Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một vài biện pháp nâng cao chất lượng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.54 KB, 16 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta thường dùng ngơn ngữ lời nói, chữ
viết để trao đổi, thông tin, truyền đạt, nhận xét...Khả năng trình bày ngơn ngữ
hay , dở cịn phụ thuộc vào kiến thức và kĩ năng của mỗi người. Tuy nhiên, nếu
có sự trau chuốt, rèn luyện thì việc sử dụng ngơn ngữ, nói hay viết vào giao tiếp
sẽ có hiệu quả hơn. Bởi thế, ngay từ bậc Tiểu học, trong môn Tiếng Việt, phân
môn Tập làm rất được chú trọng ( chiếm số tiết nhiều – 2 tiết/ tuần) nhằm rèn
luyện cho học sinh biết diễn đạt nội dung một đề tài được đưa ra qua cách trình
bày, diễn đạt, dùng từ đặt câu.
Dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng
là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Phân môn Tập làm văn lớp 5
là sự tiếp nối và nâng cao, mở rộng so với các lớp dưới. Chương trình thay sách
tiểu học phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong mơn Tiếng Việt. Học
sinh tiểu học ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác
nhau, có nội dung gần gũi trong cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với
cộng đồng. Đó là một ưu điểm không ai phủ nhận. Là giáo viên, nhất là giáo
viên dạy lớp 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào
giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng làm bài Tập làm văn, nhất là văn miêu tả.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận ra số lượng học sinh học
giỏi mơn văn và u thích học mơn văn cịn rất hạn chế. Tại sao học sinh yêu
thích học và giỏi mơn Tập làm văn ít ỏi như vậy, trong khi Tiếng Việt là tiếng
mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa trịn một tuổi đã biết nói, năm sáu tuổi đã
biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta đã tự hào tiếng Việt ta phong phú,
giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế
làm buồn lịng những thầy cơ giáo chúng tơi vì học sinh giỏi phân mơn Tập làm
văn còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã
biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về
từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học
Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 5? Đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi trên là một quá trình và cũng là mục đích cần hướng đến của các kỹ sư tâm


hồn.
Để làm tốt vai trị người tổ chức và hướng dẫn, tơi đã tìm tịi, phân tích
thực trạng và lựa chọn một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả
Tập làm văn miêu tả.
Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài : “ Một vài biện pháp nâng
cao chất lượng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5. Trước hết là giúp nâng
cao chất lượng Tập làm văn cho lớp tôi phụ trách. Sau đó, mục tiêu quan trọng
hơn là góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đối với giáo viên :
Giúp giáo viên nghiên cứu kĩ dạng văn miêu tả . Từ đó tìm ra biện pháp,
kĩ năng giúp giáo viên dạy tốt hơn các bài tập làm văn miêu tả.
1


- Đối với học sinh :
Biết cách làm một bài văn miêu tả, nắm được cấu tạo 3 phần ( mở bài, thân
bài, kết bài) của một bài văn tả cảnh.
Thấy được ưu điểm, khuyết điểm và cách chữa lỗi đoạn văn, bài văn của
mình.
Qua đó tăng cường rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói , viết cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Trần Phú.
- Giáo viên trường Tiểu học trần Phú.
- Sách giáo khoa, chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5.
- Các phương pháp dạy học môn Tiếng Việt 5
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
- Phương pháp quan sát.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
- Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,...
để viết nên một bài Tập làm văn.
- Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục
chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn
bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả
(tả cảnh, tả người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài
tập luyện từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất
rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người. Qua các tiết học này học sinh được cung
cấp thêm vốn từ, vốn hiểu biết.
- Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khơ cứng,
góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới
mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
- Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trị phải soạn giảng và
học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững
chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
- Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu, yêu cầu cần đạt về kiến
thức, kĩ năng của chương trình giáo dục cấp Tiểu học theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng của từng môn học ( Ban hành kèm theo quyết định của Bộ GD & ĐT) và
phù hợp với trình độ của từng học sinh trong lớp .

