Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển tỉnh Phú Yên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.44 MB, 186 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
---------------------------------

Nguyễn Thị Thu Hằng

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TIỀM NĂNG KINH
TẾ RONG BIỂN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH SINH HỌC

Hà Nội – 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
--------------------------------Nguyễn Thị Thu Hằng

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TIỀM NĂNG KINH
TẾ RONG BIỂN TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 9420120



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH SINH HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. Nguyễn Ngọc Lâm
2. TS. Nguyễn Văn Tú

Hà Nội – 2021


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của GS.TS. Nguyễn Ngọc Lâm và TS. Nguyễn Văn Tú. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì cơng trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hằng


ii

Lời cảm ơn
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới GS.TS Nguyễn Ngọc
Lâm và TS. Nguyễn Văn Tú, những người thầy bằng cả tâm huyết của mình đã
hướng dẫn tơi về khoa học, gợi mở cho tôi các ý tưởng nghiên cứu và chia sẻ nhiều vấn
đề khoa học trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Lời cảm ơn cũng được gửi đến PGS.TS Đàm Đức Tiến - Viện Tài Nguyên Và Môi

Trường Biển Hải Phịng, TS. Hồng Cơng Tín – Đại Học Khoa Học Huế, thầy Tống
Phước Hoàng Sơn, TS. Nguyễn Xuân Vỵ và các nhà khoa học của phòng Thực vật
biển, Viện Hải Dương Học đã giúp đỡ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, các kiến thức về
viễn thám, thực nghiệm, phân loại mẫu vật,…để tơi hồn thành tốt cơng trình nghiên
cứu của mình.
Trân trọng cám ơn Thầy PGS. TS Võ Văn Phú - Đại Học Khoa Học Huế đã tạo
điều kiện để nghiên cứu sinh tham gia thực hiện một phần nghiên cứu của đề tài
“Điều tra, đánh giá, đề xuất các khu bảo vệ, bảo tồn sinh thái cảnh quan vùng biển
ven bờ tỉnh Phú Yên” do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Phú Yên cấp kinh phí.
GS.TS. Hồng Nghĩa Sơn, người đã ln động viên và tạo điều kiện thuận lợi để
tơi hồn thành nhiệm vụ học tập tại cơ sở đào tạo; Quý Thầy Cô ở Viện Sinh học Nhiệt
đới và Học viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong q trình
hồn thành cơng trình nghiên cứu luận án, tơi xin trân trọng cám ơn!.
Cuối cùng, cơng trình luận án này sẽ khơng hồnh thành nếu khơng có sự khích lệ
và thấu cảm của gia đình, ba má và chồng đã chăm sóc gia đình trong những lúc nghiên
cứu sinh học tập xa nhà.
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hằng


MỤC LỤC

iii

Trang

LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………

i


LỜI CÁM ƠN .………………………………………………………………….
MỤC LỤC………………………………………………………………………...
DANH MỤC HÌNH ……………………………………..………………………
DANH MỤC BẢNG ……………………………………………………………..
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ………………………….………………………..
MỞ ĐẤU …………………………………………………………………………
Tính cấp thiết của luận án ……………………………………………………….
Mục tiêu nghiên cứu của luận án ………………………………………………..
Các nội dung nghiên cứu chính của luận án …………………………………….
Ý nghĩa khoa học và thực tiển …………………………………………………..
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN …………………………………………………..
1.1. Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển ...............
1.1.1. Về hệ thống ..........................................................................................
1.1.2. Về nuôi trồng rong biển …………………………………………….
1.1.3. Sử dụng rong biển …………………………………………………...
1.2. Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển ở VN …
1.2.1. Nghiên cứu đa dạng sinh học rong biển ở Việt Nam ..........................
1.2.2. Nghiên cứu nguồn lợi rong biển ở Việt Nam ......................................
1.2.3. Nghiên cứu các hoạt chất sinh học và phần hóa học của rong biển …
1.2.4. Nghiên cứu sử dụng rong biển …………………………………….
1.2.5. Nuôi trồng rong biển ……………………………………………….
1.3. Khái quát điều kiện tự nhiên vùng biển nghiên cứu ………………..
1.3.1. Vị trí địa ...............................................................................................
1.3.2. Điều kiện thủy văn ................................................................................
1.3.3. Chế độ động ........................................................................................
1.3.4. Hiện trạng chất lượng môi trường nước vùng ven bờ tỉnh Phú Yên
........
CHƯƠNG
2. ĐỐI TƯỢNG, TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP ………………

2.1. Đối tượng, đia điểm và thời gian nghiên cứu …………………………….
2.2. Tư liệu viễn thám ..………………………………………………………..
2.3. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………….
2.3.1. Phương pháp xác định thành phần loài rong …. . ………………..…..
2.3.2. Phương pháp xác định loài ưu thế …………………………………..
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu khu hệ rong ………………………………
2.3.4. Phương pháp nghiên cứu phân bố của rong biển …………………..
2.3.5. Phương pháp phân tích hàm lượng dinh dưỡng của rong biển ….….
2.3.6. Phân tích thành phần chính PCA ..………………………..…..…....
2.3.7. Phương pháp ước tính sinh lượng, trữ lượng của rong biển ......…….
2.3.8. Phương pháp nghiên cứu về hiện trạng khai thác và sử dụng rong
biển kinh tế ở Phú Yên ….….….….….….….….….….….….….………………

ii
iii
vi
viii
xi
1-2
1
1

2.3.9. Phương pháp lập bản đồ phân bố và ước tính sinh khối rong biển
bằng kỹ thuật viễn thám ……………….. ….….….….….….….….….…………..
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ….….….……
3.1. Đa dạng thành phần loài rong biển Phú Yên ……………………..…...
3.1.1. So sánh đa dạng rong biển Phú Yên và các tỉnh lân cận ……..…….
3.1.2. Đa dạng rong biển Phú Yên - Mơ tả các lồi .. …………………….
Ngành Vi khuẩn lam – Cyanobacteria ……………………………………..
Ngành Rong lục – Chlorophyta … … … … … … … … … … … … … … .


