Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình ngữ văn lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.39 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục

1.1
1.2
1.3
1.4
2.1
2.2
2.3
2.4

Nội dung
Mục lục
1. Mở đầu

Trang
1
2
2
3
4

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiên kinh nghiệm
4
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
4


Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6 - 17
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
17 - 18
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
18 - 19
Tài liệu tham khảo
20

1


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã đưa ra Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, coi g iáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hợi.
Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong đó có đổi mới
phương pháp dạy - học môn Ngữ văn.
Bản thân người học - học sinh phải hiểu môn học Ngữ văn trước hết là

mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó
trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Nhà văn hào
Nga Mác – xim Gorơ ki nói: “Học văn là học làm người”. Học sinh học tốt mơn
Ngữ văn sẽ có tác động tốt đến việc học các môn khác, và ngược lại. Học tốt
môn Ngữ văn không nhất thiết là đi theo nghề văn. Học tốt môn Ngữ văn sẽ
giúp các em rất nhiều trong giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè, với đời
sống xã hội. Từ đó chúng ta thấy mơn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở, góp phần hình
thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia
đình, bè bạn, có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư
tưởng, tình cảm cao đẹp như lịng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lịng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có
tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân,
thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết trong văn học; có năng lực thực hành và
năng lực sử dụng tiếng Việt như công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó là những
người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở cịn có nhiệm vụ hồn
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói,
đọc, viết.
Xuất phát từ tình hình thực tế của việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn nói chung và trong giờ luyện nói của mơn Tập làm văn Ngữ
văn 7 nói riêng trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy và qua nhiều lần dự giờ đồng
nghiệp bản thân tôi thấy việc tổ chức dạy - học tiết luyện nói cịn nhiều hạn chế.
Nghịch lý của giờ luyện nói vẫn thường xuyên xảy ra: giờ luyện nói là điều kiện tốt
nhất để học sinh bày tỏ quan điểm, tình cảm, khả năng giao tiếp của mình trước
bạn bè nhưng các em lại im phăng phắc, nép mình chờ nghe giáo viên chỉ định.
2



Dường như tính tự tin, hoạt bát thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật
nặng nề. Đã có học sinh chân thành phát biểu rằng: “Một điều đáng sợ là phải học
giờ luyện nói Tập làm văn!” Khơng có hứng thú trong giờ luyện nói thì làm sao rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh đây? Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của
riêng tôi mà là tất cả của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay. Đó cũng là lý do tơi chọn
đề tài "Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình Ngữ
văn lớp 7".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của dạy học mơn Ngữ văn là hình thành những con người có ý
thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ
và đặc biệt là có khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại.
Quan điểm tích hợp và tích cực ln chi phối các hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất
là ở phần dạy các kĩ năng làm Tập làm văn. Một tiết dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả
trước hết phải tạo nên khơng khí hứng thú cho mỗi giờ học. Khơng khí đó chỉ có
được khi người dạy biết đa dạng hóa các hình thức, biện pháp dạy học. Mặt khác,
với tinh thần quan điểm dạy học mới, sách giáo khoa Ngữ văn khơng chỉ chú trọng
nội dung mà cịn chú trọng hình thức nhằm phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học. Để đạt được những mục tiêu trên và thực hiện theo yêu cầu của phương
pháp dạy học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các  biện pháp
nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói là vơ
cùng quan trọng. Nói sao cho người nghe hiểu là điều khơng phải ai cũng thực hiện
tốt. Người nói khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ tìm cách bộc lộ, truyền
đạt thơng tin đó chính là “nói”. Muốn hoạt động nói có hiệu quả trong giờ học Ngữ
văn, người dạy phải hướng dẫn rèn luyện cho các em, tập cho các em mạnh dạn
trước tập thể. Nhiều khi các em có dự kiến trong đầu nhưng lại khơng nói ra được
và người thầy sẽ khơng nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu, cảm thụ của các em
trong giờ học Ngữ văn. Vậy rèn kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực vừa
góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn vừa hình thành phong cách
cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc
sống. Nói tốt là cơ sở quan trọng cho việc tạo lập văn bản tốt.

Trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn Trung học cơ sở, chương trình mơn
Ngữ văn nhấn mạnh trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho học sinh là
làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt thành thạo theo các kiểu
văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng
lực cảm nhận và bình giá văn học. Chính vì thế, sách giáo khoa Ngữ văn Trung
học cơ sở đã chú trọng hơn tới việc hình thành và phát triển kỹ năng nói. Đây là
một trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Cụ thể là nội dung
chương trình sách giáo khoa bố trí một số giờ luyện nói độc lập theo từng kiểu văn
bản như sau:
Lớp 6:
Tiết 29 – Tuần 8 – Bài 7: Luyện nói kể chuyện
Tiết 43 – Tuần 11 – Bài 1: Luyện nói kể chuyện

