Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) các phương pháp dạy học phân môn học hát lớp 8 trường PTDT BT THCS xuân chinh, thường xuân, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.66 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN MÔN HỌC
HÁT LỚP 8, TRƯỜNG PTDTBT- THCS XUÂN CHINH
HUYỆN THƯỜNG XUÂN, THANH HÓA

Người thực hiện: Lương Thị Thu Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT-THCS Xn Chinh

SKKN thuộc mơn: Âm nhạc

THANH HĨA, NĂM 2019
1


MỤC LỤC

TT

Nội dung

Trang

1

1.Mở đầu


1

2

1.1. Lí do chọn đề tài

1

3

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

5

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

6

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm


2

7

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

8

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3

9

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

10

2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động dạy học

15

11

3. Kết luận và kiến nghị


16

12

3.1. Kết luận

16

13

3.2. Kiến nghị

17

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong điều kiện sống hiện nay, theo nhịp độ phát triển khoa học và công nghệ.
Các em được tiếp xúc với âm nhạc qua các phương tiện thông tin đại chúng nên
vốn kinh nghiệm về âm nhạc của các em khá phong phú.
Với lứa tuổi học sinh THCS nó mang nhiều màu sắc độc lập khác nhau các em
yêu thích nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Hoặc có em thích hát, em thích đàn,
em thích ca khúc, em lại thích nghe nhạc phim. Đặc biệt âm sắc giọng của các em
đã dần thay đổi và thay đổi rõ rệt ở cuối cấp.
Tầm cữ giọng của các em đã phát triển hơn ở cấp tiểu học nhưng không vượt
quá âm khu chuyển giọng. Các em có thể hát dễ dàng trong quãng 9 tì Si đến Đơ2.
Âm vực tuy khơng rộng nhưng âm vang, trong trẻo. Học sinh THCS các em có khả
năng nghe tốt, nhạy cảm nhận biết nhanh dễ dàng nắm được cao độ, trường độ, âm

hình tiết tấu, đường nét giai điệu và có khả năng phát triển năng khiếu nếu được
tiếp xúc âm nhạc thường xuyên có định hướng và có phương pháp. Mặt khác với
lứa tuổi của các em khá hiếu động, nơn nóng, mong muốn được cơng nhận kết quả.
Trong q trình học tập khơng chú ý tập trung quan sát.
Trong Nghị Quyết số: 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW
Đảng về việc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đã nêu rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức liên môn, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ
năng, phát triển năng lực”.
Hơn nữa trong thời kì đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế - chính trị văn hố và xã hội. Hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trong vấn đề giáo dục
con người phát triển toàn diện bao gồm 5 mặt: Đạo đức, trí dục, thẩm mĩ, thể dục
và lao động. Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường là vô cùng quan
trọng, bởi đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mĩ,
đạo đức lối sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh. Qua nhiều năm trực tiếp
giảng dạy môn âm nhạc trong nhà trường cho tôi thấy âm nhạc là một mơn được rất
nhiều học sinh u thích đặc biệt là phân môn học hát . Là giáo viên trực tiếp giảng
dạy môn âm nhạc ở trường học một yêu cầu được đặt ra cho bản thân tự rèn luyện
phấn đấu, đó là làm thế nào để dạy tốt quả là không đơn giản. Bởi vậy tôi luôn cố
gắng vươn lên để học tập nghiệp vụ, lý luận về chuyên môn thật giỏi. Gắn lý luận
3


với thực tiễn, bám sát đường lối chủ trương của Đảng nhà nước về đường lối văn
hoá văn nghệ của Đảng, nắm vững yêu cầu và sự đòi hỏi của ngành giáo dục đào
tạo trong giai đoạn hiện nay cũng như qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã chọn và
nghiên cứu với tên đề tài: “Các phương pháp dạy học phân môn học hát lớp 8,
Trường PTDTBT-THCS Xuân Chinh, huyện Thường Xn, tỉnh Thanh Hóa".
1.2. Mục đích nghiên cứu.

Xây dựng một trình độ văn hóa âm nhạc, đặc biệt về kĩ năng hát cho học sinh
nhất định. Góp phần hình thành phát triển tồn diện, hài hịa nhận cách con người
Việt Nam mới.
Giáo dục đạo đức, tình cảm trong sáng, lành mạnh, giáo dục thẩm mĩ, kích
thích tiềm năng nghệ thuật. Phát triển ngơn ngữ, thể chất, trí tuệ, trí tưởng tượng
sáng tạo, làm phong phú đời sống của trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Các phương pháp dạy học phân môn học hát ở trường
PTDT BT - THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 8A, trường PTDTBT – THCS Xuân Chinh.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 tới tháng 3 năm 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp trình bày tác phẩm, bài hát.
- Phương pháp hướng dẫn thực hành luyện tập.
- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp sử dụng phương tiện dạy học âm nhạc.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá trong âm nhạc.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong các trường năng khiếu âm nhạc là đạo tạo ra các ca sĩ, nhạc sĩ, chỉ huy
âm nhạc. Nhưng trong các trường học môn âm nhạc được coi là mơn học góp phần
giáo dục tồn diện học sinh về cả trí - thể - mĩ. Năm 1979 âm nhạc được đưa vào
nội dung giảng dạy từ lớp 1 đến lớp 8 và một loạt vấn đề được đề cập như” xây
dựng đội ngũ giáo viên, phương pháp giảng dạy, cơ sở vật chất, nhất là xây dựng
nội dung chương trình giảng dạy. Năm 1995 sách giáo khoa âm nhạc đã được sử
dụng rộng rãi trong toàn quốc từ lớp 1 đến lớp 8. Năm 2000 việc thay sách bắt đầu
từ lớp 1 đến lớp 6. Năm 2006 chương trình thay sách từ lớp 1 đến lớp 9 đã hồn thành.
Hiện nay mơn âm nhạc ở trường học được coi là môn học phát triển năng lực
và phát hiện năng khiếu cho các cấp học tiếp theo của nhà trường.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