2



- Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lí sẽ đem lại
hiệu quả cao cho phân mơn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt lớp 5.
2.2. Thực trạng vấn đề.
a)Về giáo viên
Qua dự giờ thăm lớp, nghiên cứu và trao đổi với đồng nghiệp tôi thấy: - Hầu hết giáo viên đều trăn trở với môn Tập làm văn.
- Một số giáo viên chưa linh hoạt khi áp dụng các hình thức tổ chức dạy học vào tình hình cụ thể của lớp, vào từng đối tượng học sinh lớp mình.
- Giáo viên chấm, chữa bài cho học sinh còn qua loa, sơ sài.
- Giáo viên chưa thực hiện đúng các bước trả bài cho học sinh.
- Cảm xúc của giáo viên cịn khơ khan, nghèo nàn nên chưa khơi gợi được
hứng thú học môn Tập làm văn cho các em.
b) Về học sinh
- Qua nghiên cứu thực tiễn tôi nhận ra các hạn chế của học sinh là:
+ Học sinh chưa có hứng thú khi học mơn tập làm văn, lười suy nghĩ, lười
quan sát, lười ghi chép.
+ Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
+ Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng.
+Nhiều em chưa biết dừng lại để miêu tả kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
+ Vốn từ ngữ của các em cịn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật còn
hời hợt, sắp xếp ý lộn xộn, diễn đạt lủng củng, tối ý.
+ Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
+ Bài viết của học sinh cịn mắc nhiều lỗi chính tả.
+ Bài văn của học sinh thường vay mượn, bắt chước í của bạn khác hoặc
sao chép bài văn mẫu.
Từ thực trạng đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một
thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân
mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều
thầy cô giáo dạy lớp 5.
Qua khảo sát đầu năm thực tế môn tập làm văn, tôi thu được kết quả như
sau :

Thời điểm
Khảo sát đầu
năm học
2017-2018

Số
HS
44

Điểm
9-10

Điểm 7-8

5 11,3% 12

Điểm 5 - 6

27 % 20

45,8 %

Điểm 4 -3
7

15,9%

2.3. Các giải pháp
Xuất phát từ thực trạng trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một
giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra bảy giải pháp sau đây:

2.3.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình phân mơn Tập
làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm
hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn,
3


góp phần cùng với các mơn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi
dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài
văn miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung
chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền
thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác
định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài mới
với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo.
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu văn
để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận
mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần
chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát tồn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 5 trình tự này được
vận dụng khi miêu tả lồi vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm
nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ
vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hồnh phi treo chính giữa.”
Ví dụ 2:

Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy
hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ
Lạng).
b. Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau)
thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu
tả cảnh hay tả cây cối,...
Ví dụ 1:
“...Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe.
Những em bé Hmơng, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc
sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hồng hơn, áp phiên của phiên chợ thị trấn,
người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa- Tiếng
Việt 4).
Ví dụ 2:
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương
thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả
gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa,
từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ
vậy.”

4


c. Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ 1:

“ Bà tơi ngồi cạnh tơi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai,
xỗ xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay,
bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chng. Nó khắc sâu vào trí nhớ
tơi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi
bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi
- Tiếng Việt 5- Tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt. Mái
tóc “dày kì lạ”.
Ví dụ 2:
“Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt,
mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu từng
chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì
lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
Ngồi các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...)
để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3:
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưarơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
- Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận
mưa đầu mùa.
- Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót
của chào mào.
2. 3.3. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu
hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết

thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại, yêu cầu về nội dung, yêu cầu
về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay
trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết:
5


Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm
từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công
viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...Việc xác định
đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý
cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
2.3.4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung
và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em
nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng
miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc
của mình.
2.3.4.1 Kiểu bài tả cảnh

Cần xác định các yêu cầu sau:
a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn
trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng
vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều
cơ bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn
bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng
phần để quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ
trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ
thuộc đặc điểm của cảnh.
c. Chọn đặc điểm tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc
điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp
phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo
trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh
như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh
Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn tồn thống nhất, đất nước thốt
khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên:
“Bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi.”
Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh khơng có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức
sống.
6


e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:

Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh
hoặc nhân hố để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang
đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ :
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm
Đức (Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây
cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.”
Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà
lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối,
đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã
sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi
viết:
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi
vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung
tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
2.3.4.2 Kiểu bài tả người
- Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi
người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở
những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng
dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn
gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Ví dụ:
Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu
tả người thợ rèn đang làm việc:
“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát
búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.”
Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh

người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến
thỏi thép thành một lưỡi rựa.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học
sinh xác định các yêu cầu sau:
a. Chú ý tả ngoại hình, hoạt động:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát
triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện
theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi miêu tả cần tập trung
vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
b. Quan sát, trò chuyện trực tiếp .
Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý
kiến với người đó. Quan sát khn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách
nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi bật... (chọn và quan sát
người định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách
7


quan sát gián tiếp là thơng qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về
người định tả để bổ sung những thông tin cần thiết.
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội
dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình,
tính nết đan xen với tả hoạt động.
d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình:
Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về
người đó, khơng cần phải tơ điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ,
vẽ nên một hình ảnh tồn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu
sự chân thật làm người đọc cảm thấy khó chịu. Thầy cơ giáo cần lưu ý học sinh
rằng, trong mỗi con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao
giờ cũng nhiều hơn ( đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn….) Nếu

học sinh phát hiện, cảm nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho
bài văn miêu tả của các em sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ
chấp nhận hơn.
Ví dụ:
Trong bài văn tả “Cơ Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 156) nhà văn
Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã
gặp thì khơng thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
“Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc,
chỉ cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì
cần cơm và lao động để sống .”
“Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho
cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...”
2.3.5 Làm giàu vốn từ cho học sinh
a. Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân mơn Tiếng Việt:
Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài
học ở các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu . Các phân
mơn nay đều có sự hỗ trợ, bổ sung tích cực cho nhau. Rõ ràng để học tốt môn
Tập làm văn giáo viên cũng cần phải giúp học sinh học tốt các phân mơn trong
mơn Tiếng Việt.
- Phân mơn Tập đọc: Ngồi việc u cầu đọc đúng, đọc trơi chảy thì mơn
Tập đọc lớp 5 còn yêu cầu bước đầu biết đọc diễn cảm sau khi tìm hiểu bài giúp
các em thấy được cái hay cái đẹp của đất nước, quê hương, con người ...qua
cách miêu tả, qua cách sử dụng biện pháp nghệ thuật vào miêu tả làm giàu thêm
ngữ liệu, vốn hiểu biết cho các em.
- Phân môn Luyện từ và câu: là mơn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ
nhiều nhất qua các bài học, giúp các em hiểu nghĩa của từ, hiểu thế nào là từ
đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, ...từ đó biết cách sử dụng vào viết văn,
vào giao tiếp.
Đặc biệt ở chính phân mơn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh
làm giàu vốn từ theo các đề tài nhỏ như:


8


Ví dụ 1:
Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dịng sơng (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xơn xao, ào
ào...)
Ví dụ 2:
Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dịng sơng: dịng sơng như dải
lụa, dịng sơng như con trăn khổng lồ, dịng sơng như người mẹ hiền ơm ấp đồng
lúa chín vàng...
- Phân mơn Chính tả : Không đi vào khai thác nội dung nhiều hay luyện
đọc nhưng rèn cho các em kĩ năng viết đúng, viết đẹp, viết nhanh.
- Phân môn Kể chuyện : Rèn cho học sinh kĩ năng nhớ, kĩ năng nói, kĩ năng
diễn đạt, kĩ năng kể, giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn.
b. Tạo môi trường cho học sinh được nói, được giao tiếp
Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một
cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh
giá được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về
dùng từ, viết câu, làm văn...qua giao tiếp, qua vấn đáp, ...
b1. Tổ chức tương tác giữa trò với trị
Trong giờ Tập làm văn tơi đã sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học từ
làm việc cá nhân, thảo luận cặp, đặc biệt là thảo luận nhóm để các em được
tương tác với nhau nhiều hơn.
Ví dụ : Bài 1 / trang 14 SGK Tiếng Việt 5 tập 1.
Đọc bài văn Buổi sớm trên cánh đồng (trang 14 SGK Tiếng Việt 5 tập 1)
và nêu nhận xét :
a) Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ?
b) Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào?
c) Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát của tác giả ?