2
2
3-21
3
3
3
4
11
11
11
14
15
17
20
20
20
21
21
22-32
22
24
25
25
26
27
27
27
28
29

31
31
33-117
33
33
34
34
35


iv
Ngành rong Nâu – Ochrophyta ……………………………………………
56
Ngành rong Đỏ - Rhodophyta …………………………………………….
68
3.2. Tính chất và đặc trưng khu hệ rong biển ……………………………….
94
3.2.1. Cấu trúc thành phần loài ……………………………………………
94
3.2.2. Đa dạng bậc phân loại ………………………………………………..
95
3.2.3. Đặc trưng thành phần loài rong biển ……………………………….
96
3.3. Đặc điểm phân bố rong biển của Phú Yên ……………………………..
97
3.3.1. Phân bố giữa các khu vực nghiên cứu ………………………………
97
3.3.2. Phân bố theo các đới thuỷ triều ……………………………………..
98
3.3.3. Phân bố theo đặc điểm nền đáy …………………………………….

99
3.4. Nguồn lợi ………………………………………………………………….
100
100
3.4.1. Các lồi, nhóm lồi rong biển kinh tế ở Phú n .….….….…………
3.4.2. Thành phần dinh dưỡng của một số loài rong có tiềm năng kinh tế ở
104
Phú n .….….….….….….….….….….….….….….….….….………………
3.4.3. Ước tính sinh lượng của các nhóm rong kinh tế ……………………
108
3.4.4. Ước tính trữ lượng và phân bố của các nhóm rong kinh tế …………
108
3.5. Hiện trạng khai thác và sử dụng rong biển kinh tế ở Phú Yên ……….
117
3.6. Hiện trạng và tiềm năng nuôi trồng rong biển ven bờ tỉnh Phú Yên …
120
3.7. Đề xuất các giải pháp bảo tồn, quản lý nguồn lợi rong biển …………..
121
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ………………………………….....…………. 125-120
Kết luận …………………………………………………………………………
125
Kiến nghị ….….….….….….….….….….….….….….….……………………..
126
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN….….….….….….…………….
128
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ ………………… ……….
129
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………. 130-145
I-XLIV
PHỤ LỤC …………………………………………………………………….

Phụ lục 1. Phân bố thành phần loài theo mặt rộng giữa các vùng (vùng 1I-XIV
vùng 9), tỉnh Phú Yên theo đới và công dụng của rong biển …………….
Phụ lục 2. Cơ quan sinh sản của một số loài rong biển Phú Yên .……… XV-XVI
Phụ lục 3. Hiệu suất của các mô hình ước tính sinh khối của Sargassum
XVII-XVIII
ở các khu vực ….….….….….….….….….….……………………………
Phụ lục 4.1-4.27. Sinh lượng, trữ lượng một số loài rong có giá trị kinh tế XIX-XXIII
Phụ lục 5. Mẫu phiếu điều tra khai thác. sử dụng và nuôi trồng rong biển .. XXIV-XXV
Phụ lục 6. Kết quả điều tra hiện trạng khai thác và sử dụng rong biển kinh XXVI-XL
tếPhụ
….lục 7. Nhiệt dộ trung bình nuớc biển bề mặt vùng biển ven bờ Phú
XLI
Yên năm 2008-2018 ….….….….….….….….….….…..…………………
Phụ lục 8. Các nhóm giải pháp bảo tồn. quản lý nguồn lợi rong biển …. XLII-XLIV


v
DANH MỤC HÌNH
Hình 2. 1. Sơ đồ vị trí khảo sát (O) rong biển vùng biển ven bờ tỉnh Phú Yên…
Hình 2.2. Phạm vi phủ của các cảnh ảnh Sentinel - 2 dùng trong nghiên cứu …
Hình 2.3. Phạm vi phủ của các ảnh PlanetScope dùng trong nghiên cứu……….
Hinh 2. 4. Các giai đoạn tiến hành lập bảng đồ phân bố rong Mơ……………...
Hình 3.1. Đa dạng lồi rong biển tỉnh Phú Yên và một số tỉnh lân cận ………..
Hình 3. 2. Phân bố tỷ lệ số lượng loài giữa các ngành rong…………………….
Hình 3.3. Số lượng lồi rong biển phân bố ở các thủy vực ven bờ ……………..
Hình 3.4. Kết quả phân tích PCA 6 mẫu rong lấy ở Phú Yên ………………….
Hình 3.5. Hàm lượng axit Glutamic, Arginine và Aspartic của 6 loài rong biển
thu ở Phú Yên vào tháng 5 năm 2019……………………………………………
Hình 3.6a. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực xã An Chấn năm 2018 ...…
Hình 3.6b. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực Hòn Yến năm 2018 ……...

Hình 3.6c. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực khu vực Cù Lao Mái Nhà
năm 2018 ………………………………………………………………………...
Hình 3.6d. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực khu vực Bãi Nồm đến Bãi
Tràm năm 2018…………………………………………………………………..
Hình 3.6e. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực Hòa Lợi, Hòn Nần, Vịnh
Hòa (đầm Cù Mơng) năm 2018 ………………………………………………..
Hình 3.6f. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực Bãi Rạng năm 2018 …….
Hình 3.6g. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực vịnh Xuân Đài năm 2018 …
Hình 3.6h. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực Mũi Điện năm 2018 ......…..
Hình 3.6i. Bản đồ phân bố Sargassum ở khu vực Hòn Nưa năm 2018 …..……
Hình 3.7a. Bản đồ sinh khối Sargassum khu vực xã An Chấn năm 2018 ..…...
Hình 3.7b. Bản đồ sinh khối Sargassum ở khu vực Hịn Yến năm 2018 ..…….
Hình 3. 7c. Bản đồ sinh khối Sargassum khu vực Cù Lao Mái Nhà năm 2018
Hình 3.7d. Bản đồ sinh khối Sargassum khu vực Bãi Nồm đến Bài Tràm năm
2018………………………………………………………………………………
Hình 3.7e. Bản đồ sinh khối Sargassum khu vực Hòa Lợi, Hòn Nần, Vịnh
Hịa năm 2018……………………………………………………………………
Hình 3.7f. Bản đồ sinh khối Sargassum ở khu vực Bãi Rạng năm 2018………
Hình 3.7g. Bản đồ sinh khối Sargassum khu vực vịnh Xuân Đài năm 2018…..
Hình 3.7h. Bản đồ sinh khối Sargassum ở khu vực Mũi Điện năm 2018………
Hình 3.7i. Bản đồ sinh khối Sargassum ở khu vực Hịn Nưa năm 2018 ………
Hình 3.8. Trữ lượng tức thời của một số nhóm rong biển kinh tế ……………...
Hình 3.9. Rong Mơ được phơi ở Bãi Rạng ……………………………………..
Hình 3.10. Người dân đang hái rong Mứt, rong Bông Trang ở Bãi Tiên – Đơng
Hịa ………………………………………………………………………………
Hình 3.11. Rong Câu chỉ ở đầm Ơ Loan ………………………………………..
Hình 3.12. Rong được phơi để làm thạch ở Mỹ Quang – xã An Chấn………….