3


Tiết 83, 84 – Tuần 21 – Bài 20: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh
và nhận xét trong văn miêu tả.
Tiết 96 – Tuần 24 – Bài 23: Luyện nói về văn miêu tả
Lớp 7:
Tiết 40 – Tuần 10 – Bài 10: Luyện nói : Văn biểu cảm về sự vật, con người.
Tiết 56 – Tuần : 14 – Bài 13: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn
học.
Tiết 112 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.
Lớp 8:
Tiết 42 – Tuần 11 – Bài 10: Luyện nói: Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với
miêu tả và biểu cảm.
Tiết 54 – Tuần 14 – Bài 14: Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng.
Lớp 9:
Tiết 65 – Tuần 13 – Bài 13: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu

tả nội tâm.
Tiết 140 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Qua đó, ta thấy số lượng bài luyện nói trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn Trung học cơ sở chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn 7
Cụ thể là: häc sinh líp 7A , lớp 7C
1.4.Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp điều tra giáo dục.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Xử lý thông tin bằng thống kê và biểu đồ.
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao
tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn
ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để
hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói,
đọc, viết. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thơng tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt
thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy học Tập làm văn là
tăng tính thực hành ứng dụng đối với học sinh và khắc phục những hạn chế của
chương trình cũ là quá chú trọng đến việc đọc viết hơn nghe nói của chương trình
và sách giáo khoa cải cách giáo dục.
Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng nói trong giờ Ngữ văn 7 là giúp cho
học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết - thực hành tiếng Việt tương đối
4



thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao tiếp.
Điểm mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt
động để phát triển kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn. Luyện nói tốt sẽ giúp học
sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thơng tin trong hồn cảnh giao tiếp khác nhau.
Ai cũng biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Trong
giờ luyện nói hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp qua ngôn
ngữ. Giờ luyện nói có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như giờ
làm văn viết là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Khơng khí giờ làm văn miệng dễ kích
thích hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này.
Về tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Có thấy
rõ đặc thù của hoạt động luyện nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên mới
tiến hành có hiệu quả giờ học vốn rất sinh động, hấp dẫn và hướng dẫn được những
học sinh có tâm lý ngại ngùng phát biểu trước tập thể lớp. Giờ luyện nói là cơ hội
tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm học sinh qua cách nói
năng, diễn đạt...
Nếu người thầy đóng vai trị chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá
chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự
hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngơn bản. Muốn cho người nghe
hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, nghĩa là nói phải có nội dung nói, đảm
bảo mạch lạc, logic, phải tuân thủ các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ,
nét mặt, âm lượng, …Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy
học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ
văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một cơng cụ giao tiếp hiệu quả
trong cuộc sống xã hội.         
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, ở bộ mơn Ngữ
văn, tiết dạy “Luyện nói” mặc dù nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng
cũng ít người thành cơng qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói
cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh không tự tin khi

nói trước đám đơng. Thời gian luyện nói lại có hạn (45 phút) khơng tạo được điều
kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ
thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập
trung vào những em khá, giỏi, chăm cịn những học sinh lười sẽ thụ động, khơng
phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im.
Kết quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết luyện
nói, nhất là trình độ học sinh ở vùng sâu, vùng xa. So với yêu cầu của phương pháp
dạy mới và những định hướng của sách giáo viên thì tiết dạy “luyện nói” và hoạt
động nói của học sinh qua tiết dạy còn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu như mong
muốn.
        Nhiều giáo viên có chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song cịn lúng túng
trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do
sách giáo viên khơng có hướng dẫn cụ thể. Khi  giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy
và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu đáo thì việc tổ chức cho học sinh luyện
5


nói trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao. Khơng khí học tập của học sinh khác hẳn
khi giáo viên thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, tất cả như có một luồng
điện vơ hình nào đó được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên khơng khí học tập.
Nhiều em giơ tay xin được trình bày kết quả, cảm nhận tổng hợp và thật là thoả
mãn với những kiến thức được chắt lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em. Đó
cũng là lúc giáo viên có điều kiện để điều chỉnh và phấn khích các em học tập, thực
tế niềm vui đựợc giáo viên quan tâm sẽ cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của
mình là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong
lần sau.
          Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ mơn Ngữ
văn của các em trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra được những biện
pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra được những điều mình tư
duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói. Đây cũng là kĩ

năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ cảm xúc những điều
cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể. Vừa là biện pháp có khả
năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ
đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
BẢNG KHẢO SÁT CH ẤT LƯỢNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN SKKN
Năm học
Mức độ

2015-2016
Khả năng nói tốt
trong tiết luyện nói

Khả năng nói chưa tốt
trong tiết luyện nói

7C : 42 học sinh

17/42 học sinh bằng 40,5%

25/42 học sinh bằng 59,5%

7A : 42 học sinh

12/42 học sinh bằng 28.6%

30/42 học sinh bằng 71.4%

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Với quan điểm dạy học theo phương pháp mới hiện nay đã nhấn mạnh: “Thầy
chủ đạo, trò chủ động”, “Học sinh là chủ thể sáng tạo”. Để phát huy tính tích cực của

học sinh, thì giáo viên phải làm tốt vai trị của người nhạc trưởng. Cụ thể để dạy được
giờ luyện nói, giáo viên cần phải quan tâm đặc biệt đến những khía cạnh sau :
2.3.1. Xác định mục đích yêu cầu của tiết luyện nói
Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, giáo viên cho trước đề tài
để các em về nhà soạn, hướng dẫn các em: Giúp các em chuẩn bị tốt nội dung, yêu
cầu bài nói. Cách thức giao tiếp (Nói cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu
quả (Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói); tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin,
mạnh dạn; tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng quán xuyến người nghe; Yêu cầu tập
thể lớp chú ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét.
2.3.2. Lựa chọn nội dung trong tiết luyện nói
6