Sau khi học sinh thảo luận thì đại diện nhóm sẽ trình bày, nhóm khác sẽ
nhận xét, bổ sung, sửa lỗi cho nhóm bạn (nếu sai ). Còn đối với dạng bài đặt
câu, viết đoạn văn hay làm một bài văn hồn chỉnh thì tôi luôn mời nhiều em
đọc câu, đoạn, bài cho cả lớp nghe để các bạn nhận xét theo các tiêu chí cụ thể.
-Ví dụ : Em hãy tả người bạn thân của em ở trường.
Ở tiết trả bài tôi luôn cho nhiều học sinh đọc bài văn của mình trước lớp để
cả lớp lắng nghe và nhận xét theo các tiêu chí sau :
* Bạn đã viết đúng thể loại văn tả người chưa ?
* Bố cục có dủ 3 phần khơng?
* Miêu tả có đúng trình tự khơng?
* Các dùng từ, đặt câu thế nào?
* Bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong bài?...
b2/. Tổ chức tương tác giữa thầy với trò:
Cách làm này được thể hiện trong quá trình giảng dạy, giáo viên dùng hệ
thống câu hỏi để học sinh trả lời, tương tác khi nhận xét, đánh giá, phỏng vấn
học sinh.
Ví dụ : Với bài văn tả cảnh một buổi sáng trên cánh đồng , giáo viên tương
tác với học sinh bằng hệ thống câu hỏi sau:
- Cánh đồng em tả ở đâu?
9


- Em quan sát cánh đồng vào thời gian nào?
- Cánh đồng em quan sát trồng lúa hay trồng hoa màu khác ( ngô, ...)? Cây
lúa đang phát triển ở giai đoạn nào?
- Khi bình minh lên cánh đồng đẹp như thế nào?
- Khi mặt trời lên cao, cánh đồng như thế nào?
- Có người đang làm việc ngồi đồng khơng? Họ đang làm gì? Có chim
chóc khơng? Chúng đang làm gì?
- Cảm nghĩ của em về cảnh vật và cuộc sống nơi đồng quê?

2.3.6 Lập dàn ý và dàn ý chi tiết.
- Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn,
đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... địi hỏi học
sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn
bản.
- Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu sở đã quan
sát. Mục đích của lập dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của
từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để
tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
- Hướng dẫn học sinh làm dàn ý chung.
- Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước
quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài
vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những
yếu tố giúp học sinh thành cơng trong q trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi
đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài.
2.3.7 Nắm được cấu tạo, hình thức của một bài văn miêu tả.
- Về cấu tạo: có 3 phần
+ Mở bài : HS phải giới thiệu được sự vật cần miêu tả .
Để học học sinh làm bài tốt giáo viên cần giúp học sinh hiểu thế nào là mở
bài trực tiếp, gián tiếp, ưu, nhược điểm của từng loại. Tôi ln khuyến khích
học sinh mở bài gián tiếp bằng cách vận dụng các câu thơ, lời bài hát, hay câu
nói nổi tiếng để mở bài thì sẽ tự nhiên hay và ấn tượng hơn.
Ví dụ :
Đề bài :Em hãy tả người mẹ của em.
Tơi hướng dẫn, từ đó đưa ra một mở bài như sau:
Riêng mặt trời chỉ có một mà thơi
Và mẹ em chỉ có một trên đời
Mỗi khi lắng nghe câu hát ấy vang bên tai, trong tôi lại trào dâng một cảm
xúc thật khó tả. Tiếng " mẹ" đầy yêu thương và dạt dào tình cảm. Mẹ tôi là

người mà tôi yêu quý nhất.
+ Thân bài :
*) Đối với văn tả cảnh thì học sinh cân tả bao quát đến từng bộ phận của
cảnh theo một trình tự hợp lí.
*) Đối với văn tả người : Học sinh cần tả được ngoại hình ( chú đến
những đặc điểm nổi bật ) và tả được tính tình của người cần tả .
10


+ Kết bài : Nêu nhận xét, cảm nghĩ của mình về sự vật vừa tả.( Kết bài mở
rộng hoặc kết bài khơng mở rộng )
- Về hình thức trình bày : 3 phần của bài văn được nhận biết qua các đoạn
văn. Dấu hiệu để nhận biết đoạn văn là phải viết lùi vào một ô và viết hoa đầu
câu.
*) Mở bài : là đoạn đầu tiên, vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở đầu bài văn.
*)Đoạn cuối là kết bài.
*)Các đoạn ở giữa là thân bài ( Thân bài HS có thể trình bày dưới hình thức
một đoạn hay hai, ba đoạn).
2. 3.8 Giáo viên chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả
người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có
chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có
cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt, về trình tự miêt tả, về các dùng từ của học
sinh, về lỗi chính tả, về thểloại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra
sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS.
Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của
học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa
bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…..

