lá...
+ Những quả bàng chín vàng lấp ló trong kẽ lá…
Giờ ra chơi chúng em rất thích ngồi dưới gốc cây đọc báo, tán
chuyện và chơi những trò chơi thú vị…..
Kết bài:
Em rất thích ngồi dưới gốc bàng ngắm nhìn trời xanh qua kẽ lá hay
lắng nghe lũ chim trêu ghẹo nhau. Cây bàng gắn liền với tuổi học trò của
chúng em nên…..
Như vậy, sau khi hướng dẫn học sinh quan sát kĩ đối tượng cần miêu
tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh ghi chép lại những đặc điểm nổi bật,
trọng tâm. Từ đó, hướng dẫn học sinh lựa chọn tìm ý, sắp xếp, bố cục xây
dựng thành một dàn bài chi tiết. Từ dàn bài chi tiết, học sinh sử dụng ngôn
ngữ, phát triển ý để xây dựng thành từng đoạn văn và cả bài văn hoàn
chỉnh.
Giáo viên cũng cần lưu ý khi hướng dẫn học sinh quan sát và tả cây
cối cần tập trung quan sát một loại cây cụ thể. Khi tả, cần chú ý những
bộ phận nổi bật, trọng tâm hoặc phải chọn một yếu tố đặc trưng nhất để
tả thật kĩ, đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của cây.
Ví dụ khi tả về cây bóng mát, cần tập trung tả kĩ về những cành cây,
tán lá che mát... cũng như những kỉ niệm gắn bó của mình với cây.
Hoặc khi tả về cây ăn quả, cần tập trung tả kĩ về quả như : Hình
dạng, màu sắc, đặc điểm, mùi vị của quả theo thời gian phát triển.
Khi tập trung tả kĩ về những bộ phận nổi bật của cây, người đọc sẽ
thấy sự khác biệt, sự độc đáo của cây với vẻ đẹp riêng của nó cũng như
tình cảm của người viết gửi gắm vào cây rất sâu sắc.
Như vậy, quan sát, tìm ý, xây dựng đoạn là việc làm hết sức cần thiết
cho việc dạy thể loại văn miêu tả. Nếu thực hiện tốt khâu này thì học sinh
10
viết bài văn sẽ tốt hơn. Do vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết
cách quan sát đối tượng theo trình tự hợp lí với những đặc điểm nổi bật
trọng tâm cũng như khuyến khích học sinh linh hoạt, sáng tạo để có cách
diễn đạt phù hợp với đối tượng.
2. Hướng dẫn học sinh diễn đạt có nghệ thuật
a) Hướng dẫn học sinh tập diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh
Đối với phần này, diễn đạt câu văn có hình ảnh rất phù hợp với thể
loại văn miêu tả. Trước hết, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu
một số đoạn văn mẫu hoặc những đoạn viết hay của học sinh để nhận xét
về cách miêu tả, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật.Từ đó, sẽ dễ dàng
cho việc hướng dẫn các em diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng
một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân hoá... trong bài làm.
Ví dụ: Giáo viên lấy trực tiếp những câu văn, đoạn văn hay của học
sinh có sử dụng các biện pháp so sánh hoặc nhân hóa khi tả về cây bàng
như:“Nhìn từ xa, cây bàng như chiếc ô xanh khổng lồ mát rượi.Cành lá
mơn man đùa vui trong gió như vẫy chào chúng em”.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nhận xét của mình về những câu văn
trên như bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Các biện pháp đó có tác
dụng gì? Học sinh so sánh những câu văn trên với những câu văn khác
không sử dụng các biện pháp nghệ thuật xem cách miêu tả nào hay hơn,
sinh động và hấp dẫn hơn?
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có
nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết: Luyện tập xây dựng
đoạn văn, luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả. Luyện
tập miêu tả các bộ phận của cây cối. Qua những tiết Tập làm văn này, học
sinh được thể hiện cách diễn đạt của mình và học tập bạn, học sinh đ ược
luyện tập cách viết mở bài, kết bài và luyện tập xây dựng đoạn văn. Qua
11
đó, học sinh tập vận dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học vào việc
diễn tả nội dung.