- Cần lựa chọn nội dung luyện tập một cách linh hoạt, đạt hiệu quả.
- Vừa bám sát vào các bài tập ở sách giáo khoa vừa vận dụng tình hình,
đặc điểm cụ thể để có thể thay đổi, thêm bớt bài tập cho phù hợp.
2.3.3. Vai trò của giáo viên và học sinh trong tiết luyện nói
- Học sinh :
Trong tiết luyện nói, người hoạt động chủ yếu là học sinh. Học sinh phải
là những chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động trong tiết học. Các
em tựa như những diễn viên hoàn toàn làm chủ sân khấu với những hình thức
phong phú, đa dạng : độc thoại, đối thoại, diễn trị, đóng vai...
- Giáo viên: đối với tiết luyện nói, giáo viên nên tránh hai khuynh hướng
sau :
+ Cho rằng giờ luyện nói là của học sinh, dành cho học sinh thực hành là
chính; từ đó giáo viên khơng làm gì cả, khốn trắng, phó mặc cho học sinh
muốn nói thế nào cũng được; tất cả đổ cho năng lực của học sinh; dẫn đến tiết
học đơn điệu, buồn tẻ, mất tác dụng.
+ Quá lo sợ rằng học sinh khơng nói được, khơng trình bày được vấn đề
trước tập thể nên làm thay, nói hộ hết cho học sinh; hoặc tiến hành tiết dạy một

cách qua loa, chiếu lệ cho xong.
Trong tiết luyện nói, giáo viên hoạt động rất ít để trao quyền ưu tiên cho
học sinh hoạt động với thời lượng tối đa có thể được; thậm chí hầu như giáo
viên khơng làm gì cả. Nhưng ở đây, khơng làm gì cả khơng có nghĩa là khốn
trắng, phó mặc học sinh kiểu như đã nói ở trên; mà giáo viên vẫn là người bao
quát, chỉ đạo linh hoạt để đảm bảo cho hoạt động của học sinh đúng hướng và
đạt hiệu quả cao.
2.3.4. Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy- học trong tiết luyện nói
- Giáo viên nên linh hoạt trong việc thiết kế các hoạt động dạy - học.
- Sau đây là vài đề xuất để tham khảo, vận dụng .
+ Hái hoa tìm ý
Có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều HS yếu kém, chưa thành
thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập thể; lại ít có
( hay khơng có ) nhân tố tích cực ( học sinh khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát) làm
nòng cốt.
Cách thực hiện
a. Khâu chuẩn bị
- Lựa chọn một bài tập ( không ôm đồm nhiều về số lượng bài tập ).
- Thông báo bài tập đã chọn cho học sinh biết trước để chuẩn bị .
- Định hướng cho học sinh bằng một số câu hỏi ( để giải quyết bài tập ).
Những câu hỏi này được cung cấp từ trước tiết học để học sinh suy nghĩ, chuẩn
bị lời.
- Một bảng phụ- mơ hình dàn ý phù hợp với bài tập.
- Các câu hỏi được viết trên mảnh giấy lớn, chữ to để có thể gắn với mơ
hình dàn ý (mỗi câu hỏi được trình bày về hình thức tựa như những bông hoa)

7


- Học sinh tự trình bày dàn ý vào vở soạn theo gợi ý từ các câu hỏi cho

trước và tập chuẩn bị ngơn ngữ nói trước khi đến lớp.
b. Trình tự tiến hành trong tiết học
- Phân lớp học thành một số nhóm.
- Lần lượt mời từng đối tượng học sinh trong các nhóm lên hái hoa và trình
bày trước lớp theo hình thức tiếp sức ( để tạo khơng khí sơi nổi, kích thích sự
mạnh dạn, tự tin… )
- Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét ( theo chiều hướng nhắc nhở nhưng vẫn
khích lệ, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác xấu hổ, tự ti… )về việc trình bày
đối với từng câu hỏi của từng nhóm và cùng trao đổi để gắn hoa vào mơ hình
dàn ý.
- Giáo viên sơ kết, giảng giải ngắn gọn về dàn ý và cách trình bày kiểu văn
bản cần tạo lập.
- Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài ( theo dàn ý ) để khắc sâu
cách tạo lập kiểu văn bản đang học.
- Nếu còn thời gian, tiếp tục tổ chức cho các em trình bày theo dàn ý trước
nhóm ( nói từng phần để tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trình bày ).
+ Trị chơi thơng thái
Hình thức này dành cho đối tượng học sinh nhút nhát, tuy có khả năng
viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể.
Khi mục tiêu cụ thể của tiết dạy không đặt nặng kỹ năng làm bài (tạo lập
văn bản ) mà còn phải biết tư duy thành lời - ngơn bản thì cần luyện kỹ năng
ứng đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc có cử chỉ, nét mặt, âm lượng phù
hợp. Giáo viên cho học sinh thi hình thức Trị chơi thông thái sẽ phát huy tác
dụng.
Cách thực hiện
a. Điều kiện: cơ sở vật chất thuận lợi.
b. Chuẩn bị
- Giáo viên phải chuẩn bị thật công phu.
+ Nhiều câu hỏi, bài tập ngắn gọn, bổ ích.
+ Tranh ảnh, vật dụng phong phú, giàu ý nghĩa.

+ Cách dẫn chương trình hấp dẫn, sáng tạo.
- Có thể vận động học sinh cùng chuẩn bị như sưu tầm tranh ảnh, vật
dụng, soạn thảo câu hỏi- đáp án…
- Có thể chuẩn bị vài phần quà nho nhỏ giúp trò chơi thêm hào hứng.
- Học sinh được thông báo giới hạn một số đề tài chính để nghiên cứu,
suy nghĩ trước.
c. Trình tự thực hiện trong tiết học
- Chia cuộc chơi thành 2-3 chặng. Lượng câu hỏi, bài tập được sắp xếp
vào từng chặng cho phù hợp.
- Sau mỗi chặng, có nhận xét và đổi người tham gia chơi.