4


2.2.1. Thuận lợi.
Xuân Chinh là một xã vùng đặc biệt khó khăn của huyện Thường Xn có tổng
diện tích tự nhiên 7.336,76ha, diện tích canh tác 7.049,35 ha. Phía đơng giáp xã Xn
Lộc; phía đơng bắc giáp xã Vạn Xn; phía nam giáp huyện Như Xuân; Phía tây giáp
xã Xuân Lẹ; Dân số xã Xuân Chinh có 611 hộ với 3004 khẩu chia làm 6 thơn.
Xã Xn Chinhh có nền giáo dục rất sớm, với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng
ủy - HĐND - UBND xã Xuân Chinh và sự nỗ lực trong lao động sản xuất cũng như
trong cơng tác chăm sóc giáo dục thanh thiếu niên những năm gần đây từng bước
được cũng cố vững và phát triển. Cộng với sự nhiệt tình của các thầy cơ giáo đã
góp phần thúc đẩy nền giáo dục của địa phương những năm gần đây được cũng cố
vững chắc, góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW2 khố VIII về Giáo dục
& Đào tạo; NQ số 29 của TW đổi mới căn bản toàn diện về GD&ĐT.
Cơ sở vật chất của các nhà trường ngày càng khang trang, tạo điều kiện cho
sự phát triển giáo dục của xã nhà. Những năm gần đây, các nhà trường luôn huy
động và giữ vững sỉ số học sinh theo kế hoạch. Trường Mầm non tuy cơ sở vật chất
chưa đầy đủ, nhưng nhà trường ln được duy chì ổn định, các trường Tiểu học,
THCS đã có học sinh giỏi năm sau ln cao hơn năm trước, số học sinh hồn thành
chương trình cuối cấp học đạt 99% đến 100%.
2.2.2. Khó khăn.
- Sự nhận thức về công tác giáo dục vẫn chưa được nhận thức một cách sâu
sắc trong mỗi người dân, cộng với đời sống kinh tế gia đình của một bộ phận
người dân cịn khó khăn nên chưa quan tâm tốt đến việc học tập của con em mình.
- Một số học sinh phải theo gia đình đi làm thuê theo mùa vụ, chỗ ở chưa thật
sự ổn định. Những học sinh bỏ học đã quen với nếp sinh hoạt tự do ở gia đình nên
việc huy động ra lớp và duy trì sỉ số vẫn gặp khơng ít khó khăn.
2.2.3. Chất lượng khảo sát trước khi thực hiện đề tài ở lớp 8A, trường
PTDTBT-THCS Xuân Chinh.

Qua điều tra thực trạng kết quả học sinh biết đọc tập đọc nhạc ở lớp 8A trường
PTDTBT-THCS Xuân Chinh trước khi thực hiện đề tài là chưa đạt kết quả cao, cụ
thể:
Bảng số liệu trước khi chưa áp dụng
Tên lớp
8A

Sĩ số
29

Cảm nhận âm
nhạc

Thích

Biết biểu diễn

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

14


48

9

31

14

48
5


Để điều tra một cách chính xác về mức độ u thích phân mơn học hát của học
sinh khối lớp 8A trường PTDTBT-THCS Xuân Chinh bên cạnh việc phát phiếu thăm
dị các em, tơi thường quan sát thái độ biểu hiện cử chỉ của các em trong các giờ lên
lớp. Nếu u thích mơn học các em sẽ chăm chú lắng nghe cô giảng và hứng thú học
hát. Sau một thời gian quan sát và căn cứ vào kết quả bài kiểm tra cho thấy:
Nhận xét: Kết quả trong quá trình khảo sát và điều tra thực tế về phân môn
học hát của học sinh khối lớp 8A trường PTDTBT-THCS Xuân Chinh cho thấy:
Các em chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số phần lớn các em phát âm cịn chưa
chuẩn, hơn nữa các em khơng thích thú với phân môn học hát, khả năng cảm thụ
âm nhạc chậm và không biết biểu diễn. Điều này đã làm tôi suy nghĩ cần phải có
giải pháp hữu hiệu để giảng dạy tạo cho học sinh sự thích thú khi học phân môn
học hát. Trước thực trạng trên tôi mạnh dạn đưa ra các phương pháp sau:
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề.
2.3.1. Phương pháp dạy phân môn học hát.
Phân môn học hát là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình
âm nhạc Trung hoc cơ sở, học hát rèn luyện một số kĩ năng mang tính phổ thơng về

ca hát được vận dụng vào các bài hát cụ thể trong chương trình.
Các kĩ năng hát cần rèn luyện cho học sinh gồm có
* Tư thế đúng khi đứng hát, ngồi hát.