Trang
23

25
25
32
33
94
97
106
107
109
109
109
109
109
110
110
110
110
112
112
112
112
112
113
113
113
113
117
118
118


119
119


vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Vị trí các khu vực khảo sát rong biển ở vùng biển ven bờ tỉnh Phú Yên...
Bảng 2.2. Bảng xác định tần số xuất hiện f của các lồi, nhóm lồi rong biển …….
Bảng 2.3. Phương pháp phân tích hàm lượng dinh dưỡng của rong biển ………….
Bảng 2. 4. Các bậc độ phủ và hệ số độ phủ của rong biển …………………………
Bảng 3. 1. Đa dạng các bậc phân loại rong biển tỉnh Phú Yên……………………..
Bảng 3. 2. Hệ số tương đồng của rong biển giữa các khu vực khảo sát rong biển ở
tỉnh Phú Yên…………………………………………………………………………
Bảng 3. 3. Sự phân bố của một số loài rong biển đại diện theo các đới triều……….
Bảng 3.4. Hàm lượng lipit, protein và tro của 6 loại rong biển thu ở Phú Yên vào
tháng 5 năm 2019……………………………………………………………………
Bảng 3.5. Hàm lượng axit amin trong 6 mẫu thu ở Phú Yên vào tháng 5 năm
2019………………………………………………………………………………….
Bảng 3.6. Tổng sản lượng (tấn), diện tích che phủ (ha), sinh khối trung bình (g
/m2) của Sargassum ở vùng nước ven biển tỉnh Phú Yên, Việt Nam từ hình ảnh
PS, ảnh Sentinel và khảo sát ngầm…………………………………………………..
Bảng 3. 7. Trữ lượng rong biển khai thác (tấn/năm) ở vùng biển ven bờ Phú Yên
năm 2018 ……………………………………………………………………………
Bảng 3. 8. Trữ lượng rong biển nuôi trồng (tấn/năm) ở vùng biển ven bờ Phú Yên
Bảng 3.9. Quy hoạch nuôi trồng rong biển tỉnh Phú Yên ………………………….

Trang
22
26
28

30
95
98
99
104
107
115
118
120
1213


vii
DANH MỤC VIẾT TẮT
TLK: Trọng lượng khô
TCVN:Tiêu chuẩn Việt Nam


1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của luận án
Rong biển là nhóm thực vật bậc thấp, tự dưỡng, hầu hết sống ở biển. Đây là

tài nguyên biển với các giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp rất cao. Nên hầu hết các
quốc gia có biển (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippine…) đều rất quan tâm đến nguồn lợi
này [1]. Ở nước ta hiện nay, nuôi trồng rong biển đang là một trong ngành mới (thay cho
nghề nuôi tôm tuyền thống đang bị khủng hoảng về giá trị lợi nhuận và ô nhiễm đầm ni)
những đối tượng đang có nhiều triển vọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho rất nhiều hộ nông dân ven biển và các đảo tiền tiêu


[2].
Tại các vùng biển ven bờ, các đảo của nước ta, hiện nay đã phát hiện được khoảng
800 loài rong biển [3]. Ở Phú Yên, đã có một số nghiên cứu về rong biển, trong các nghiên
cứu cơng bố chính thức cho tỉnh Phú n có 34 lồi gồm 6 lồi Tảo lam (Cyanophyta),
8 loài Rong lục (Chlorophyta), 9 loài Rong nâu (Phaeophyta) và 11 loài Rong đỏ
(Rhodophyta) [3]. Trong khi các tỉnh lân cận thuộc vùng Trung Bộ và Nam Trung Bộ
cho thấy, tính đa dạng lồi rong biển khá cao như Quảng Ngãi có 190 lồi, Bình Định
78 lồi, Khánh Hịa 516 lồi, Ninh Thuận 121 lồi, Bình Thuận 210 lồi [3]. Chính vì
vậy, câu hỏi đặt ra trong đề tài luận án này là có bao nhiêu lồi rong biển, đặc trưng phân
bố của loài, và sảnlượng của một số lồi rong có giá trị làm thực phẩm, dược phẩm, ... được
ghi nhận ở vùng biển ven bờ tỉnh Phú Yên?
Để có thể trả lời câu hỏi trên, nghiên cứu sinh xây dựng đề tài luận án:
“Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển tỉnh Phú Yên” với các
mục tiêu và nội dung như sau:
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Mục tiêu lâu dài:
Góp phần nghiên cứu khu hệ rong biển Việt Nam
Mục tiêu trước mắt:
- Xác định thành phần loài rong biển và các đặc trưng phân bố của chúng.
- Đánh giá được các lồi rong biển có tiềm năng kinh tế cơ sở để thiết lập và quản lý các
khu vực khai thác, bảo tồn các loài rong biển ở tỉnh Phú Yên.


2
Các nội dung nghiên cứu chính của luận án
- Để thực hiện được các mục tiêu trên, các nội dung nghiên cứu đã được thực hiện bao

gồm:
1. Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm phân bố rong biển.
2. Xác định các lồi rong biển có tiềm năng kinh tế và phân tích thành phần hóa học của

một số lồi rong kinh tế.
3. Lập bản đồ phân bố không gian và ước tính sinh khối của một số lồi rong kinh tế ở
tỉnh Phú Yên.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
-Về tính đa dạng sinh học, rong biển tỉnh Phú n chưa có một nghiên cứu tồn diện và
hệ thống, chính vì vậy dữ liệu về đa dạng sinh học rong biển ở tỉnh Phú Yên nơi có các
hệ sinh thái rất đa dạng và đặc thù là sự đóng góp quan trọng cho dữ liệu đa dạng sinh
học Nam Trung Bộ và Việt Nam.
- Nghiên cứu về hàm lượng các hoạt chất có giá trị kinh tế từ rong biển luôn luôn là dữ
liệu được trông chờ nhằm bổ sung số lượng các lồi rong có giá trị kinh tế.
- Dữ liệu hình ảnh của PlanetScope và Sentinel 2 cùng các kỹ thuật viễn thám áp dụng
DII, BRI cải tiến kết hợp với lấy mẫu tại hiện trường để lập bản đồ phân bố không gian và
ước tính sinh khối của rong biển có ý nghĩa về mặt học thuật.
Ý nghĩa thực tiễn
- Các dữ liệu khoa học có được từ đề tài sẽ cung cấp cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển
nguồn lợi cũng như hệ sinh thái rong biển tỉnh Phú Yên.
-Các dữ liệu về sinh hóa và phân bố rong biển giúp cho Phú Yên có cơ sở khoa học để
hoạch định các chính sách, đối tượng nhằm khai thác và phát triển bền vững nguồn lợi
rong biển của tỉnh.