Ví dụ, khi viết văn, học sinh vận dụng sáng tạo những từ láy, từ chỉ
màu sắc, âm thanh, từ biểu cảm, biện pháp so sánh, nhân hoá... Những từ
ngữ này là thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt, là phương tiện miêu tả rất
hiệu quả. Giáo viên cần khai thác giá trị của lớp ngôn từ nghệ thuật này để
hướng dẫn học sinh sử dụng cái hay, cái đẹp, cái bóng bẩy, giàu tính gợi tả
và hình ảnh gợi cảm của tiếng Việt. Trong bài văn của các em ta đã gặp
cách dùng từ như: ngọn cây cao vút, bông hồng mỉm cười,... hay những câu
văn học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi tả về hoa phượng “Khi
chưa muốn khoe vẻ đẹp của mình, hoa e lệ ẩn mình trong lớp đài hoa xanh
mỡ màng”. Hay có những câu học sinh tả hoa mai vàng: “Mỗi cơn gió
thoảng qua, những cánh hoa rơi như những con bướm vàng lượn bay trước
khi rơi xuống đất”.
Như vậy, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả rất
quan trọng. Sử dụng so sánh tu từ sẽ giúp các em thể hiện kín đáo mà sâu
sắc tình cảm, cảm xúc, thái độ, và sự đánh giá về đối tượng; làm cho đối
tượng trở nên đẹp đẽ, sinh động, cụ thể, hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý và dễ
gợi liên tưởng bất ngờ độc đáo cho người đọc, người nghe. Cũng như so
sánh, nhân hoá được sử dụng trong miêu tả rất hữu hiệu vì nó là con đường
ngắn nhất đưa sự trừu tượng, khô khan đến với nhận thức của con người.
Như vậy, ở mỗi tiết Tập làm văn miêu tả cây cối, giáo viên phải tuỳ
thuộc vào yêu cầu bài tập để đưa ra những câu hỏi và bài tập phù hợp, gợi
mở để học sinh dễ dàng sử dụng các biện pháp nghệ thuật đã học, giúp cho
cách diễn đạt của các em sinh động hơn.
b) Luyện cho học sinh xây dựng mở bài, kết bài
12
Giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ: Nếu viết mở bài hay, bài văn sẽ
cuốn hút người nghe, người đọc. Kết bài hay, hấp dẫn sẽ để lại trong lòng
người đọc ấn tượng nhớ mãi, khó quên. Do vậy, phần mở bài và kết bài
trong bài văn là rất quan trọng.
Phần mở bài:
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết phần mở bài theo cách trực
tiếp hoặc gián tiếp. Có thể mở bài bằng một câu hoặc bằng một đoạn văn
nhưng không được phép tách rời nội dung đã xây dựng được. Dù mở bài
bằng cách nào thì cũng phải đạt được yêu cầu là giới thiệu được đối tượng
định tả. Tuỳ nghệ thuật vào bài của từng em, giáo viên không nên gò bó,
áp đặt. Học sinh mở bài bằng những cách khác nhau nhưng vẫn đảm bảo
nội dung một cách tự nhiên với sự nhận thức và tình cảm của chính mình.
Để học sinh hiểu và viết tốt phần mở bài thì giáo viên cần hướng dẫn
học sinh hiểu rõ sự khác nhau giữa hai cách mở bài này. Cụ thể: Mở bài
trực tiếp là giới thiệu, đi thẳng ngay vào vấn đề, đối tượng mình cần tả.
Còn mở bài gián tiếp là nói hoặc giới thiệu về chuyện khác có liên quan rồi
mới dẫn vào giới thiệu đối tượng cần tả .
Ví dụ: Khi học sinh tả cây hoa hồng nhung, học sinh có thể mở bài
theo những cách sau: “Vườn nhà em trồng rất nhiều loài hoa nhưng em
thích nhất
là cây hoa hồng nhung”. (Mở bài trực tiếp)
Hoặc: “Mùa xuân đến, các loài hoa đua nhau tỏa hương khoe sắc.
Mỗi
loài hoa đều có một vẻ đẹp và hương thơm riêng. Nhưng có lẽ đẹp hơn cả
vẫn là cây hoa hồng nhung. Cây hoa này ông em trồng từ lúc nào em cũng
không nhớ rõ nhưng nó là cây hoa mà em yêu quí nhất.” (Mở bài gián tiếp)
13
Qua hai cách mở bài trên, giáo viên cần cho học sinh nhận xét cách mở
bài nào hay hơn, sâu hơn. Từ đó, giáo viên khuyến khích học sinh viết mở
bài theo cách gián tiếp để phần mở bài hay hơn, sâu hơn, hấp dẫn người
đọc. (Giáo viên cần lưu ý khi dạy học sinh khá, giỏi)
Phần kết bài:
Giống như mở bài, kết bài có thể bằng nhiều cách, có thể kết bài mở
rộng hoặc kết bài không mở rộng. Giáo viên hướng cho học sinh nên chọn
cách nào phù hợp với mở bài và thân bài thì bài văn mới đúng trọng tâm,
mới hay.