6


Trong quá trình học hát trước hết phải luyện tư thế hát, hát tập thể có thể tiến
hành ở tư thế đứng hoặc ngồi.
- Khi đứng hát: người thẳng, đầu khơng nghiêng, khơng so vai, hai tay bng
thoải mái, tồn bộ thân thể dồn vào 2 chân đều nhau.
- Khi ngồi hát: đầu và thân người giống như khi đứng hát, lưng thẳng không
tựa vào ghế, không vắt chân nọ lên chân kia.
- Tập tư thế hát đúng giúp cho việc hô hấp thuận lợi mà hô hấp là một việc rất
quan trọng trong quá trình ca hát.
* Hơi thở.
Trong ca hát hơi thở là một trong
những vấn đề hết sức quan trọng, cách thở
đúng là biết cách hít vào một lượng hơi
vừa đủ để hát hết một câu hát (câu hát có
thể dài ngắn khác nhau). Khi tập hít hơi
vào khơng nên hít nhiều q, hơi sẽ bị
căng phải lên gân không điều tiết được
hơi. Giáo viên cần phải hướng dẫn học
sinh lấy hơi bằng mũi, khơng hít bằng
miệng. Lấy hơi bằng miệng cổ họng
chóng bị khơ, rát…
Khi hát các bài hát có nhịp độ chậm
vừa phải, cần phải hướng dẫn cho các em
lấy hơi chậm hít bằng mũi, nên đánh dấu

những chỗ lấy hơi trong bài hát để học
sinh có thể thực hiện đúng, biết cách lấy
hơi, lấy hơi hợp lý mới có thể hát ngân dài
ở cuối câu hát.
* Hát chính xác.
Trong ca hát việc hát chính xác có tầm quan trọng đặc biệt. Hát chính xác có
nghĩa là hát đúng giai điệu, tiết tấu của bản nhạc. Mức độ hát chính xác của từng
học sinh phụ thuộc vào khả năng nghe nhạc và khả năng của các cơ quan phát âm.
Nếu học sinh tập trung chú ý, phân biệt được rõ độ cao thấp, nhanh chậm của âm
thanh, ghi nhớ được giai điệu, tiết tấu của bản nhạc thì khi giáo viên hát mẫu các
em có thể nhắc lại chính xác, nếu học sinh phải hát cao hơn hoặc thấp hơn giọng
trung bình của bản thân thì có thể ảnh hưởng ngay tới việc hát chính xác. Một trong
những điều kiện để giúp cho học sinh phát triển kĩ năng hát chính xác là việc lựa
7


chọn giọng bài hát cho phù hợp với âm vực giọng của các em.
* Hát đồng đều.
Giáo viên cần dạy cho các em có kĩ năng hát đồng đều và hồ giọng, có thể
vận dụng một số biện pháp sau:
- Thu hút sự chú ý của toàn thể học sinh.
- Dẫn vào câu hát đầu tiên bằng động tác chỉ huy hay nghe dạo nhạc hoặc
nghe giáo viên hát một câu ngắn rồi theo hiệu lệnh đến bắt vào bài.
- Theo động tác tay chỉ huy của giáo viên, học sinh có thể hát nhanh, chậm, to,
nhỏ, nhấn, nảy hoặc hát liền hơi.
- Giúp học sinh cách phát âm, nhả chữ đúng cũng làm cho giọng hát của các
em đồng đều, hoà hợp.
* Phát âm, nhả chữ, hát rõ lời.
Nhả chữ là sự cấu tạo rành rọt, chính
xác về phương diện phát âm của từ. Khi hát

tập thể cũng như hát cá nhân rất cần quan
tâm đến vấn đề này.
Hát rõ lời góp phần truyền cảm và
thơng tin chính xác nội dung ca từ của bài
hát. Những nguyên tắc phát âm lời ca trong
ca khúc Việt Nam có liên quan chặt chẽ đến
sự vận động của 6 thanh điệu (thanh không
dấu, thanh dấu sắc, thanh dấu huyền, thanh
dấu hỏi, thanh dấu ngã, thanh dấu nặng)
trong ngữ âm tiếng Việt.
2.3.2.Thực hiện chương trình dạy hát.
Đối với những học sinh có năng khiếu ca hát, tai nghe và trí nhớ âm nhạc tốt
thì khi tiếp xúc với bài hát mới các em chỉ cần nghe qua một vài lần là thuộc và có
thể hát đúng giai điệu. Những trường hợp đó khơng nhiều trong mỗi lớp học trên
dưới 30 học sinh. Việc dạy hát theo một trình tự quy định và trình tự là tất yếu
không thể bỏ qua bởi dạy hát là một quá trình rèn luyện tai nghe, nhạc cảm, xử lí
hơi thở, cách phát âm, nhả chữ cùng với những kĩ năng ca hát thơng thường khác.
Quy trình dạy hát thường các bước sau
- Giới thiệu bài
- Nghe hát mẫu
- Khởi động giọng
8