3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển trên thế giới
Nghiên cứu đa dạng sinh học của rong biển cũng như các loài thực vật khác được bắt
đầu đẩy mạnh từ khi hệ thống học các sinh giới do Carl Linnaeus đề xuất [4]. Các nghiên
cứu phân loại học rong biển và hệ thống học rong biển được bổ sung và đóng góp bởi
nhiều nhà khoa học trong giai đoạn thế kỉ 17 đến 19 gồm Gmelin [5]; Forsskål [6]; Turner
[7 ]; Mertens [8]; Agardh [9]; Lamouroux [10]; Greville [11].

Vào những năm cuối thế kỉ 19 và những năm đầu thế kỉ 20, các nghiên cứu về
những khía cạnh khác nhau của rong biển như: phân loại, khu hệ, nguồn lợi, nuôi trồng và
sử dụng... được mở rộng trên nhiều vùng địa lý khác nhau ở hầu hết các châu lục với
những cơng trình của các tác giả nước ngồi đáng phải kể đến là: Okamura [12], Dawson
[13], Taylor [14], Chapman [15], Tseng [16], Tseng và nnk. [17], Yoshida [18], Xia
Bangmei và Zhang junfu [19]; Trono và nnk. [20], Kim và nnk. [21]; Lüning và nnk,
[22] ; Yamanaka và Akiyama [23]; Titlyano và Titlyanova [24].
1.1.1. Về hệ thống học.
Cho đến nay, trên thế giới đã phát hiện được khoảng 12.000 loài rong biển (>
7.000 loài rong đỏ; > 2.000 loài rong nâu; khoảng 1.500 rong lục; và áng chừng 1.500 loài
vi khuẩn lam). Dựa theo cấu trúc, rong biển được chia thành 2 nhóm là đơn bào và đa
bào [25]. Các loài rong biển được sắp xếp thành 4 ngành: 1 - Ngành khuẩn lam
(Cyanobacteria); 2 - Ngành rong Nâu (Phaeophyta); 3 - Ngành rong Đỏ (Rhodophyta); 4Ngành rong Lục (Chlorophyta).
1.1.2. Về nuôi trồng rong biển
Đối tượng : Trên thế giới có nhiều nước (Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Mỹ, Canada, Chilê) đang trồng rong biển ở quy mô lớn với tổng sản lượng hàng năm
khoảng 30,4 triệu tấn [26]. Các lồi rong được ni trồng chủ yếu thuộc khoảng 30 chi
Agardhiella,

Eucheuma,

Gelidium,

Gigartina,

Gracilaria,

Hydropuntia,

Hypnea,


Kappaphycus, Meristotheca, Porphyra (ngành rong Đỏ - Rhodophyta); Saccharina,
Laminaria, Undaria,Cladosiphon (ngành rong Nâu - heterokontophyta hay Phaeophyta) và

Monostroma, Ulva, Caulerpa (ngành rong Lục - Chlorophyta). Các loài thuộc các chi
Agardhiella,

Gelidium,

Gigartina,

Porphyra,

Saccharina,

Laminaria,

Undaria,

Monostroma Ulva thường được nuôi trồng ở vùng biển ơn đới cịn các lồi thuộc các


4
chi Eucheuma, Gracilaria, Hydropuntia, Hypnea, Kappaphycus, Cladosiphon, Caulerpa
được nuôi trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới [27]. Đặc biệt là Philliphine,Tanzania,
Indonesia đã và đang trồng loài rong Sụn (K. alvarezii), rong Kì lân (Eucheuma spp.) rất
thành cơng bằng phương pháp trồng trên nền đáy (fixed off-bottom method) và phương
pháp giàn nổi (floating method) [24]. Philiphine đã sản xuất khoảng 1.840.832 tấn tươi
rong sụn mỗi năm [28].
Các mơ hình trồng rong biển

+ Trong ao, đầm: trồng các loài Gracilaria spp., Kappaphycus alvarezii,
Caulerpa lentillifera bằng hình thức trồng trên nền đáy, dây hoặc lưới.
+ Trong hồ, bể chứa: mơ hình trồng rong trong hồ hoặc bể chứa (bằng bê tông
hoặc composit) được áp dụng từ những năm 70 ở Canada và Hoa Kỳ [24], hiện nay đã
mở rộng ra nhiều nước khác như Israel, Mexico, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản [29].
+ Trồng rong biển kết hợp ni các lồi hải sản khác: phương pháp nuôi ghép
các đối tượng hải sản (thường là tôm, cá, thân mềm) để nâng hiệu quả ni trồng. Các
chất hữu cơ dư thừa trong q trình nuôi (amoni, nitrat và phosphat) là nguồn hữu cơ cung
cấp cho rong biển, rong biển hấp thụ những chất này và làm môi trường vùng nuôi trở nên
trong sạch hơn. Như vậy, không những chỉ tăng hiệu quả kinh tế trong ni trồng mà cịn
góp phần bảo vệ, cải tạo mơi trường nước biển, giảm ơ nhiễm vì thế có thể duy trì cân
bằng tự nhiên trong các vùng ni tập trung, mật độ cao [30, 31].
1.1.3. Sử dụng rong biển
Từ lâu rong biển được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: làm nguyên liệu cho sản xuất
thuốc; chiết một số loại keo (agar, alginate, carrageenan), sản xuất khí đốt, phân bón,
xử lý mơi trường và làm thức ăn như một dạng thực phẩm xanh cho con người [32, 33].
Dùng làm dược liệu
Mặc dù rong biển đã được sử dụng trong dân gian từ rất lâu nhưng trong khoảng ba
thập kỷ gần đây mới được nghiên cứu sâu hơn [33]. Rong biển có chứa nhiều hợp chất
có hoạt tính sinh học cao như các sắc tố, các polysaccharid, lipit dự trữ, các vitamin... có
tiềm năng ứng dụng cao trong lĩnh vực y dược. Một số vùng ven biển, người dân đã biết
sử dụng rong biển như một loại dược liệu thông thường để chữa một số bệnh đơn giản hay
dùng để bồi bổ sức khỏe (tăng tuần hoàn thận, bài tiết thẩm thấu độc tố, chống đông máu,
chống tạo huyết khối...) [34]. Ngồi các nhóm có hoạt tính sinh học cao như trên, trong
rong biển còn chứa nguồn polysaccharit (alginate, agar và carrageenan) rất có ý nghĩa