Để học sinh hiểu và viết tốt hơn hai cách kết bài này, giáo viên cũng
cần làm rõ cho học sinh hiểu thế nào là kết bài mở rộng hoặc kết bài
không mở rộng? Kết bài mở rộng: Nêu ý nghĩa kết hợp đưa ra lời bình
luận về cây cũng như tình cảm của người viết đối với cây đang tả. Kết bài
không mở rộng: Có thể nêu ích lợi của cây hoặc tình cảm của người tả đối
với cây, không bình luận gì thêm.
Ví dụ học sinh viết phần kết bài cho bài văn tả cây bóng mát ở sân
trường như sau:
* Em rất thích cây phượng ở sân trường. Dù đi đâu xa em vẫn nhớ về
nó.
(Kết bài không mở rộng)
* Rồi cũng sẽ đến ngày chúng em phải xa mái trường tiểu học thân
yêu, xa cây phượng già với bao kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò. Em sẽ
không bao giờ quên cây phượng, quên những giờ phút chúng em đã cùng
nhau ngồi ôn bài, ngồi hóng mát và trò chuyện. Vì vậy, dù đi đâu xa em vẫn
luôn nhớ về cây như nhớ về những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò..(Kết bài
mở rộng)
14
Như vậy, với hai cách kết bài trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
thảo luận và nêu nhận xét xem cách kết bài nào của bạn hay hơn? Hay hơn
chỗ nào? Vì sao lại hay? Từ đó, giáo viên nên khuyến khích nhiều học sinh
học tập cách kết bài mở rộng để bài văn có chiều sâu hơn.
3. Luyện viết câu văn ngắn gọn, biết sử dụng các dấu câu và bố
cục bài văn rõ ràng.
Thực trạng cho thấy, nhiều học sinh chưa biết sử dụng đúng dấu câu
trong bài văn. Có những bài văn học sinh không hề sử dụng dấu câu, chỗ nào
thích viết hoa là các em tự do viết hoa. Để khắc phục tình trạng này, ngay khi
luyện viết từng đoạn, giáo viên cần giúp học sinh hiểu, biết cách ngắt các ý
diễn đạt bằng các dấu câu như dấu phẩy, dấu chấm. Trong các tiết làm văn
đầu tiên, việc hướng dẫn sử dụng dấu câu đòi hỏi giáo viên phải thật sự kiên
trì, tận tình, công phu để tập thói quen cho học sinh. Cụ thể là: Cho học sinh
đọc đoạn văn mình viết, nêu chỗ dùng dấu câu, nếu dấu câu dùng chưa đúng,
giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai vì sao lại chưa đúng và
cách sửa lại như thế nào cho phù hợp. Hoặc nếu chưa có dấu câu nào thì yêu
cầu học sinh học sinh đọc kĩ lại từng câu, xem từng câu diễn đạt nội dung gì,
ý gì, từ đó có cách sử dụng dấu câu phù hợp. Ở phần này, giáo viên tập trung
vào những học sinh thường sử dụng sai dấu câu. Qua việc hướng dẫn những
học sinh thường sử dụng dấu câu sai, những học sinh khác cũng tự soát bài và
rút kinh nghiệm cho bản thân trong mỗi bài viết.
Bên cạnh đó, giáo viên cần giúp học sinh biết viết câu văn ngắn gọn.
Giúp học sinh viết câu văn ngắn gọn nhưng không có nghĩa là chắt lọc cốt
sao viết cho đúng ý mà còn phải biết diễn đạt câu văn sao cho sinh động,
gợi hình ảnh, âm thanh. VD: Một học sinh viết khi tả về những tán lá của
cây đa “Trên các tán lá xanh, các loài chim đang thi nhau hót.” sẽ không hay
bằng câu “Trên tán lá xanh cao vòi vọi ấy, lũ chim sáo, chào mào, chìa
vôi… kéo về hàng đàn, hàng lũ, tha hồ thi nhau ca hát những làn điệu dân
15
ca phong phú”. Vì vậy, khi luyện cho học sinh viết từng đoạn văn, đặc biệt
là viết các đoạn ở thân bài, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn
rõ ràng, mạnh lạc, sinh động nhưng lại phải giàu hình ảnh bằng cách sử
dụng hợp lý các từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, từ ghép.... có thể mở
rộng nòng cốt câu nhưng lời lẽ phải rõ ràng, không lủng củng, trùng lặp.