- Tập hát từng câu
- Hát cả bài và luyện tập nhóm
- Củng cố bài học
* Giới thiệu bài.
Dạy cho học sinh hát một bài hát mang tính chất giáo dục âm nhạc là một
quá trình gồm nhiều giai đoạn. Muốn các em hát hay, hát đúng và có truyền cảm

các em phải được nghe, được xem bài hát trước khi học. Trước khi bắt đầu dạy
hát, khâu đầu tiên có ý nghĩa qua trọng là phải tạo được trong ý thức các em
hình tượng đầy đủ trọn vẹn bài hát các em học. Trong bước giới thiệu ngắn gọn
về bài hát chú ý 2 phần:
- Giới thiệu bài hát sắp học cho học sinh nắm.
- Cho học sinh nghe toàn bộ bài hát
+ Giới thiệu bài hát
Bước vào học hát, giáo viên tóm tắt ngắn gọn chủ đề tư tưởng, nội dung đặc
điểm nghệ thuật, thể loại, xuất xứ và tác giả của bài hát…
- Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi để tốt lên nội dung, tính chất của bài hát.
- Chọn lọc những ý cơ bản sinh động nói về hồn cảnh ra đời của bài hát và ý
đồ của tác giả, và những gì tác giả muốn truyền tải cho người nghe qua bài hát.
- Kết hợp dùng các phương tiện trực quan như: xem ảnh diễn tả nội dung bài
hát hoặc xem ảnh tác giả (nếu có).
Các bước trên giáo viên phải vận dụng sáng tạo phù hợp với từng bài hát sao
cho dễ hiểu, có hiệu quả nhằm thu hút học sinh tập trung cao độ khi học hát, hát
đúng và hiểu rõ nội dung của bài hát để diễn tả nhiệt tình từng bước nâng cao nhận
thức cho học sinh khi học hát.
* Nghe hát mẫu.
Đây là việc quan trọng gắn lí luận với thực tiễn trong dạy hát của giáo viên
cho học sinh. người giáo viên phải hát đúng, diễn cảm, trình bày hấp dẫn…Lưu ý
những chỗ khó, phải nhắc bảo các em để các em có ấn tượng và cảm xúc đối với
bài hát, giúp các em cảm nhận về nội dung tính chất âm nhạc qua giai điệu, lời ca,
sắc thái tình cảm của bài hát. Khi giáo viên trình bày lần đầu tiên bài hát chuẩn bị
cho học sinh nếu có chất lượng cao sẽ gây ngay ấn tượng mạnh mẽ, tác động nhiều
mặt tạo nên hưng phấn sự u thích và tự có nhu cầu say mê học bài hát đó.
* Hát mẫu thể hiện các hình thức.
- Giáo viên trực tiếp trình bày bài hát, hát một cách nhiệt tình bằng giọng hát
tốt, đúng, giàu sức biểu cảm mới gây được sự ham thích của các em học sinh. Nếu
giáo viên dạy hát lại sử dụng nhạc cụ thì càng tăng thêm sự hấp dẫn và lí thú đối

9


với các em.
- Khi dạy cũng có thể cho các em nghe tách biệt phần nhạc, phần lời và phân
tích rõ cho các em hiểu để các em xác nhận được tính chất âm nhạc của bài hát
như: hùng hồn, trang nghiêm, sơi nổi hay nhẹ nhàng, tình cảm…Sau khi nghe nhạc,
giáo viên mới hát lời ca cho các em để các em tiếp thu một các trọn vẹn.
- Trong lúc dạy, giáo viên phát hiện có học sinh hát đúng bài hát đang dạy, thì
giáo viên sẽ lấy em đó hát trình bày cho cả lớp nghe, đó là một hình thức hay làm
cho khoảng cách giữa người dạy hát và người học hát gần nhau hơn. Đây cũng là
hình thức tốt để lơi cuốn nhiều học sinh u thích bộ mơn Âm nhạc.
* Khởi động giọng.
- Bước khởi động giọng rất quan trọng trong học hát vì sẽ làm cho giọng của
học sinh được thoát và trong hơn
- Giáo viên có thể cho học sinh khởi động giọng bằng nguyên âm A, O, U theo
thang 7 âm.
* Tập hát từng câu.
- Giáo viên phân chia câu hợp lý trong bài
- Đàn giai điệu từng câu 2-3 lần cho học sinh lắng nghe và thực hiện cho đến
hết bài
* Hát cả bài và luyện nhóm.
- Giáo viên đàn cho cả lới hát tập thể và cho ơn luyện nhóm theo nhiều hình
thức khác nhau như: Chia tổ, hát cá nhân , hát tốp, song ca...gõ đệm.
* Củng cố bài học.
- Giáo viên đàn cho lớp hát tập thể và đặt câu hỏi nêu cảm nghĩ của mình về
bài hát.
Mục đích chính của việc nêu cảm nghĩ sau khi học hát là để các em nói lên
những hiểu biết của mình về bài hát, qua đó giáo viên phát hiện ra năng lực cảm
thụ âm nhạc, bài hát của từng em mà tập cho học sinh có khả năng phát biểu cảm

xúc của mình, nhận biết các phương tiện diễn tả âm nhạc như: giai điệu, tiết tấu,
sắc thái…Để mô tả tính chất của âm nhạc, nội dung bài hát. Qua đó giúp cho học
sinh mở rộng thêm hiểu biết khả năng nhận thức, đánh giá, nhận xét một tác phẩm
âm nhạc từ chi tiết đến khái quát.
* Nghe hát lại.
Đây là công việc cần quan tâm để củng cố những gì các em đã nhận thức được
là rất bổ ích. Để cuộc trao đổi có chiều sâu, giáo viên nên cho các em nghe hoàn
chỉnh một bài hát lần nữa sau khi trao đổi.
2.3.3. Phương pháp dạy học phân môn học hát ở trường PTDTBT 10