5

trong ngành y dược agar là môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sản xuất thuốc nhuận tràng, làm

vỏ bọc cho những loại thuốc khó uống...; alginates được sử dụng trong điều trị bệnh tim
mạch, chống đơng máu, chống oxy hóa và hạ huyết áp...; carrageenan hoạt động như một
dạng sợi hòa tan, hấp thụ nước và làm chậm lại sự rỗng của dạ dày giúp chữa tiểu
đường, kiểm nghiệm các loại thuốc mới.... [34]. Từ rong biển có thể sản xuất một số loại
thuốc (chữa lao, viêm khớp, cảm lạnh, cúm, giun sán dịch chiết từ hai loài Dumontiaceae
sp.1 và D. sp.2 (rong Đỏ) có khả năng ức chế virus herpes simplex; một số loài thuộc chi
Corallina đang được sử dụng sản xuất xương thay thế; polysaccharides trong tảo bẹ có
thể có chứa các chất làm giảm tỷ lệ mắc ung thư vú [24]. Trung Quốc là nước đã có
nhiều kinh nghiệm dân gian trong việc sử dụng rong biển làm thuốc chữa bệnh. Một số
loài rong biển thường được sử dụng (Saccharina japonica - tên thương phẩm: Laminaria
hoặc haidai; Ecklonia kurome; một số loài thuộc chi Sargassum – haizao) và Porphyra có
tác dụng để điều trị ung thư (ức chế khối u bằng polysaccharides mạch dài); Saccharina
khô dùng để làm giãn cổ tử cung. Một số lồi khác có thể hỗ trợ điều trị sưng các mô mềm
(u nang buồng trứng, khối u ở vú, sưng hạch bạch huyết…) [24].
Làm nguyên liệu chiết các loại keo (là các polysaccharit).
Chiết alginate: Phần lớn các loài rong Nâu, đặc biệt các loài thuộc chi Sargassum
được dùng làm nguyên liệu chiết alginate. Hiện tại, trên thế giới đã phát hiện được khoảng
400 loài Sargassum, phân bố rất rộng rãi ở các vùng khí hậu khác nhau nhưng các lồi ở
vùng nước lạnh (Bắc và Nam bán Cầu) có giá trị hơn ở các vùng nước ấm. Một số chi khác
(Turbinaria, Chnoospora) cũng được dùng để chiết alginate nhưng không nhiều. Hầu hết
các loài rong Nâu dùng để chiết alginate là loài tự nhiên (chưa ni trồng được trừ
Sargassum japonica) [24].
Chiết agar (nhóm agarophytes): Nhóm này gồm các chi Gelidium, Gelidiella,
Gracilariopsis và Gracilaria, trong đó Gelidium có giá trị cao hơn. Trước đây, phần lớn
agar-agar được chiết từ Gelidium (Pháp, Indonesia, Hàn Quốc, Mexico, Morocco, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha), một lượng nhỏ từ Gracilariopsis (Chile) và từ Gelidiella (Ấn Độ).
Ngày nay, việc phát triển nuôi trồng Gracilaria thành những vùng nguyên liệu tập trung
đã giúp cho nền công nghiệp sản xuất agar-agar ngày càng phát triển và đáp ứng được
nhu cầu của thế giới [24]. Trong số hơn 100 loài rong Câu được biết hiện nay [24], ngoài
việc được sử dụng làm nguồn ngun liệu chính cho cơng nghiệp sản xuất agar, chúng còn

được dùng làm thực phẩm cho con người và động vật t h â n m ề m như Bào ngư [35]. Sản


6
lượng rong Câu hàng năm trên thế giới khoảng 74.870 tấn khơ, chiếm 70% tổng sản lượng
các lồi rong Đỏ có chứa agar (Gelidium, Gelidiella, Pterocladia, Ahnfeltia) [33]. Phần
lớn sản lượng rong Câu là từ ni trồng với các lồi chủ yếu: Gracilaria verrucosa
(Italya); G. lemaneiformis (Mexico, Brazil), G. chilensis (Chile); H. edulis (Ấn Độ); G.

pacifica (Mexico); G. cornea (Brazil); G. secundata; G. truncata (New Zealand); G.
changii (Malaysia), G. fisheri (Thái Lan), G. asiatica, G. tenuistipitata, G. blodgettii
(Trung Quốc). Phương pháp trồng chủ yếu là trải giống trên nền đáy, treo trên dây
hoặc lưới bằng nguồn giống sinh sản dinh dưỡng. Năng suất rong Câu cao nhất ở Chile
(30 tấn khô/ha/năm); Ấn Độ (20 tấn khô/ha/năm); Italya (10 tấn khô/ha/năm); Trung Quốc
(3 tấn khơ/ha/năm). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rong Câu khoảng 3-8%/ngày [24,

33].
Chiết carrageenan (nhóm carrageenophytes): Lồi đầu tiên được sử dụng để sản xuất
carrageenan là ở Pháp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và phía Đông của Canada từ
nguyên liệu là Chondrus Crispus [24]. Trong những năm gần đây, carrageenan được chiết
chủ yếu từ các loài thuộc chi Eucheuma (Eucheuma Cottonii và E. spinosum) hay
Kappaphycus (K. alvarezii). Philippines là nước ngay từ những năm 70 đã cung cấp
lượng nguyên liệu rất lớn để chế biến carrageenan, trong đó có chứa những dạng
carrageenan đặc biệt (kappa-carrageenan, iota- carrageenan) có rất nhiều ứng dụng và sử
dụng rất rộng rãi. Hiện nay, ngoài Philippines, một số nước khác (Indonesia và Tanzania)
cũng trồng Eucheuma Cottonii và E. spinosum còn Kappaphycus alvarezii được trồng ở
Việt Nam, Thái Lan, Campuchia... [24].
Dùng làm thực phẩm cho người
Laminaria japonica (Kombu hoặc haidai): Kombu (tiếng Nhật) là hỗn hợp của
một số loài thuộc chi Laminaria (Laminaria longissima, L. japonica L. angustata, L.

coriacea và L. ochotensis). Các loài này phân bố tự nhiên ở các đảo phía bắc Hokkaido,
vùng dưới triều độ sâu 2 - 15 m, nhiệt độ khoảng 3 - 20°C [16,36,37]. Laminaria phân bố
tự nhiên ở Nhật Bản và Hàn Quốc sau đó được di nhập và ni trồng rất thành cơng tại
Trung Quốc từ năm 1927[24].
Undaria pinnatifida (Quandai-Cai): Loài Undaria pinnatifida là lồi bản địa vùng
Đơng Bắc Á được tìm thấy phổ biến ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc (vùng triều và
dưới triều, nhiệt độ (5 - 15°C). Loài này cũng ghi nhận được tại Pháp, New Zealand,
và Úc. Hiện nay cả hai lồi Laminaria và Undaria được ni trồng và sử dụng ở cả Bắc