Trong các tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, giáo viên nên cho học sinh viết
nháp, gọi một số học sinh trình bày, cả lớp và giáo viên cùng sửa cách dùng
từ, cách diễn đạt, đưa ra các phương án diễn đạt hay để học sinh học tập..
Sau đó học sinh mới viết lại đoạn văn vào vở. Với những câu văn học sinh
viết dài dòng mà không sáng ý, giáo viên nên cho học sinh nêu ý cần thông
báo là gì rồi tập cho học sinh lựa chọn từ ngữ, sắp xếp câu để viết ngắn
gọn mà vẫn đảm bảo nội dung.
Ví dụ có học sinh viết phần kết bài khi tả về cây bóng mát “ Cây bàng
là người bạn thân của em vì cây bàng có nhiều ích lợi. Em rất thích cây
bàng. Cây bàng như cái ô che mưa che nắng. Quả của cây bàng để ăn . Lá
cây bàng để gói xôi. Vì vậy, cây bàng là người bạn thân của em”
Giáo viên cần chỉ ra để học sinh thấy rõ viết như vậy là hơi kể lể và
lặp lại nhiều lần từ “cây bàng”, lặp lại câu “cây bàng là người bạn thân
của em” và cách sắp xếp câu chưa hợp lí, còn lộn xộn…Do đó, giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh viết lại như sau:
“Em rất yêu cây bàng ở trường em. Cây bàng có rất nhiều ích lợi. Nó
không những là cái ô che nắng, che mưa cho chúng em trong những giờ
chơi thú vị, lá bàng còn dùng để gói xôi, cành để làm chất đốt, quả bàng
ăn chan chát, bùi bùi, thơm thơm. Cây bàng là người bạn gắn bó với những
kỷ niệm vui buồn của tuổi học trò của chúng em...”
Việc lựa chọn, sử dụng phù hợp các từ ngữ trong mỗi câu văn là một
kỹ năng khó đòi hỏi học sinh ph ải th ực hành viết nhiều mới có đượ c.
Có thể do tâm lý phải viết nhi ều, h ọc sinh s ẽ ng ại vi ết, ng ại làm bài.
16
Do đó, giáo viên thườ ng xuyên động viên, khuyến khích giúp các em
dần dần say mê với việc học làm văn. Đặc biệt giáo viên cần giúp các
em bố cục bài viết rõ 3 phần. Hết mỗi ph ần m ở bài, thân bài, kết bài
phải xuống dòng. Trong ph ần thân bài có thể có nhiều đoạn văn, mỗi
đoạn văn nêu một nội dung nh ất định. Ví dụ có đoạn tả bao quát, tả
từng bộ phận của cây, hoặc tả cây theo từng mùa, từng thời kì phát
triển của cây…Giáo viên lưu ý học sinh cần th ể hi ện rõ nội dung của
từng phần và khi viết hết m ỗi đoạn cần phải xuống dòng.
4. Nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh .
Cũng như tất cả các môn học, môn Tiếng việt góp phần giáo dục
thẩm mỹ
cho học sinh. Thông qua các bài tập đọc, học thuộc lòng, giáo viên giúp học
sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ văn. Thấy được vẻ đẹp và
khả năng kì diệu của Tiếng việt. Đó là cái đẹp của thiên nhiên, của con
người, của cuộc sống hàng ngày, là cái hay trong quan hệ đối xử, là lời ăn
tiếng nói, là sự hoàn thiện về phẩm chất của mỗi con người.
Cảm thụ được vẻ đẹp của văn, thơ sẽ giúp học sinh viết văn có cảm
xúc, biết học tập cách viết văn hay. Vì vậy, trong các tiết học tập đọc, giáo
viên phải giúp học sinh cảm nhận được nội dung ý nghĩa và nghệ thuật của
mỗi bài thơ, bài văn nâng cao kỹ năng đọc diễn cảm, tìm hiểu bài, biết hoá
thân vào nội dung các câu chuyện, và nắm được những gì gửi gắm trong
bài thơ, bài văn đó. Từ đó, tâm hồn các em được “chất dồn” những lời hay,
ý đẹp, những cảm xúc và những hiểu biết trẻ thơ góp phần làm cho các bài
văn bay bổng hơn, dễ đi vào lòng người hơn.