THCS Xuân Chinh.
Trong phương pháp dạy hát cho học sinh, bất cứ một người giáo viên nào
cũng phải nắm vững và tiến hành các bước trình tự trong dạy hát. Ta phải ghi nhận
rằng: âm nhạc vốn là môn nghệ thuật các em ham thích và hứng thú, có sức thu hút
mạnh đối với tuổi học sinh, nhưng việc giảng dạy truyền thụ như thế nào để các em
tiếp thu có hiệu quả cao nhất. Điều này người giáo viên cần phải có được kể từ khi
bước vào lớp. Đó là: cử chỉ, nét mặt vui tươi, tự nhiên, tâm hồn thoải mái…để đi
vào nội dung bài giảng. Trong nội dung bài giảng gắn kết hài hoà với sử dụng trực
quan sinh động để minh hoạ ý tứ của bài giảng nhằm thu hút học sinh dẫn dắt các
em tiếp thu bài hát mẫu đến đọc một câu nhạc có sắc thái. Khi lên lớp cũng như vào
giảng bài giáo viên phải chuẩn bị rất chu đáo, đây là sự tôn trọng học sinh. Bản
thân việc thể hiện phần âm nhạc là sinh động và hấp dẫn, do vậy giáo viên phải tận
dụng triệt để sức mạnh đó làm cho giờ học thêm sinh động tạo thành niềm say mê
của học sinh. Tất cả các kĩ năng ca hát, đọc nhạc, trình bày nhạc cụ minh hoạ đều
yêu cầu giáo viên phải thành thạo trước các em. Cũng cần tôn trọng quy luật chung
của sự phát triển tâm lý học sinh đó là tính khơng đồng đều của sự phát triển tâm lí
trẻ em ở mỗi cá thể, khơng nên địi hỏi kết quả như nhau.
Dạy phân mơn Học hát ở học sinh khối lớp 8 bước đầu là xây dựng cho các
em những kĩ năng học hát tối thiểu, tuy nhiên quan trọng hơn là thức tỉnh trong các

em những cảm xúc nội tâm, sự ham thích hào hứng say mê với môn học hát cũng
như các hoạt động bổ ích mà các em tham gia một cách tự giác và sáng tạo.
Trước khi dạy hát cần tiến hành luyện thanh mang tính chất khởi động giọng.
Dạy học sinh hát đúng cao độ, trường độ của bài hát. Biết thể hiện tình cảm kết hợp
với rèn luyện các kĩ năng ca hát là yêu câù đầu tiên của việc dạy hát. Tuỳ mức độ
khó dễ, dài ngắn, đơn giản hay phức tạp của bài hát giáo viên có thể lựa chọn cách
tiến hành dạy hát phù hợp nhất, để giúp học sinh hát trôi chảy, giọng được mở. Khi
vào học hát, giáo viên giúp cho các em biết cách luyện thanh là hát theo một giai
điệu với một số mẫu âm nhất định, bắt đầu từ âm khu thuận lợi nhất của học sinh.
Các bài tập thực hiện như sau.
+ Chuẩn bị tư thế đứng hát vững vàng, tự nhiên.
+ Hát với nhịp độ vừa phải, không vội vàng
+ Hát với âm lượng vừa phải, không cố gắng hát to quá.
+ Hát chụm để âm thanh phát ra có cộng hưởng, sáng, gọn, rền.
+ Hát giai điệu, câu luyện thanh theo tên nốt chính xác.
+ Tập bật mơi, lưỡi khi hát các phụ âm và mở khẩu hình theo các nguyên âm
khi hát các từ: ma, mê, mi, mô.
11


+ Tập hít hơi bằng mũi một cách nhẹ nhàng, lấy vào đủ hơi dể hát trôi chảy
từng hai nhịp một.
Sau khi tiến hành luyện giọng khởi động, giáo viên phân câu hát thành từng
đoạn ngắn để các em đủ hơi và không mệt khi tập, giáo viên hát mẫu từng câu, sau
đó cho các em nhắc lại. Dạy hát từng câu theo lối móc xích cho đến hết bài, không
cần dạy câu trước thuộc rồi mới dạy câu sau. Dạy hát từng câu nhưng liên tiếp sẽ
giúp học sinh nhận biết trọn vẹn bài hát. Việc gọt giũa, trau chuốt nên dành đến khi
luyện tập, củng cố.
Có thể dùng đàn kết hợp nhưng chỉ nên đàn giai điệu sau khi đã được nghe hát
mẫu và đệm theo khi các em đã thuộc bài. Hướng dẫn hát kết thúc bài là một yêu