8


- Giáo viên trực tiếp làm giám khảo và cho điểm theo một thang điểm đã
được thống nhất và công bố; cử học sinh làm thư ký theo dõi và tổng kết điểm ở
từng chặng, cả đợt.
- Cuối cùng giáo viên tổng kết, củng cố phương pháp tạo lập văn bản .
Nhận xét các đội chơi, khen thưởng và trao quà.
Khi đã thuần thục với cách làm trên thì lớp có thể “tự biên tự diễn” mà giáo viên
chỉ là người định hướng từ xa chứ không cần tham gia trực tiếp vào quá trình
hoạt động của học sinh.
+ Dàn hợp xướng
- Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng học sinh cùng bổ trợ
cho nhau trong q trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó.
- Tạo cho học sinh khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng,
ăn ý, biết đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ.
- Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng
giữ vai trị đặc biệt quan trọng (tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong
việc điều hành nhóm.

Cách thực hiện
a. Chuẩn bị
- Phân nhóm, lựa chọn nhóm trưởng.
- Thơng báo về số lượng nội dung bài tập thực hành; cho các nhóm nhận
bài tập cụ thể.
- Hướng dẫn các nhóm chuẩn bị bài tập (chủ yếu thơng qua nhóm trưởng )
- Các nhóm học sinh lên chương trình tập luyện và chuẩn bị : làm dàn ý,
sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, phân công việc cụ thể cho các thành viên trong
nhóm…
b. Trình tự tiến hành trong tiết học
- Mỗi nhóm trình bày trước lớp về vấn đề đã chuẩn bị dưới sự điều hành
của nhóm trưởng. Có thể theo trình tự sau :
+ Lời chào và lời tự giới thiệu về nhóm và nội dung sẽ trình bày
+ Giới thiệu dàn ý
+ Lần lượt trình bày từng phần theo dàn ý( theo nhiều hình thức sáng tạo
khác nhau).
+ Lời chào kết thúc, lời cảm ơn.
- Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét về phần trình bày của từng nhóm.
- Giáo viên nhấn mạnh lại cách tạo lập của kiểu văn bản đang học.
- Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài để khắc sâu kiểu văn bản và
kỹ năng nói về kiểu văn bản ấy.
c. Lưu ý
Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu
chuẩn bị không kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm
dễ bị rời rạc, thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo.

9


Nếu học sinh đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì

giáo viên nên nhẹ nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hồn thành chương trình
của nhóm.
Mặt khác cũng khơng nên u cầu q cao , nhất là khi thực hiện hình
thức này lần đầu.
+ Thi nói hay( Thi hùng biện, thi kể chuyện,…)
Hoạt động thực hành này vẫn dựa trên cơ sở gợi ý của sách giáo viên.
Nghĩa là học sinh luyện nói ở tổ, nhóm; sau đó nói trước lớp trên cơ sở đã chuẩn
bị dàn ý và tập nói ở nhà.
Nhưng có thể thay đổi ở chỗ là cơ cấu việc luyện nói ấy thành một cuộc
thi để tạo khơng khí sơi nổi, lơi cuốn học sinh.
Nên tổ chức hình thức Thi nói hay đối với những lớp khá, học sinh mạnh
dạn, hoạt bát. Mục tiêu cụ thể của tiết dạy khi dùng hình thức này là luyện cho
học sinh khả năng nói đúng, nói hay, nói truyền cảm trước tập thể về một vấn
đề.
Cách thực hiện
a. Chuẩn bị
- Bảng phụ (tính điểm)
- Thơng báo số lượng bài tập, nội dung bài tập
- Thơng báo hình thức hoạt động để học sinh tập luyện .
- Các nhóm chuẩn bị dàn ý, phiếu học tập của nhóm
- Học sinh chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng liên quan( nếu cần )
- Có thể chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng…
- Chuẩn bị vài mịn q nho nhỏ .
- Có thể chọn học sinh dẫn chương trình.
b. Trình tự thực hiện trong tiết học
- Giáo viên nêu tiêu chí, yêu cầu, thang điểm
- Thi vịng 1: học sinh nói trong nhóm. Nhóm chọn ra người Nói hay để dự
thi vịng 2.
- Thi vịng 2: Tranh tài Nói hay giữa các nhóm
- Sau mỗi phần tranh tài của một nhóm là có phần nhận xét và bình điểm

của lớp, giáo viên.
- Kết thúc cuộc thi: Cơng bố điểm, chọn giải nhất, nhì và trao quà.
- Tổng kết tiết học, rút kinh nghiệm.
+ Đóng vai nhập cuộc
- Hình thức hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ sở của Dàn hợp xướng
nhưng có yêu cầu cao hơn nhiều. Học sinh cần có khả năng sáng tạo, kỹ năng tổ
chức rất cao để dàn dựng “kịch bản” và tham gia “diễn xuất”.
- Giáo viên cần định hướng cho học sinh khâu dựng “kịch bản” và đóng
vai trò “đạo diễn” cho sự “diễn xuất” của các em.
- Nên áp dụng hình thức này cho những lớp có học sinh khá, giỏi để các
em đó làm “đầu tàu” trong quá trình thực hiện.
- Nếu tổ chức tốt thì đây là hình thức rất hấp dẫn, lơi cuốn học sinh .
10


- Lưu ý: Cần khéo léo khi sử dụng hình thức này để tránh làm phá vỡ đặc
trưng của kiểu văn bản cần tạo lập.
Cách thực hiện
a. Chuẩn bị
- Giáo viên thông báo nội dung bài tập ( sau khi đã trao đổi, thống nhất
với học sinh nòng cốt).
- Gợi ý, định hướng cho học sinh dựng “ kịch bản”, phối - luyện để diễn
xuất.
- Giới thiệu tư liệu, chương trình để học sinh tham khảo.
- Các tổ, nhóm thực hiện việc chuẩn bị theo sự hướng dẫn của giáo viên .
b.Trình tự thực hiện
- Tương tự như Dàn hợp xướng chỉ khác ở chỗ các thành viên tham gia đã
hồn tồn đóng vai nhập cuộc để trình bày chứ không cần sự giới thiệu lần lượt
của người điều khiển.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà

Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà dựa theo yêu cầu đề
bài trong tiết luyện nói, giáo viên hướng dẫn thêm. Tới lớp, trước khi tiến hành
luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thơng qua tổ trưởng, nhóm trưởng,
sau đó báo cáo cho giáo viên. Giáo viên nên kiểm tra lại khoảng từ năm đến mười em.
2.3.6. Tổ chức triển khai thực hiện giờ luyện nói trên lớp
a. Bước 1: Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh
Bước này giáo viên phải đặc biệt chú ý, không thể bỏ qua hay lơ là được vì
đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ
tạo thói quen học tập, tự giác cho học sinh và có biện pháp kịp thời đối với những
học sinh yếu hoặc lười học.
b. Bước 2: Thống nhất lại dàn bài chung
Phần này giáo viên không đi lại từng bước nhỏ như phần chuẩn bị bài vì sẽ
mất thời gian. Giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải
đáp vướng mắc mà các em gặp phải trong phần chuẩn bị bài. Trên cơ sở đó, xây
dựng dàn bài chung làm yêu cầu về kiến thức để đánh giá nội dung bài nói của học
sinh.
c. Bước 3: Yêu cầu chung cho bài nói của học sinh
Giáo viên nêu yêu cầu luyện nói chung để học sinh rõ (chỉ áp dụng cho tiết
luyện nói đầu tiên của từng khối lớp, những tiết sau, bước này sẽ do học sinh tự
nhắc lại trước lớp)
- Nội dung: nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống
nhất để trình bày theo ý cho hệ thống.
- Kỹ thuật nói: trình bày rõ ràng, mạch lạc đảm bảo tính liên kết giữa các
phần các đoạn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp.
- Tác phong: bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi,
kết thúc phải có lời cảm ơn.
d. Bước 4: Bước chuẩn bị của học sinh trước khi nói

11



Giáo viên dành thời gian khoảng 5 phút để học sinh chuẩn bị trình bày bài
nói.
e. Bước 5: Học sinh trình bày bài nói
Để cho học sinh có điều kiện trình bày bài nói của mình một cách tự nhiên,
hiệu quả, giáo viên nên lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài nói khác
nhau có thể:
- Trình bày bài nói theo từng phần: mở bài, thân bài, kết bài đến cả bài (Học
sinh đại trà).
- Trình bày bài nói theo sự phân cơng của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của
tổ nhóm trình bày trước, để học sinh yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị).
- Học sinh trình bày bài nói theo thứ tự ln phiên, học sinh của nhóm này
nói, sau đó học sinh của nhóm khác nói và nhận xét cho nhau. (Đa phần học sinh
đều có thể trình bày bài nói).
Lưu ý: Học sinh trình bày bài nói theo u cầu dựa vào các mức độ đối tượng
khác nhau: giỏi, khá, trung bình, yếu.
g. Bước 6: Nhận xét, đánh giá
Nếu để cho học sinh thay phiên nhau lên trình bày bài nói của mình mà
khơng có sự nhận xét, đánh giá, góp ý của thầy cơ, bạn bè thì tiết luyện nói sẽ phản
tác dụng. Trong tiết luyện nói, học sinh giữ vai trị chủ động, tích cực thì giáo viên
phải thể hiện rõ vai trò của người chủ đạo, hướng dẫn. Trong tiết luyện nói người
giáo viên thực sự trở thành một người dẫn chương trình gần gũi và thân mật với
học sinh thì sẽ nâng cao hiệu quả tiết học.
Hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung cụ
thể. Giáo viên tổng hợp ý kiến từ học sinh, chỉ ra ưu, khuyết điểm cũng như mặt
mạnh, mặt yếu của từng em để kịp thời phát huy và sủa chữa, uốn nắn.
Lời đánh giá của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, nhẹ nhàng, tế nhị; ln tạo
khơng khí thân ái, gần gũi để học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình được tự
nhiên hơn. Giáo viên nên chọn ưu điểm nổi bật của từng học sinh và căn cứ theo
từng mức độ: giỏi, khá, trung bình, yếu mà tuyên dương, động viên, khuyến khích.

Nhất là sự tiến bộ của học sinh yếu (dù chỉ là sự tiến bộ rất nhỏ). Vì lời khen, chê
của giáo viên không chỉ là động lực thúc đẩy sự cố gắng phấn đấu của học sinh mà
còn là địn bẩy, bẩy giờ luyện nói.
Tóm lại tuỳ thuộc vào điều kiện, mức độ của từng lớp, hoạt động của giờ
luyện nói có thể có những hình thức khác nhau. Hình thức rất phong phú đa dạng.
Điều quan trọng là phải nắm vững đặc trưng giờ luyện nói để đảm bảo yêu cầu một
giờ học Tập làm văn trong nhà trường Trung học cơ sở.
2.3.7. Giáo án minh họa

LUYỆN NÓI
VĂN BIỂU CẢM VỀ SỰ VẬT, CON NGƯỜI

Ngữ văn 7: Tiết 40:

A. Mục tiêu cần đạt

1. Kiến thức: các cách biểu cảm trực tiếp và gián tiếp trong việc trình bày văn
nói biểu cảm, những u cầu khi trình bày văn nói biểu cảm.
12