7
và Nam Bán Cầu tại các quốc gia: Argentina, Úc, Canada, Chile, Ireland, Na Uy,
Mexico, Nam Phi, Vương quốc Anh (Scotland và Bắc Ireland) và Hoa Kỳ [20].
Hizikia fusiforme (Hizili): Hizikia fusiforme phân bố tự nhiên ở Nhật Bản (phía
nam Hokkaido và Honshu) và đang được nuôi trồng ở Hàn Quốc [36,38].
Cladosiphon okamuranus (Mozuku): Cladosiphon okamuranus được thu hoạch tự
nhiên ở các đảo phía Nam Nhật Bản (Kagoshima và Okinawa). Trong khoảng từ cuối tháng
10 đến tháng 4 (năm sau) [36].
Chondrus crispus (Irish Moss hoặc carrageenan Moss): Đây được coi là nguồn
nguyên liệu sản xuất Carrageenan lâu đời tại Ireland và một số nước thuộc châu Âu.
Chondrus crispus thường được xuất khẩu sang Nhật Bản, không ăn trực tiếp mà thường
dùng để làm bánh vani [24].
Palmaria palmata (Dulse): Sinh trưởng chủ yếu ở vùng triều (đôi khi dưới triều) ở
Ireland, bờ của vịnh Fundy (Đông Canada) và ở đảo Manan [39].
Alaria esculenta (Winged Kelp): là lồi có kích thước lớn, phân bố ở vùng triều
nước lạnh. Tại Ireland, Scotland (Vương quốc Anh) và Iceland, Alaria esculenta được ăn
tươi hoặc nấu chín (nhiều Protein, các kim loại vi lượng và vitamin, đặc biệt niacin)

[24].
Pyropia (=Porphyra) spp. là nguồn thực phẩm với tên thương mại là Nori và

Laver. Rong thường được sấy khơ và cán thành tấm mỏng màu tím - đen. Ở Nhật Bản,
màng này thường được bao lấy cơm và cá sống, một món ăn phổ biến. Năm
1999, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã sản xuất được khoảng 1.000.000 tấn tươi
(1.200 USD/tấn, cao nhất trong các loài rong biển [24].
Gracilaria spp. (rau /rong Câu): Là nguyên liệu chủ yếu để sản xuất agar và được sử
dụng như một loại rau tại Hawaii (Hoa Kỳ) trong nhiều thập kỷ. Tại Indonesia, Malaysia,
Philippines và Việt Nam, các loài Gracilaria được người dân ven biển dùng làm thực
phẩm (đông sương /thạch, nộm) [24].
Caulerpa lentillifera (rong Nho): Chi Caulerpa có nhiều lồi nhưng hai loài (C.
lentillifera và C. racemosa) được sử dụng làm thức ăn phổ biển hơn (salad tươi). Chi
Caulerpa thường phân bố ở vùng biển nông, đáy cát hoặc bùn. Lồi C. lentillifera đang
trồng rất thành cơng ở các đảo Mactan, Cebu (miền Trung Philippines) phục vụ thị trường
trong nước (Cebu, Manila) và xuất khẩu sang Nhật Bản [40].


8
Monostroma và Ulva (= Enteromorpha). Hai chi này đang được nuôi trồng chủ yếu
ở Nhật Bản (bước đầu ở Hàn Quốc nhưng kết quả chưa cao). Monostroma latissimum phân
bố tự nhiên trong các vịnh phía Nam Nhật Bản, trên nền đáy ở vùng nước cạn, tĩnh
(vịnh và cửa sông) hoặc sâu hơn M. latissimum có chứa khoảng 20 % protein, một số loại
vitamin và khoáng chất [36].
Các ứng dụng khác của rong biển.
Làm phân bón: Rong biển đã được sử dụng làm phân bón từ lâu bằng cách trộn
rong biển với cát, để cho thối sau đó bón cho cây trồng (ở Pháp, thường dùng rong Nâu còn
Argentina dùng rong Lục). Ngoài khả năng cung cấp một số nguyên tố vi lượng cho cây
trồng, phân bón từ rong biển cịn chứa một số loại keo có khả năng giữ nước và tăng độ
keo của đất (nhất là vùng đất cát) [24]. Các loài (Ascophyllum, Ecklonia và fucus) thường
được dùng như chất phụ gia điều hịa đất và phân bón vì trong rong biển có chứa
nhiều hợp chất nitơ, kali và photpho. Afrikelp là một dạng bột rong Nâu khô thương
mại, được bán như một loại phân bón (từ lồi Ecklonia maxima) ờ biển châu Phi và

Namibia [41]. Maerl là một loại phân bón có nguồn gốc từ rong Đỏ (Phymatolithon
calcareum và Lithothamnion corallioides). Hiện nay, có rất nhiều sản phẩm phân bón từ
rong biển với tên thương mại như Maxicrop (Vương quốc Anh); Goëmill (Pháp); Algifert
(Na Uy); Kelpak
66 (Nam Phi) và Seasol (Australia) [41,42].
Làm thức ăn gia súc: Từ lâu, con người đã biết sử dụng rong biển làm thức ăn cho
gia súc (cừu, bò, ngựa) ở các vùng ven biển, nhất là ở các nước châu Âu. Hiện nay,
rong biển làm thức ăn gia súc được sản xuất ở quy mô công nghiệp (dạng bột). Na Uy là
một trong những nước đầu tiên sản xuất thức ăn cho gia súc từ rong biển (loài Ascophyllum
nodosum). Một số nước khác cũng đang sử dụng rong biển theo hướng này: Pháp sử dụng
Laminaria

digitata;

Iceland

(Ascophyllum



Laminaria);

Vương

quốc

Anh

(Ascophyllum)…Rong biển tươi được nghiền nhỏ, sấy khô (70-80°C) đến khi độ ẩm cịn
khoảng 15% sau đó được được xay nhỏ hơn và bảo quản trong túi kín. Trong loại thức

ăn này có chứa các chất khống (kali, phốt pho, magiê, canxi, natri, clo và lưu huỳnh);
vitamin và các nguyên tố vi lượng (kẽm, coban, crom, molypden, niken, thiếc, vanadium,
flo và iốt) [24]. Kể từ cuối năm 1960 và đầu những năm 1970, Na Uy đã sản xuất khoảng
15.000 tấn bột rong biển làm thức ăn gia súc mỗi năm. Một số công ty thuộc các nước (Úc,