cầu đáng quan tâm. Thông thường khi hát đến câu cuối cùng và tiếng cuối cùng của
bài, các em ngắt giọng ngay. Đó là thói quen cần khắc phục. Phải hát câu cuối cùng
của bài thật đầy đủ, chú trọng đến âm kết để câu kết thúc được khắc hoạ đậm nét,
rõ ràng, có tác dụng mạnh đến tình cảm và nhận thức của chính bản thân người hát
và người nghe.
Khi dạy hát, giáo viên không nên hát cùng học sinh. Lúc các em tái hiện các
câu hát mẫu là lúc giáo viên tạm nghỉ ngơi tích cực bằng cách lắng nghe để phát
hiện những chỗ các em hát sai, kịp thời chỉ ra và sửa chữa. Giáo viên cần luôn nhắc
nhở các em khi hát phải biết tự kiểm tra chính bản thân mình, lắng nghe và tự
điều chỉnh, việc này không phải em nào cũng làm được. Do đó, giáo viên phải
biết sửa sai.
Sau khi đã học hát, giáo viên dành thời gian củng cố, ôn luyện cho các em,
vừa làm cho các em thuộc bài hát, hát chính xác và nâng cao kĩ năng thể hiện tình
cảm, sắc thái của bài và một số yêu cầu khác. Phần củng cố ơn luyện có thể thực
hiện một vài công việc như sau:
- Hát đúng nhịp độ quy định của bài, những chỗ cần hát nhanh dần, chậm dần,
ngân tự do…
- Phát âm rõ các âm tiết, các từ trong lời ca.
- Lấy hơi và ngắt hơi đúng chỗ.
- Hát hoà giọng và hát đồng đều.
- Tập hát cùng với phần đệm của nhạc cụ có nhạc dạo.
- Tìm hiểu sâu hơn nội dung nghệ thuật của bài hát.
- Hát kết hợp vỗ tay hoặc gõ đệm theo âm hình tiết tấu. Mỗi bài hát được
xây dựng trên từng dạng âm hình tiết tấu khác nhau. Vì thế, tập gõ hoặc vỗ tay
đệm theo có tác củng cố cảm giác về nhịp phách, tiết tấu sẽ có ích khi vận dụng
để học tập.
12


- Tập hát theo lối hát đối đáp (hát nối tiếp) hoặc hát có lĩnh xướng và lời ca.

- Hát kết hợp vận động, phụ hoạ (hoặc múa đơn giản).
Kết quả của việc học hát được đánh giá rõ nhất thơng qua một hoạt động cụ
thể là trình bày, biểu diễn bài hát. Tập biểu diễn bài hát giúp cho các em mạnh dạn,
tự tin có ý thức cố gắng trong q trình học tập, để có thể biểu diễn được, các em
có ý thức về một giá trị thẩm mỹ do chính bản thân mình cùng góp sức sáng tạo
thực hiện, nhất là tính đồng đội trong biểu diễn tập thể được nâng cao. Việc biểu
diễn có thể tiến hành dưới hình thức hát cá nhân, hát 2-3 người, hoặc một nhóm 5 8 người hoặc đồng ca.
Giờ học hát là dịp để các em tập biểu diễn, tập làm quen với việc hát trước
mọi người, qua đó các em tự khẳng định mình và đồng cảm với sự ngưỡng mộ
hưởng ứng của tập thể.
2.3.4. Giáo án mẫu.
Tuần học thứ 4
Tiết 4:

HỌC HÁT: BÀI LÍ DĨA BÁNH BỊ
Dân ca Nam Bộ

I. MUC TIÊU.
1. Kiến thức giúp Hs:
- Hát đúng giai điệu và lời ca bài hát “Lí dĩa bánh bị”
- Thơng qua bài hát giúp học sinh hiểu thêm về dân ca Nam Bộ.
2. Kỹ năng: Hs biết trình bày qua cách hát tập thể, hoà giọng , lĩnh xướng.
3. Thái độ: u thích mơn học và dân ca các vùng miền đất nước.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC.
1. Giáo viên.
- Nhạc cụ quen dùng.
- Hát chuẩn xác bài hát - đêm đàn thuần thục.
- Míc, lao đài, băng đĩa nhạc.
- Tranh ảnh về sinh hoạt văn hóa dân gian của đồng bào Nam Bộ.
2. Học sinh: Nhạc cụ gõ: thanh phách

III. CÁC HẠT ĐỘNG TRÊN LỚP.
1. Kiểm tra bài cũ/ giới thiệu bài.
- ? Em hãy trình bày bái hát Mùa thu ngày khai trường và nêu tên tác giả
sáng tác.
( Giáo viên đàn cho học sinh hát và nhận xét).
2. Bài mới.
13


HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
*Hoạt động 1.
- Giáo viên hát một bài hát đã học để học sinh
nhận biết tên bài hát: Giáo viên hát bài Lý cây
bông sau đó giáo viên nêu vài nét về đơng bằng
Nam bộ và điệu Lí..

NỘI DUNG CẦN ĐẠT
1. Giới thiệu.
Các em ạ Nam bộ là một vùng
đất nổi tiếng với nhiều danh
lam thắng cảnh nổi tiếng như:
Chợ nổi Cái Răng và những
giai điệu dân ca ngọt ngào sâu
lắng, những câu hò, điệu lý
say đắm lòng người. Và trong
những câu dân ca ấy những
điệu Lí đã thấm sâu vào lịng
con người nơi đây như điệu Lí
chiều chiều, Lí kéo chài, Lí
Ngựa ơ... Lí là những ca khúc

ngắn gọn ,súc tích, cấu trúc
mạch lạc được hình thành từ
những câu thơ lục bát. Buổi
học hơm nay cơ cùng các em
làm quen với điệu Lí dĩa bánh
bị.
- Bài Lí dĩa bánh bị được hình
thành từ hai câu thơ lục bát:
“ Hai tay bưng dĩa bánh bò
Giấu cha ,giấu mẹ cho trò đi
thi “
Bài hát với giai điệu vui tươi,
lời ca hóm hỉnh....