2. Kỹ năng: tìm ý, lập dàn ý bài văn biểu cảm về sự vật và con người, biết
cách bộc lộ tình cảm về sự vật và con người trước tập thể, diễn đạt mạch lạc, rõ
ràng những tình cảm của bản thân về sự vật và con người bằng ngơn ngữ nói.
3. Thái độ: biết cảm nhận về sự vật, con người qua tiết luyện nói.
B. Phương pháp
- Phương pháp vấn đáp kết hợp thực hành, thảo luận nhóm.
- Phương pháp gợi mở, phương pháp nêu vấn đề.
- Phương pháp nói diễn cảm.
C. Chuẩn bị

1. Giáo viên: giáo án + đề bài về văn biểu cảm, bảng phụ.
2. Học sinh: giấy nháp + vở ghi.
D. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ: kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.
Giáo viên chốt: Trong chương trình Ngữ văn 7 các em đã được tìm hiểu
một số kiến thức về văn biểu cảm. Các em có thể áp dụng những kiến thức đó để
viết một bài văn biểu cảm đúng và hay. Nhưng thật tuyệt vời khi các em nói
được những lời văn câu văn, đoạn văn, bài văn biểu cảm hay, các em rèn được
phong cách tự tin, bình tĩnh diễn đạt lưu lốt trước tập thể lớp. Để giúp các em
làm được điều đó hơm nay cơ cùng các em đi tìm hiểu qua tiết “ Luyện nói: văn
biểu cảm về sự vật, con người.”
3. Bài mới
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung kiến thức cần đạt
Giáo viên: Trước khi luyện nói cơ cùng I. Ơn lí thuyết
các em đi ơn lại một số kiến thức trọng
tâm giúp các em làm tốt bài văn biểu.
Câu hỏi: Nhắc lại khái niệm văn biểu 1. Khái niệm văn biểu cảm
cảm?
HS trình bày khái niệm
Giáo viên chiếu trên máy.
Câu hỏi: Bài văn biểu cảm có bố cục 2. Bố cục
mấy phần? Nội dung từng phần?
Học sinh: Có bố cục 3 phần.
- Mở bài: Giới thiệu đối tượng biểu
cảm, nêu cảm
xúc ban đầu về đối tượng.
- Thân bài: Qua miêu tả, tự sự biểu lộ
cảm xúc ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết

sâu sắc.
- Kết bài: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ về
đối tượng biểu cảm.
xúc ban đầu về đối tượng.
- Thân bài: Qua miêu tả, tự sự biểu lộ
13


cảm xúc ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết
sâu sắc.
- Kết bài: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ về
đối tượng biểu cảm.
Giáo viên: chiếu phần bố cục lên máy
Câu hỏi: Có mấy bước tiến hành một
bài văn biểu cảm?
Học sinh: Có 4 .
- Bước 1: Tìm hiểu đề.
- Bước 2:Tìm ý
- Bước 3: Lập dàn ý
- Bước 4: Viết văn và sửa lỗi
Giáo viên chiếu trên máy.
Câu hỏi: Các bước đó có tiến hành 3. Các bước tiến hành
trong bài luyện nói được khơng?
Giáo viên cần phải thêm bước luyện nói
Giáo viên: để giúp các em có bài nói tốt
cơ cùng các em tìm hiểu sự giống và
khác nhau giữa văn nói và văn viết.
Học sinh chỉ ra một số điểm giống và
khác nhau
Giáo viên khái quát trên máy.

Giống nhau:
- Đều thể hiện cảm xúc với đối tượng
cần biểu cảm.
- Đều có bố cục 3 phần
Khác nhau:
+ Văn nói;
- Sử dụng cử chỉ, điệu bộ, giao tiếp.
- Câu văn ngắn gọn
- Dùng khẩu ngữ.
- Sử dụng những lời thưa gửi, giới thiệu,
lời cảm ơn
- Lựa chọn những chi tiết quan trọng.
+ Văn viết:
- Có thể dùng câu văn dài.
- Từ ngữ chau chuốt.
- Trình bày đầy đủ nội dung, khơng
dùng ngơn ngữ văn nói.
Giáo viên chuyển ý
Như chúng ta đã thống nhất các em về
nhà chuẩn bị các đề trong sách giáo II. Thực hành luyện nói
khoa. Trong các đề đó cơ thấy có 1 đề rất
14


có ý nghĩa phù hợp với chủ điểm tháng
11 theo các em đó là đề nào? Học sinh
trả lời.
Giáo viên: vậy bây giờ cô cùng các em
đi làm đề 1
Giáo viên chiếu trên máy đề 1.

Giáo viên kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà
của học sinh.
Câu hỏi: Đề bài đó thuộc thể loại nào?
Câu hỏi: Đối tượng biểu cảm là ai?
xác định thể loại, đối tượng biểu cảm
Câu hỏi: Với đối tượng biểu cảm là
thầy cơ giáo thì cảm xúc chính của em
là gì?
- Cảm xúc chính là kính trọng , biết ơn…
Giáo viên chuyển ý
Câu hỏi: Với đề bài này em sẽ trình
bày những gì trong phần mở bài, thân
bài, kết bài?
Giáo viên thống nhất lại dàn bài chung.
Giáo viên chiếu dàn ý và tranh ảnh .
Nhấn mạnh đây là dàn ý mang tính chất
tham khảo, định hướng.
Giáo viên chuyển ý, Cho học sinh hoạt
động nhóm.
- Phân cơng nhiệm vụ cho từng nhóm
( mỗi nhóm trình bày 1 phần) Đối với
học sinh yếu – trung bình giáo viên cho
học sinh thực hiện nói từng phần ( mở
bài, các ý trong phần thân bài hoặc kết
bài). Thời gian chuẩn bị là 5 phút.
- Sau 5 phút gọi đại diện nhóm trình bày
(u cầu chung cho bài nói của học sinh:
trước khi học sinh trình bày giáo viên
hướng dẫn học sinh trình bày, hướng dẫn
học sinh nghe để nhận xét )

- Nội dung: nói phải đúng trọng tâm, yêu
cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống nhất để
trình bày theo ý cho hệ thống.
- Kỹ thuật nói: trình bày rõ ràng, mạch lạc
đảm bảo tính liên kết giữa các phần các
đoạn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ,
tình cảm tự nhiên, phù hợp.