b. Trả bài viết:
- Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5,
theo sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính:
1. Nghe cơ giáo nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được cô giáo khen để học tập và rút kinh
nghiệm (TV5- T1- T53).
- Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của
học sinh (đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một
cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
+ Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
- Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài ( ghi đề, học
sinh đọc đề bài, xác định 3 yêu cầu : thể loại, nội dung và trọng tâm ).
- Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung
của kiểu bài tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học
sinh nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn
văn đó.
+ Hoạt động 2: Chữa bài:
- Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong
quá trình chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính
tả … Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định
hướng như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ
11


năng diễn đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán
trong HS vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
Riêng tơi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho
lớp, mỗi tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một

cách bền vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
* Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :
Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và
thực trạng viết câu.
Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi
lời khen, chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ,
lỗi viết câu, lỗi chính tả…)
Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
+ Hoạt động 3:
Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả
lớp nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
2.3.9 Khơi gợi sự hứng thú, yêu thích học mơn Tập làm văn cho học
sinh.
- Để có sự hứng thú thì trước hết giáo viên phải giúp các em phải hiểu và
làm đúng yêu cầu các bài tập làm văn trong chương trình học trên lớp. Sau đó
giáo viên giúp các em làm hay các bài văn đó theo cách riêng của các em.
Một bài văn hay thì ngồi việc đáp ứng được các tiêu chí của đề bài thì bài
viết đó phải có sự sáng tạo, có cái riêng, phải biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật ( so sánh, nhân hóa)... khi viết bài. Để thực hiện có hiệu quả mục đích trên
tơi đã đưa ra các cách sau.
2.3.9.1 Phát động phong trào đọc sách trong lớp.
Tôi gây dựng tủ sách, gây quỹ mua sách, cung cấp, hướng dẫn học sinh
đọc thêm sách, đặc biệt là các loại sách liên quan đến lứa tuổi các em như : Dế
Mèn phiêu lưu kí của Tơ Hồi, Búp sen xanh của Sơn Tùng, Góc sân và khoảng
trời của Trần Đăng Khoa, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Kính vạn hoa của
Nhật Ánh, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,...hay các tác phẩm văn học nước
ngồi như: Ngơi nhà nhỏ trên thảo nguyên, Cuộc phiêu lưu của Alice ở xứ sở
thần tiên,... Không chỉ đọc cá nhân mà tôi còn tổ chức cho học sinh đọc trên lớp

trong các buổi sinh hoạt đầu giờ, hay các buổi hoạt động ngồi giờ, đọc xong tơi
hướng dẫn các em tìm hiểu các hay cái đẹp của tác phẩm đó bằng các câu hỏi từ
đó giúp các em nhận thấy ích lợi của việc đọc sách. Chỉ có đọc sách và đọc thật
nhiều sách mới giúp các em thêm yêu cái hay, cái đẹp, sách cung cấp cho các
em vốn từ phong phú, ngoài ra qua đọc sách các em cũng được rèn kĩ năng đọc,
rèn kĩ năng cảm thụ văn học từ đó giúp các em vận dụng làm văn tốt hơn.
Ngồi đọc các sách về văn học tơi cịn khuyến khích các em tìm đọc những
bài văn hay trong các tài liệu tham khảo như : Những bài văn mẫu lớp 5,...

12


2.3.9.2 Vận dụng linh hoạt thời gian học trong các buổi học.
- Vì việc quan sát thực tế và nghi chép lại những gì quan sát được với học
sinh tiểu học nên khi thực tế xảy ra mà có liên quan đến nội dung bài sắp học là
tôi áp dụng ngay.
Ví dụ : Khi dạy bài Luyện tập tả cảnh (Tuần 3). Nếu dạy theo tiết dạy theo
buổi học là tiết 3 nhưng vừa mới vào tiết 1 thì có những dấu hiệu báo hiệu cơn
mưa rào thì tơi đã :
+ Chuyển tiết 3 sang tiết 1 .
+ Hướng dẫn học sinh quan sát rồi ghi nhanh những gì đã quan sát được
vào nháp.
+ Gọi vài em đọc trước lớp những gì bạn đã ghi chép được qua quan sát, để
em khác nhận xét.
Từ những quan sát vừa được ghi lại, được nghe bạn đọc, bạn nhận xét, kết
hợp với việc tìm hiểu bài 1 và hiểu biết vốn có thì các em sẽ dễ dàng làm được
bài tập 2 của tiết Tập làm văn này.
2.3.9.3 Khuyến khích học sinh trả lời bằng miệng hoặc viết nhanh theo
yêu cầu của giáo viên.
Ví dụ.