5. Phát huy tính tích cực của các đối tượng học sinh trong giờ học
Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý tới
tất cả mọi đối tượng học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần phải phân định
17
theo nhiều mức độ (Yếu, TB, Khá. Giỏi) để có cách tổ chức dạy, học phù
hợp để phát huy, khích lệ tất cả mọi học sinh trong học tập.
Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh thì chủ công là người
thầy. Mỗi giờ dạy, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở,
định hướng để mọi đối tượng học sinh trong lớp đều có thể trả lời được,
đáp ứng được yêu cầu của giáo viên và phải động viên kịp thời khi học sinh
có tiến bộ, đặc biệt là học sinh trung bình và học sinh yếu. Giáo viên cũng
cần chú ý hơn khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh giỏi, nên khuyến
khích các em mạnh dạn, tự nhiên hơn trong cách viết. Muốn vậy, giáo viên
nên tổ chức và giành nhiều thời gian hơn cho học sinh (vào buổi học thứ 2
trong ngày) được thực hành viết đoạn văn nhiều lần, sau mỗi lần, giáo viên
giúp đỡ các em chỉnh sửa để có được những đoạn văn, bài văn hay và hoàn
chỉnh. Với những em viết văn còn nhiều lỗi chính tả thì đây cũng là thời
gian cho phép các em chú ý để rèn luyện cả về chính tả. Tuỳ theo từng
học sinh giáo viên có thể tự đánh giá và
phân chia các đối tượng để tổ chức luyện tập viết văn cho phù hợp. Chẳng
hạn:
Học sinh khá giỏi: Yêu cầu các em viết nâng cao, viết theo nhiều
phong cách khác nhau, hoàn chỉnh một bài văn miệng để các bạn khác học
tập.
Học sinh trung bình: Rèn viết đúng, dùng từ đặt câu phù hợp, có thể
thêm một số yêu cầu hơi nâng cao một chút.
Học sinh yếu: Luyện viết đúng bố cục, biết dùng từ đặt câu, sử
dụng dấu câu, tập diễn đạt, dùng từ phù hợp, khắc phục các lỗi chính tả,
ngữ pháp..v.v...
Ngoài thời gian học trên lớp, giáo viên hướng dẫn thêm học sinh cách
học tập làm văn ở nhà đặc biệt là động viên các em kiên trì, chịu khó viết đi
18
viết lại một đoạn văn, một bài văn nếu thấy chưa ưng ý. Cần cho các em
làm nháp bất kỳ đoạn văn ngắn hay dài, có thể viết nháp từng đoạn hoặc
viết nháp cả bài, chỉnh sửa trước khi viết bài chính thức.
Tóm lại, trong giờ Tập làm văn, nếu giáo viên biết tổ chức các hoạt
động phát huy được tính tích cực của học sinh (theo từng đối tượng) thì tất
cả mọi đối tượng học sinh sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn để bày tỏ suy nghĩ
của mình thông qua bài viết. Cũng như tự học sinh có thể rút ra những kiến
thức cần ghi nhớ để vận dụng vào thực hành nói – viết văn ngày một tốt
hơn.
6. Thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh
Chấm chữa bài là một công việc thường xuyên của giáo viên, công
việc
này rất cần thiết đối với phân môn tập làm văn. Vì nếu chấm chữa bài
thường xuyên, giáo viên sẽ nắm được lực học của từng em, từng đối
tượng về cách viết văn. Từ đó, giáo viên nắm được những phần mà học
sinh đã làm được, cũng như phát hiện và nắm được các lỗi sai mà học sinh
thường mắc phải trong bài văn như lỗi chính tả, lỗi về cách dùng từ, ngữ
pháp, về cách diễn đạt câu, đoạn và cấu tạo của bài văn. Để từ đó, giáo
viên có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng hướng dẫn các em biết cách viết
ngày càng hay hơn.