Canada, Ireland, Na Uy, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ) cũng đã phát triển sản phẩm của


9

mình theo hướng sử dụng rong biển làm chất phụ gia thức ăn cho cừu, trâu, bị, ngựa, gà,
dê, chó, mèo, chim... [15].
Làm thức ăn cho cá: Ở Australia, loài Macrocystis pyrifera (rong Nâu) và
Gracilaria edulis (rong Đỏ) từ lâu đã được sử dụng làm thức ăn cho tôm, cá tại Nam
Phi, Pyropia là thức ăn nuôi Bào ngư. Một số nước vùng Thái Bình Dương dùng
Palmaria mollis (tên thường gọi: Dulse) là thành phần chính ni Bào ngư đỏ (Haliotis
rufescens), Ulva lactuca (rong Lục) được làm thức ăn cho một loài Bào ngư (Haliotis
tuberculata và H. discus) [24].
Làm nhiên liệu sinh học: Năm 1974, hiệp hội khí đốt của Mỹ đã sản xuất thành
công nguồn nhiên liệu sinh học từ rong biển (lên men yếm khí tạo ra metan). Ngun tắc
chung là sử dụng các lồi có kích thước lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh và dễ thu hoạch
bằng máy móc (Macrocystis pyrifera). Một số lồi khác (Laminaria, Gracilaria,
Sargassum) cũng có thể là nguyên liệu sản xuất nhiên liệu [43,44].
Làm mỹ phẩm: Dịch chiết rong biển với các loại keo alginate và carrageenan có mặt
trong hầu hết các sản phẩm mỹ như kem dưỡng ẩm, bột tắm rong biển, kem bôi mặt .

[45].
Trồng rong biển kết hợp nuôi ghép với các lồi hải sản khác để làm sạch mơi
trường nuôi: Một hướng sử dụng quan trọng khác của rong biển là cải thiện chất lượng
nước trong việc nuôi trồng kết hợp trồng rong Câu với các đối tượng nuôi khác [35,46].

Việc nuôi trồng kết hợp như trên đã mang lại lợi ích to lớn cho cả kinh tế lẫn mơi
trường. Việc trồng rong Câu trong ao có nước thải nuôi cá bắt đầu ở Đài Loan từ năm
1960. Theo tính tốn, việc này rất có lợi cho cả rong biển mà còn cho cả cá. Rong biển
hấp thu chất hữu cơ do cá thải ra cịn mơi trường ni cá trở nên trong sạch. Việc nuôi
ghép (nuôi thủy sản kết hợp trồng rong biển) cũng bắt đầu hình thành và ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Tại Israel, một hệ thống tích hợp gồm: nước thải ni cá chuyển vào bể
trồng rong Lục - Ulva làm thức ăn nuôi Bào ngư. Việc nuôi kết hợp đã tạo ra giá trị thặng
dư trong tồn hệ thống (làm sạch mơi trường và giảm 10% tiền thức ăn cho hệ thống)
[24]. Ở Hawaii, rong Câu thường được trồng trong trại nuôi tôm để hấp thụ nước thải; tại
Brazil, trồng rong trong các lồng nuôi tôm; tại Chile, trồng Gracilaria với nuôi cá Hồi; ở
Pháp, trồng Gracilaria trong bể nuôi hàu; hoặc Canada và Hoa Kỳ, trồng Porphyra với
nuôi cá Hồi... [39, 46 - 50].


10
Xử lý nước thải: Có hai nguồn nước thải chính mà rong biển được sử dụng để làm
sạch là: nước thải nông nghiệp (chứa nhiều nitơ và photpho tổng số) và nước thải công
nghiệp (kim loại nặng).
Nước thải nông nghiệp: Hiện tượng phú dưỡng xảy ra khi hàm lượng các chất
dinh dưỡng trong môi trường nước vượt quá ngưỡng cho phép. Lúc đó, nhiều lồi rong
biển (nhất là các lồi hiển vi) phát triển rực rỡ, gây ra hiện tượng nở hoa làm giảm ôxy
trong nước và thải độc tố làm chết các lồi vật ni khác. Rong biển có thể được sử dụng
để hấp thụ các chất hữu cơ dư thừa này. Các loài rong Lục (Enteromorpha và
Monostroma); rong Đỏ (Gracilaria) có tính rộng muối nên có thể sử dụng trong cả nuôi
nước ngọt và nước mặn [51].
Nước thải cơng nghiệp: Các loại kim loại nặng tích lũy trong rong biển được phát
hiện khi sử dụng rong biển làm thực phẩm, nhất là các loài rong Nâu (Sargassum,
Laminaria, Ecklonia) và rong Lục (Ulva, Enteromorpha). Các loài Ecklonia maxima,
Flavicans lessonia và Durvillaea potatorum có khả năng hấp phụ các ion niken, chì, kẽm
và cadmium ở mức độ khác nhau (tùy loài và nồng độ ion kim loại). Trong alginate (chiết

từ rong Nâu), cellulose hấp thụ kim loại nặng nhưng không hịa tan nên có thể thu hồi các
kim loại này [27,52].
1.2. Nghiên cứu đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế rong biển ở Việt Nam.
1.2.1. Nghiên cứu đa dạng sinh học rong biển ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về rong biển giai đoạn trước năm 1954 hoàn toàn
do người nước ngoài thực hiện như: Loureiro 1790; Gaudichaud 1837; Petelot
1929 [dẫn theo 53]. Các tác giả trên mới chỉ nghiên cứu về thành phần loài của một vài
nhóm nhỏ ở mức độ lẻ tẻ từng khu vực (rong Câu ở Cửa Việt, rong biển ở cửa Bé, Nha

Trang).
Sau năm 1954, việc nghiên cứu này mới bắt đầu do các nhà khoa học Việt Nam
thực hiện v.v.. Một số cơng trình nghiên cứu đã được xuất bản như Rong biển Việt Nam phần phía Nam [54]; Rong biển Việt Nam - phần phía Bắc [55], Rong Mơ [56] Rong Câu
Việt Nam, nguồn lợi và sử dụng [57], Rong Lục (Chlorophyta)
– Các taxon vùng biển Việt Nam [58].