- Đặt câu với từ một từ nào đó. Ví dụ từ “ khúc khích ”
- Đặt một câu tả màu xanh lá của cây bàng ngoài sân trường .
- Đặt một câu tả nụ cười của một bạn trong lớp.
- Tìm từ đồng nghĩa với từ “ đỏ” .
- Viết những câu văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật để tả đôi mắt
người mẹ.
- ...
2.4. Hiệu quả
Qua những giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến giữa học kì II
năm học 2017 – 2018 tôi thấy hầu hết các em đã nắm được kiến thức và kĩ năng
cần thiết làm bài Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích mơn học, khơng sợ sệt khi
đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã có tiến
bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết
câu văn trơi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng
khá tốt các biện pháp nghệ thuật trong các bài tập làm văn của mình. Nhiều bài
văn có chất lượng cao, tình trạng học sinh lạc đề, sai lỗi chính tả, dùng từ đặt
câu ... đã giảm rõ rệt. Các em đều rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn. Đây là
kết quả của một q trình phấn đấu của cơ giáo và học sinh lớp 5A5 trường Tiểu
học Trần Phú.

13


Chất lượng Tập làm văn qua các bài kiểm tra giữa kì và cuối kì
Thời điểm
Khảo sát đầu
năm
2017-2018
Giữa học kì I


Số
HS

Điểm 9-10

Điểm 7-8

44

5

11,3%

44
44

15
21

34,3 % 21
47,7% 18

Giữa học kì II 44

25

57,2%

Cuối học kì I


12

16

Điểm
4 -3

Điểm 5 - 6

27 %

20 45,8 %

7

47,7%

8

40,9%

5

18 %
11,4%

0
0

36 %


3

6,8%

0

15,9%

Qua bảng tổng hợp ở trên tôi thấy chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên
rõ rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của
lớp .
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sau hơn một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy
nhỏ nhoi nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn
miêu tả sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian,
công sức nghiên cứu soạn giảng, có lịng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết
với nghề nghiệp.
Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho
nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em. Chúng
ta phải tôn trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn.
Biết đâu sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...
Có thể nói, bước đầu thành cơng trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho
học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này
tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở cuối học kì II và các năm
sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Rất mong

nhận được sự đồng tình của q thầy cơ và các bạn đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị
Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học (nhất là văn miêu tả ở lớp
5 ) tơi xin có mấy đề nghị sau :
a. Đối với nhà trường :
- Tổ chức cho học sinh được đi tham quan, dã ngoại, tham gia nhiều hơn
các hoạt động ngoại khóa ( có định hướng phù hợp với từng chủ điểm hay nội
dung bài học) để các em được chứng kiến, được quan sát, được trải nghiệm giúp
các em nhớ lâu, tích lũy thêm nhiều kiến thức và kĩ năng sẽ làm vốn từ của các
em phong phú hơn.
14


- Tổ chức được các buổi nói chuyện của các nhà văn, nhà thơ, nhà báo phù
hợp với lứa tuổi để các em giao lưu, để truyền cảm hứng cho các em.
-Tổ chức sân chơi môn Tiếng Việt dành cho học sinh khối 5 để tạo cơ hội
cho các em được vận dụng vốn kiến thức và kĩ năng , gây hứng thú, khơi gợi
niềm u thích học mơn Tiếng Việt đồng, qua đó góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả giảng dạy phân mơn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói
riêng.
b. Đối với đồng nghiệp.
- Các thầy, cô giáo cần tâm huyết với nghề dạy học đã chọn, phải yêu và
hiểu học sinh.
- Phải nắm vững về phương pháp, sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức
dạy - học cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn ( từng thể loại, từng dạng bài
cụ thể ) .
- Biết tổ chức, hướng dẫn, khích lệ, động viên, khơi gợi sự sáng tạo ở các
để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói lên những suy nghĩ
hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ ngữ và giữ gìn sự
trong sáng của Tiếng Việt .

- Ln luôn học hỏi, trau dồi, bổ sung thêm kiến thức, kĩ năng, kinh
nghiệm để dạy tốt.
Trên đây là một số giải pháp để giúp học sinh lớp 5 học tốt hơn môn Tập
làm văn miêu tả mà tôi đã áp dụng trong thời gian qua và đã mang lại hiệu quả
nhất định. Tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được sự góp ý của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến này hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 11 tháng 4 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép của người khác.
Người viết

Văn Thị Như Quỳnh

15


16



×