Theo tôi, để làm tốt phần này, giáo viên cần phải chú ý để dạy tốt tiết
Tập làm văn trả bài viết. Ví dụ khi dạy tiết học trả bài văn miêu tả cây cối
( tuần 27). Sau khi chấm bài xong, giáo viên cần nêu nhận xét chung về bài
làm của học sinh. Nhận xét những ưu điểm mà học sinh đã làm được và
những tồn tại học sinh còn mắc phải. Sau đó, giáo viên phát bài cho học
sinh, yêu cầu các em đọc lại lời phê của giáo viên và cho học sinh đổi bài
trong nhóm đôi để tìm ra những lỗi sai ở trong bài như sai về chính tả, cách
19
dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật chưa phù hợp..... Sau
đó, học sinh tự nêu lỗi sai trong bài và tự tìm cách để sửa lỗi. Cuối cùng,
giáo viên hướng dẫn cả lớp cùng nêu cách sửa lỗi chung. ( Theo mẫu dưới
đây)
Loại lỗi
Các lỗi cụ thể
Chính tả ……………………….
Dùng từ ……………………….
………………………
Viết câu
Sửa lại từng loại
………………………….
………………………….
…………………………..
Bước tiếp theo, giáo viên đọc mẫu những đoạn văn , bài văn hay cho
học sinh nghe và nêu nhận xét đoạn văn hay chỗ nào? Vì sao?
Trên cơ sở đó, học sinh có thể học tập cách viết của bạn để viết lại
một đoạn văn khác hay hơn. (như viết lại phần thân bài, mở bài theo cách
gián tiếp và kết bài theo cách mở rộng).
Theo tôi, tiết trả bài là rất quan trọng. Vì đây là dịp để mỗi học sinh có
điều kiện nhìn lại bài của mình một cách rõ hơn. Để từ đó, học sinh biết
được bài viết của mình còn phần nào chưa được để biết cách khắc phục
cũng như có cơ hội để học tập cách viết của bạn, để bài viết của mình
ngày càng hoàn thiện và tiến bộ hơn.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã tiến hành áp dụng trong dạy – học
Tập làm văn lớp 4 để góp phần giúp học sinh viết văn miêu tả cây cối tốt
hơn. Qua việc áp dụng, bước đầu đã đem lại kết quả khả thi về chất lư
ợng dạy của giáo viên và chất lượng học của học sinh.
C. KẾT LUẬN
20
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau khi điều tra thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân và tìm ra biện pháp,
tôi đã cùng với các đồng chí trong tổ kịp thời trao đổi kinh nghiệm, đổi mới
về phương pháp giảng dạy và định hướng cho học sinh cách học. Qua quá
trình vừa nghiên cứu đề tài, vừa áp dụng vào thực tế giảng dạy ở khối lớp
4, tôi thấy nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh là một yêu cầu cần
thiết, quan trọng song chúng ta không thể nôn nóng ngày một ngày hai mà
cần phải kiên trì, chịu khó để tìm ra cho mình một số kinh nghiệm dạy tập
làm văn như đã trình bày trên đây. ứng dụng các biện pháp đó vào nội dung
dạy văn miêu tả cây cối, bước đầu tôi đã thu được kết quả ở lớp 4 A như
sau:
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của học sinh với đề bài: “Em
hãy tả một loài cây đã từng gắn bó với em nhiều kỉ niệm” .
Kết quả làm bài thu được như sau :
Tổng
số HS
22
XẾP LOẠI
Khá
Trung bình
Giỏi
SL
5
%
22.7%
SL
9
%
40.9%
SL
8
%
36.4%
Yếu
SL
0
%
0%
Kết quả khảo sát cho thấy tuy chất lượng viết văn của học sinh chưa
phải là cao, nhưng sự chuyển biến của học sinh đã rõ. Cụ thể khi chấm
bài, tôi thấy bài viết của các em có bố cục rõ ràng, lời lẽ của câu văn chân
thực, từ ngữ các em sử dụng đã sắc nét, diễn đạt trôi chảy hơn, hình ảnh
sự vật miêu tả phong phú, sinh động; khi tả đã có sự sáng tạo, các em cũng
đã biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa để viết; bài viết đã có cảm
xúc gắn với tình cảm của các em. Điều đáng mừng ở đây là tất cả mọi học
sinh đều rất thích viết văn, thích sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa
để miêu tả.Các em học tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, thích được thể
21
hiện mình như đọc bài trước lớp cho cô giáo và các bạn nghe, các em
không còn ngại viết như trước nữa.