1. Đề 1: Cảm nghĩ về thầy cơ giáo
những “Người lái đị” đưa thế hệ
trẻ “cập bến tương lai”.
Thể loại: biểu cảm về con người.
Đối tượng : biểu cảm là thầy cô giáo.

Dàn ý:
+ Mở bài: Giới thiệu về thầy cô giáo
đẻ lại ấn tượng sâu sắc nhất.
+ Thân bài:
- Hồi tưởng kỉ ni ệm về thầy cơ giáo :
nhớ lại kỉ niệm về sự chăm sóc của
thầy cô -> nêu cảm xúc .
- Cảm xúc được gợi ra từ hình dáng,
cử chỉ hành động, việc làm…
-Sự kính trọng biết ơn cơng lao của
thầy cơ.
+ Kết bài: Khẳng định lại tình cảm
của em với thầy cơ.
Luyện nói

15



- Tác phong: bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin.
Trước khi nói phải có lời thưa gửi, kết
thúc phải có lời cảm ơn.
Giáo viên gọi đại diện nhóm trình bày
Đại diện nhóm trình bày
Học sinh nhận xét bài của bạn ở 2 mặt:
nội dung và cách trình bày bài nói.
Sau khi gọi học sinh nhận xét giáo viên
nhận xét chung về ưu nhược điểm, động
viên khích lệ học sinh
- Gọi 1 học sinh trình bày 1 bài hồn
chỉnh (Học sinh: khá, giỏi).
Giáo viên nhận xét động viên khích lệ
học sinh
Giáo viên chốt, chuyển ý sang đề 2
Giáo viên chiếu đề 2 lên màn chiếu
Câu hỏi: Em hãy xác định thể loại và
đối tượng biểu cảm trong đề 2
Học sinh xác định đối tượng và thể loại
Câu hỏi: Với đối tượng là sách vở thì
cảm xúc chính là gì?
Học sinh thảo luận theo 5 nhóm
Lần lượt 5 nhóm lên trình bày
- Học sinh trình bày phần dàn ý
- Học sinh nhận xét dàn ý của bạn
Giáo viên chuyển ý, cho học sinh trình
bày phần dàn ý chuẩn bị ở nhà
- Giáo viên chiếu phần dàn ý và tranh

ảnh tham khảo.
- Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi
tiếp sức:
+ Thể lệ: chia lớp thành 5 nhóm mỗi
nhóm trình bày 1 ý mở bài, 3 ý phần
thân bài, 1 ý kết bài).
+ Thời gian trao đổi là 2 phút
+ Sau thời gian chuẩn bị lần lượt các
nhóm lên trình bày hết nhóm trình bày
phần mở bài đến nhóm trình bày ý thứ
nhất phần thân bài đến ý 2, ý 3… cuối
cùng kết bài.
Giáo viên nhận xét ưu nhược điểm
chung, khích lệ học sinh.

2. Đề 2: Cảm nghĩ về sách vở mình
đọc và học hàng ngày.
Thể loại: biểu cảm về sự vật.
Đối tượng: biểu cảm là sách vở.
Dàn ý:
+ Mở bài: Giới thiệu khái quát về
sách vở mình học và đọc hàng ngày.
+ Thân bài:
Nêu tác dụng của sách.
Những tình cảm u thích của mình
với sách
ý thức giữ gìn bảo vệ sách.
+ Kết bài : Nhấn mạnh tình cảm của
mình với sách
Luyện nói


u cầu:
16


Câu hỏi: Qua tiết học em rút ra những + Muốn người nghe hiểu, người nói
u cầu gì của tiết luyện nói văn biểu phải lập ý theo trình tự (dàn ý)
cảm? (Học sinh khá)
+ Nói tự nhiên, rành mạch, rõ ràng,
- Giáo viên khái quát bằng máy chiếu.
hướng tới người nghe
+Phát âm chuẩn, giọng điệu diễn
cảm.
+Bài nói phải có tính liên kết.
4. Củng cố
- Giáo viên nhận xét chung giờ luyện nói, khắc sâu kiến thức văn nói và văn
viết, liên hệ giáo dục học sinh trong khi nói và viết.
Giáo viên chia sẻ cùng học sinh kinh nghiệm để có 1 bài nói tốt đó là:
+ Về nội dung cần nhớ 3 chữ “ T”:
- Tập trung.
- Tường minh.
- Thú vị.
+ Về hình thức:
- Trong sáng.
- Tự tin.
- Truyền cảm.
Chúc các em tự tin hứng thú trước mỗi bài nói của mình và nhận được nhiều
tràng pháo tay từ người nghe. Đó cũng là bí quyết giúp em thành cơng trong
cuộc sống.
5. Dặn dị: về nhà các em làm hồn chỉnh cho cơ 2 đề văn đó.