*Hoạt động 2. Dạy hát.
2. Học hát:
- Giáo viên treo bảng phụ có chép bài hát lên *Hát mẫu.
bảng và giới thiệu.
- Giáo viên hát mẫu
LÍ DĨA BÁNH BỊ
Giải thích: Dĩa theo tiếng
Dân ca: Nam Bộ
Nam Bộ là đĩa.
&==2=:=F==(=V=== - “Bánh Bò” làm bằng bột gạo.
14


G=!
==I===J===I===G=!
==V===9==G!

Hai tay bưng dĩa í a bánh bị

Giấu

- Bài hát Lí dĩa bánh bị Dân
ca Nam Bộ viết ở nhịp 2/4. Sử
dụng chủ yếu hình nốt móc
đơn kép và đen. Có sử dụng
khung thay đổi và dấu quay
lại.

&==V===G==!
==D====F====F==
==G=!
==G===G===B====
D=!
cha giấu mẹ chân đi khẽ né tối trời sợ

&=F==F==D==C=!
=R=9=F=!
=J==K==J==I=!
=V==D=!=V===Y=!
té lén đem cho trò i

i

i i i trò là trò đi

&=J==K-==J==I=!
=V===B====I==!

==G====W===B=!
==V==D!
thi i i i trị tình tính tang tang là trị là

&==V===Y=!
==J===K==Z=Y=Z=[
=!

* Khởi động giọng.
Giáo viên cho học sinh khởi
động giọng bằng các nguyên
âm A U O.
- Cả lớp đứng tại chỗ luyện
giọng

*Chia câu:
- Câu 1: Hai tay bưng dĩa í a
bánh bị
- Câu 2: Giấu cha giấu mẹ
chân đi khẽ né, tối trời sợ té
lén đen cho trò.
- Câu 3: i i i i i trò là trò đi thi
iii trò
15


==Y===9==F=)====
i===.
Trò đi thi


i i i i i

i

Hai

i

- Học sinh nghe và nhẩm theo giai điệu.
* Học sinh khởi động giọng:
- Giáo viên: đàn cho học sinh khởi động giọng.

- Câu 4: Tình tính tang tang là
trị là trị đi thi i i i i

* Dạy hát từng câu:
- Học sinh hát giai điệu từng
câu với đúng tiết tấu và giai
điệu

*Hoàn thiện cả bài:
- Cả lớp ôn luyện bài hát hào
đồng giọng hát.
? Em cho cô giáo biết bài hát được chia làm
mấy câu?
- Học sinh trả lời: bài hát được chia làm 4 câu

* Ôn luyện.
- Lớp hát đúng nhịp, cao độ,
giai điệu theo nhạc

- Biết cách biểu diễn

- Giáo viên đàn giai điệu từng câu một giáo viên
*Trình bày ở mớc độ hoàn
dạy với tốc độ chậm nhanh dần.
chỉnh.
- Giáo viên nhận xét và sửa sai cho học sinh.
Giáo viên hướng dẫn học sinh
hát theo nhóm, tổ và hát có sắc
Chú ý: Câu 2,3 giáo viên chia nửa câu để tập thái và biểu diễn .
cho học sinh
- Sau khi tập giai điệu toàn bài giáo viên cho
16


học sinh hát tập thể cả bài không đệm đàn.
( Giáo viên quan sát lắng nghe để sửa sai cho
học sinh)
- Học sinh đứng dậy hát với tư thế thoải mái.
- Giáo viên cho học sinh hát ghét với tiết tấu của
đàn, lúc đầu hơi chậm sau nhanh dần.
- Giáo viên chia nhóm tổ cá nhân cho học sinh
hát ơn
( Giáo viên cho học sinh nhận xét khách quan
lân nhau)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh hát biểu diên có
sắc thái cảm xúc của bài hát
GV: nhận xét - Đánh giá.
HS: Cả lớp hát theo nhạc
- Biểu diễn theo nhóm.

GV: Nhận xét - đánh giá.
3. Củng cố, luyện tập ở lớp. ( Nếu có )
- Hs tự chọn nhóm trình bày.
- GV nhận xét - đánh giá.
IV. DẶN DÒ, HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ.
- Hát chính xác cao độ, trường độ của bài hát.
- Viết lời mới theo chủ đề tự chọn.
- Xem trước bài mới.
V. ĐIỀU CHỈNH KẾ HOẠCH DẠY HỌC.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục.
Với những kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm cùng với trăn trở nâng cao chất
lượng môn âm nhạc nói chung và phân mơn học hát nói riêng bản thân đã nghiên
cứu phuong pháp giảng dạy phân môn học hát để phù hợp với các em học sinh
trung học nói chung đặc biệt là học sinh miền núi nói riêng.
17


Qua áp dụng phương pháp dạy học phân môn học hát linh hoạt với nhiều sáng
kiến trong từng tiết học. Học sinh đã rất thích thú với mơn học. Chú ý nghe giảng
và tiếp thu bài nhanh. Khơng khí tiết học sôi nổi và sáng tạo.
Đặc biệt kĩ năng về hát học sinh đã thực sự lĩnh hội được và thể hiện được tính
chất của bài hát. Một số em có năng khiếu đã thật sự bộc lộ được khả năng của
mình. Kết quả của học sinh được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây.
Bảng số liệu thống kê sau khi áp dụng phương pháp
Tên lớp
8A