Như vậy, trong một thời gian không dài mà chất lượng học tập của
học sinh đã có chuyển biến rõ rệt. Điều đó chứng tỏ các biện pháp mà tôi
áp dụng phần nào đã giúp học sinh viết văn tốt hơn, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, đồng thời từ thực tiễn dạy học ở
trường tiểu học, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, nắm vững từng kiểu
bài để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp,
hiệu quả.
Cần tạo giờ học nhẹ nhàng, sôi nổi, thoải mái, gây hứng thú tự
nhiên, để học sinh nắm bài nhanh hơn, chắc hơn. Giáo viên nên khuyến
khích học sinh thi đua để viết những bài văn hay, sáng tạo với phong cách
của riêng mình.
Rèn cho mọi học sinh đều có thói quen viết bài văn có cấu tạo, bố
cục rõ ràng, kĩ năng quan sát tìm ý sắp xếp ý thành đoạn và liên kết các
đoạn thành bài văn, cũng như khi viết đoạn văn phải có câu mở đoạn và
câu kết đoạn.
Giáo viên cần kiên trì, chịu khó, tỉ mỉ trong việc hướng dẫn học sinh.
Luôn tạo ra hứng thú học tập cho học sinh, cung cấp vốn từ, vốn
sống, khơi dậy trí tưởng tượng ở học sinh. Cần khuyến khích học sinh say
mê đọc sách, nghiên cứu tài liệu, cập nhật thông tin cũng như tìm đọc
những bài văn, bài thơ hay để khơi gợi khả năng cảm thụ của các em.
Chú trọng phương pháp dạy học cá nhân, nhằm phát hiện những sai
sót của học sinh để đưa ra những biện pháp giúp học sinh sửa chữa kịp
22
thời, đồng thời kích thích và động viên các thành tích của học sinh đã đạt đ
ược.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng đạt được của
học sinh thông qua việc chấm, chữa bài để phát hiện lỗi sai. Từ đó có biện
pháp hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh kịp thời.
Cần tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo điều kiện cho
học
sinh tham gia các buổi ngoại khoá tham quan, để các em có điều kiện tiếp
xúc, quan sát các đối tượng miêu tả sát với thực tế nhiều hơn.
Tóm lại: Để dạy học sinh lớp 4 viết bài Tập làm văn kiểu bài miêu
tả cây cối đạt kết quả tốt thì học sinh phải thật sự làm chủ quá trình hình
thành kỹ năng sản sinh ngôn bản trên hình thức nói và viết.Thông qua các
tiết học, học sinh được rèn các kỹ năng quan sát tìm ý, lập dàn ý, dùng từ,
đặt câu, liên kết câu thành đoạn, liên kết đoạn thành bài văn hoàn chỉnh.
Mỗi bài tập làm văn là sản phẩm tinh thần của từng cá nhân học sinh trước
một đề bài cụ thể. Sản phẩm này thực sự ghi lại những dấu ấn riêng của
từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, bộc lộ cảm xúc... thông qua óc quan
sát và sự nhạy cảm của tâm hồn.
Muốn vậy, đối với mỗi người giáo viên luôn phải trau dồi kiến thức
cho mình để đủ tự tin, am hiểu nội dung kiến thức, kĩ năng cần truyền thụ
của từng tiết dạy. Giáo viên cần nắm vững mục đích, yêu cầu của bài học
cũng như những kiến thức và kĩ năng học sinh cần đạt được khi làm bài
văn miêu tả cây cối để phối hợp nhẹ nhàng, linh hoạt, khéo léo, đúng lúc,
đúng chỗ các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, sao cho lôi cuốn
được tất cả học sinh trong lớp tham gia học tập với thái độ tự giác, tích
cực, hào hứng, đạt được mục đích đặt ra. Như vậy, học sinh có cơ hội
23
được thể hiện mình, học sinh mới mạnh dạn để có nhiều bài nói và bài
viết hay hơn.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm mà tôi đã rút ra trong quá trình
công tác, học tập và nghiên cứu. Với khả năng và thời gian nghiên cứu có
hạn, bản thân không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được
sự góp ý, bổ sung của các đồng nghiệp và bạn đọc để sáng kiến kinh
nghiệm trên của tôi có giá trị vào thực tế giảng dạy, nâng cao chất lượng
dạy văn miêu tả ở trường tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Mỹ Lộc, ngày 15 tháng 4 năm 2011
Người thực hiện
Đỗ Thị Hằng
24