E. Đánh giá - điều chỉnh
2.4: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng đối với học sinh lớp 7A, 7C tại
Trường Trung học cơ sở Lưu Vệ năm học 2015 -2016, với những cố gắng của tôi
trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh
tham gia phát biểu sơi nổi, có chiều hướng ham thích học mơn văn hơn. Học sinh
có tinh thần tập thể cao, có tinh thần tự giác, ý thức được việc học tập. Với biện
pháp thực hiện trên giúp học sinh mạnh dạn hơn khi nói trước đám đơng, có thói
quen tốt trong việc học, và cũng giúp cho những em học yếu, lười khơng cịn ỷ lại
trơng chờ vào những em học khá. Từ em khá đến em yếu đều có thể nói được trước
lớp.
Khi tiến hành nghiên cứu tơi chia đối tượng học sinh của mình thành 2
nhóm (Nhóm thực nghiệm là đối tượng học sinh lớp 7A, và nhóm đối chứng là các
em học sinh lớp 7C), mỗi nhóm gồm 42 em học sinh có trình độ nhận thức tương
đương nhau. Với lớp 7A khi áp dụng sáng kiến này thì tình hình khác hẳn so với
lớp 7C (không áp dụng)
17


BẢNG KHẢO SÁT CH ẤT LƯỢNG SAU KHI THỰC HIỆN SKKN
Năm học
Mức độ

2015-2016
Khả năng nói tốt
trong tiết luyện nói

Khả năng nói chưa tốt
trong tiết luyện nói


7C : 42 học sinh

24/42 học sinh bằng 57,1%

18/42 học sinh bằng 42,9%

7A : 42 học sinh

29/42 học sinh bằng 69%

13/42 học sinh bằng 31%

Qua kết quả trên cho thấy khi áp dụng sáng kiến có sự chuyển biến theo
chiều hướng tích cực ở nhóm thực nghiệm lớp 7A. Đặc biệt hơn nữa là khi so sánh
kết quả của nhóm lớp 7C với nhóm lớp 7A thì chất lượng ở nhóm lớp 7A đã tăng
cao hơn nhóm lớp 7C với một khoảng cách khá cách biệt. Điều đó cũng đã khẳng
định một phần tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã đưa ra và áp dụng.
Trong năm học này tôi đang mở rộng áp dụng sáng kiến trên đây cho tất cả các lớp
mà tôi đang giảng dạy, hy vọng sẽ tạo được bước chuyển biến cao hơn về khả năng
nói của các em học sinh trong kiểu bài luyên nói ở phân môn Tập làm văn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận: bài học kinh nghiệm mà tôi rút ra được từ quá trình nghiên cứu và
vận dụng như sau
Về giáo viên: Muốn  thực hiện đạt yêu cầu việc luyện nói cho học sinh giáo
viên cần:
- Đầu tư vào bài soạn, nghiên cứu kỹ để có câu hỏi thảo luận cho học sinh.
- Câu hỏi phải khuyến khích được tất cả học sinh trong lớp suy nghĩ. Câu hỏi
phải ngắn gọn, rõ ràng, vừa sức để học sinh có thể trả lời.
- Ngay từ đầu, xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những qui định 

đối với học sinh về việc học  nói chung, mơn văn nói riêng.
- Hướng dẫn cho học sinh cách học cũng như cách soạn bài (Nhất là đối với
tiết luyện nói).
- Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh.
- Cần tôn trọng ý kiến học sinh, tạo điều kiện, dẫn dắt học sinh thể hiện quan
điểm cá nhân của mình.
- Nắm vững qui trình tiết luyện nói và tiến hành các bước một cách linh
hoạt, thuần thục.
Về học sinh
- Đầy đủ dụng cụ học tập, nhất là bảng phụ, chuẩn bị cả về ngơn ngữ để có
được hành văn lưu loát, ý tứ phong phú.
- Mỗi cá nhân cần phải chuẩn bị bài kĩ trước ở nhà.
- Mỗi cá nhân đều phải tích cực và ý thức hoạt động trong nhóm.

18


Tóm lại, dạy văn là một cơng việc địi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng
tạo. Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tịi, vận dụng một cách linh
hoạt các phương pháp dạy học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy học văn bản
trở nên phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết
luyện nói ở môn Ngữ văn 7 là một hoạt động mang tính chun mơn của người
giáo viên dạy văn trong q trình thực thi giảng dạy chương trình thay sách. Điều
đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học Văn bản nói riêng và cho bộ mơn Ngữ
văn nói chung.
Vấn đề được trình bày trên đây dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm,
khơng có mong muốn gì hơn được bày tỏ những đóng góp nhỏ vào cơng việc giảng
dạy văn và mong được q thầy cơ góp ý. Trong q trình giảng dạy, tơi sẽ nỗ lực
nhiều hơn nữa để làm tốt nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn.
3.2 .Kiến nghị

Tổ khoa học xã hội đã tổ chức hướng dẫn cách viết sáng kiến kinh nghiệm
nhưng cần có thêm các buổi thảo luận viết sáng kiến kinh nghiệm.
Nhà trường, Phòng giáo dục nên tổ chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm có
tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục để các giáo viên có cơ hội học tập kinh
nghiệm.
Trên thực tế khi thực hiện tiết luyện nói chúng tơi gặp rất nhiều khó khăn:
Thời lượng chỉ có 45 phút cho nên nhiều em vẫn chưa được nói. Tiết luyện nói
chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể. Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất lên Sở Giáo dục
và Đào tạo cần điều chỉnh, bổ sung để giáo viên đứng lớp có điều kiện dạy tốt
hơn tiết luyện nói cho học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Xương, ngày 29 tháng 3 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Dung

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn THCS
2) Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS
chu kỳ III (2004 – 2007)
3) Phương pháp giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông.

(Đại học từ xa Huế)
4) Báo giáo dục và thời đại
5) Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản giáo dục.
(Tạp chí hàng tháng)

20



×