Sĩ số

29

Cảm thụ âm
nhạc

Thích

Biết biểu diễn

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

29

100

22

76

29


100

Qua bản điều tra học sinh chúng ta thấy 100% học sinh u thích mơn học hát.
Khả năng cảm nhận của học sinh được nâng cao rõ rêt đặc biệt học sinh đã biết
cách biểu diễn một bài hát thành thạo.
2.4.2. Hiệu quả của sáng kiến đối với bản thân.
Với kết quả đạt được của sáng kiến đối với học sinh bản thân cảm thấy rất vui
và hào hứng. Bản thân đã áp dụng sáng kiến linh hoạt trong các tiết dạy trên lớp và
đã thu được kết quả mong muốn: Học sinh hát có kĩ năng, chất lượng tiếng hát
được nâng lên rõ rệt đặc biệt các em hào hứng tham gia tiết học một cách tích cực.
Thiết nghĩ sẽ ln áp dụng các phương pháp giảng dạy mới phong phú và đa dạng
hơn nữa khơng những dành cho phân mơn học hát mà cịn tìm phương pháp tối ưu
cho phân mơn tập đọc nhạc và âm nhạc thưởng thức.
2.4.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Với kết quả đạt được từ sáng kiến của mình bản thân rất phấn khởi khi các
đồng nghiệp đã ủng hộ. Đã cộng hưởng với các đồng nghiệp cùng nhau tìm tịi các
phương pháp đổi mới phù hợp với đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy
học. Đặc biệt các đồng nghiệp đã thi đua đưa ra nhiều sáng kiến để nâng cao chấ
lượng dạy học.
Đối với nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi để áp dung linh hoạt sáng kiến
vào giảng dạy. Khuyến khích các giáo viên đưa ra sáng kiến đổi mới trong công tác
dạy học và quản lý học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Ngạn ngữ nhật có câu: “Tri thức mở ra cho chúng ta những chân trời mới”. Và
18


bộ môn âm nhạc cũng là một trong những nhân tố để đưa chúng ta đến những chân

trời mới lạ. Âm nhạc đưa chúng ta xích lại gần nhau hơn, tạo cho chúng ta hồn
thiện hơn.
Vai trị quan trọng của âm nhạc đối với đời sống con người đã được khẳng
định là vô cùng quan trọng. Chúng ta những giáo viên âm nhạc, hơn ai hết chúng ta
phải nhận thức được điều này. Nhưng khơng chỉ trình độ chun mơn thơi chưa đủ
mà tình u âm nhạc, niềm đam mê với nghệ thuật mới cho chúng ta chân trời mới.
Đó chính là tài sản quý giá mỗi người giáo viên phải trau dồi và gìn giữ.
Trên đây là một số phương pháp dạy phân môn học hát tôi đã thực hiện thực
tiễn trong nhà trường. Do điều kiện thời gian có hạn cùng với năng lực cịn nhiều
hạn chế của bản thân, những vấn đề nói trên chắc chắn khơng thể giải quyết một
cách đầy đủ và thoả đáng, bởi vậy tơi mong được sự góp ý của q thầy cơ, các bạn
bè đồng nghiệp để sáng kiến được hồn thiện hơn, bản thân tôi được học hỏi nhiều
hơn và chất lượng dạy - học phân mơn học hát nói riêng và mơn âm nhạc nói chung
đạt kết quả cao, góp phần nâng cao chất lượng chung cho mơn âm nhạc của
huyện nhà.
3.2.Kiến nghị.
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện phương pháp dạy phân mơn học hát tơi
có ý kiến đề xuất nhỏ như sau:
- Các cấp có thẩm quyền cần quan tâm đến bộ môn Âm nhạc nhiều hơn nữa.
- Thường xuyên tổ chức cho các em tham gia giao lưu văn nghệ để các em
mạnh dạn hơn và ngày càng u thích bộ mơn âm nhạc.
- Các cấp có thẩm quyền nên mở những chuyên đề đi sâu vào từng phân mơn
một ví dụ như: Phân mơn dạy hát, phân môn tập đọc nhạc, phân môn âm nhạc
thưởng thức để học hỏi, nâng cao kiến thức chuyên môn để vận dung tốt vào từng
đối tượng học sinh.
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 08 tháng 03 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Lương Thị Thu Nga
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhà xuất bản giáo dục 2000, Phương pháp hát và chỉ huy dàn dựng- Hát
tập thể.
2. Nhà xuất bản Giáo dục 2006, Phương pháp dạy học âm nhạc
3. Trường cao đẳng sư phạm nhạc họa trung ương – 2003, Hát tập thể đồng ca
hợp xướng

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lương Thị Thi Nga
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường PTDTBT THCS Xuân Chinh

Stt

Tên đề tài SKKN


Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại

Một số phương pháp nâng
1 cao chất lượng dạy học phân
1 môn học hát ở trường TH
Xuân Cẩm

Phòng
GD&DDT
Thường
Xuân

Loại A

Năm học 20142015

Một số phương pháp nâng
2 cao chất lượng dạy học phân
2 môn học hát ở trường TH

Xuân Cẩm

GD Sở GD
& ĐT Thanh
Hóa

Loại C

Năm 20152016

21


Một số phương pháp dạy
3
phân môn tập đọc nhạc
3
trường TH Xuân Cẩm

Phòng
GD&DDT
Thường
Xuân

Loại A

Năm học 2015
- 2016

CÁC SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH VÀ HÌNH ẢNH MINH HỌA TRONG

BÀI HỌC THUỘC PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI SKKN

22


23


24



×