11
Hiện tại, ở Việt Nam đã phát hiện được khoảng 800 loài rong biển, thuộc bốn ngành:
Vi khuẩn lam (Rong Xanh lam = Cyanobacteria), rong Đỏ (Rhodophyta), rong Nâu
(Phaeophyta) và rong Lục (Chlorophyta) [3]. Trong đó, một số chi có số lượng loài nhiều
gồm các chi rong Câu (Gracilaria), rong Sụn (Kappaphycus) rong Mơ (Sargassum) và
rong Guột (Caulerpa) rong Đông (Hypnea), rong Mào gà (Laurencia), rong Cải biển
(Ulva), rong Võng (Dictyota), rong Quạt (Padina)[59].
1.2.2. Nghiên cứu nguồn lợi rong biển ở Việt Nam
Các cơng trình nghiên cứu về nguồn lợi rong biển ở Việt Nam Petelot (1929) có ghi
chép rong Câu ở Cửa Việt-Quảng Trị [53]. Các tác giả trên chỉ mới dừng lại ở mức độ
mô tả sơ lược loài rong Câu (Gracilaria confervoides _ G. asiatica) và phạm vi khảo sát
còn rất hẹp.
Ở miền Nam, trước 1975, chỉ có một cơng trình duy nhất đề cập tới nguồn lợi
rong biển, đó là cơng trình của Lương Cơng Kỉnh về kết quả điều tra nguyên liệu chế biến

đông sương (agar- agar) tại các tỉnh duyên hải miền Nam Việt Nam [53].
Ở miền Bắc, ngay từ những năm 1960 Trạm Nghiên cứu Biển Hải Phòng (nay là
Viện Tài nguyên và Môi trường Biển) và Trạm Nghiên cứu nuôi thủy sản nước lợ, nước
mặn thuộc Tổng cục Thủy sản (nay là cơ sở của Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I) là
những cơ quan đầu tiên được Nhà Nước giao nhiệm vụ điều tra đánh giá nguồn lợi rong
biển và nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc trồng rong Câu. Từ đó đến nay có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về rong biển đã được tiến hành ở nhiều vùng Quảng Ninh,
Hải Phịng, Thái Bình, Hà Nam, Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên – Huế...[60 - 69], các đối tượng nuôi chủ yếu là rong Câu (Gracilaria),
rong Sụn (Kappaphycus) và rong Guột (Caulerpa); nhóm tự nhiên là các chi rong Mơ
(Sargassum), rong Đơng (Hypnea), rong Mào gà (Laurencia)...
Chi rong Câu (Gracilaria): Ở Việt Nam, đã phát hiện được 19 loài và 1 thứ trong họ
rong Câu bao gồm 3 chi Gracilaria, Gracilariopsis và Hydropuntia (trước kia ba chi này
để riêng lẻ), đã được xác định và mơ tả. Trong số này, ba lồi được ni trồng rộng rãi và
có sản lượng lớn là rong Câu chỉ vàng (Gracilaria tenuistipitata), rong Câu cước
(Gracilariopsis bailinae) và một lượng nhỏ rong Câu thắt (G. firma) [53, 70- 73]. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy, ngoài nguồn lợi rong Câu khai thác tự nhiên không lớn, nguồn lợi
chính của chi này là các lồi ni trồng tập trung ở một số vùng: đầm nhà Mạc (Quảng
Ninh), Đình Vũ, Cát Hải, Tràng Cát (Hải Phòng), Thụy Tân (Thái Bình), Hải Hậu (Nam


12
Định), Hoằng Hóa (Thanh Hóa), Xuân Hội, Kỳ Hải (Hà Tĩnh), sơng Gianh (Quảng
Bình), phá Tam Giang (Thừa Thiên- Huế), Hội An (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng
Ngãi), Đề Gi, Cồn Chim (Bình Định), đầm Ơ Loan, Tuy An (Phú n), Ninh Hòa, Cam
Ranh (Khánh Hòa), đầm Nại (Ninh Thuận), bến Súc (Bà Rịa- Vũng Tàu), Hòn Chồng

(Kiên Giang) [70]. Hiện nay, sản lượng khoảng 7.000 tấn khô (chủ yếu từ 3 loài: rong
Câu chỉ vàng (Gracilaria tenuistipitata), rong Câu thắt (G. firma) và rong Câu cước
(G. bailinae), sản xuất khoảng 430 tấn agar/năm [57].

Chi rong Sụn (Kappaphycus): Ở Việt Nam, nhóm rong Sụn gồm có các lồi
Kappaphycus cottonii (Weber Bosse) Doty; Kappaphycus inermis (F.Schmitz) Doty và
Kappaphycus striatus (F.Schmitz) Doty có trữ lượng tự nhiên rất thấp, phân bố rải rác ở
một số tỉnh miền Trung (Thừa Thiên – Huế, Quảng Ngãi, Khánh Hịa) [74]. Lồi
Kappahycus alvarezii Doty hiện đang được ni trồng tại một số tỉnh miền Trung
(Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận) là lồi được nhập nội từ Philippine [73,75].
Chi rong Guột (Caulerpa): Ở Việt Nam, nhóm rong Guột gồm một số loài:
Caulerpa macrodisca Decne; C. racemosa (Forsk.) J. Ag. Lồi đang ni trồng rộng rãi là
Caulerpa lentillifera [24]. Rong nho biển (Caulerpa lentillifera) là loài rong biển mới được
di nhập về nuôi trồng ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Chi rong Mơ (Sargassum): Hiện nay rong Mơ Việt nam xác định được khoảng 70
loài [3]. Mùa vụ chủ yếu của rong Mơ từ tháng 3 đến tháng 7 hàng năm, thời gian
sinh trưởng rong Mơ khác nhau tùy theo lồi, có một số lồi được ghi nhận sinh
trưởng tốt trong khoảng tháng 10 đến tháng 12 hàng năm. Rong Mơ có trữ lượng
khá lớn, ước tính đạt hơn 5000 tấn khô/năm, sản lượng rong này được thu hái tự
nhiên chủ yếu ở khu vực ven biển miền Trung. Sinh khối rong Mơ chỉ một phần nhỏ
tiêu thụ trong nước, còn lại chủ yếu xuất khẩu qua Trung Quốc theo đường tiểu
ngạch, vì thế giá trị lợi nhuận thu được rất thấp. Việc khai thác tự nhiên rong Mơ
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm, trong đó vấn đề bảo tồn và phát triển
nguồn lợi thủy sản, bảo tồn các hệ sinh thái ven bờ đã và đang là vấn đề nóng trong
những thời gian gần đây. Cần thiết có các quy định, chế tài để khai thác tài nguyên
này một cách bền vững nhất .
Chi rong Đông (Hypnea): Rong Đông là chi phân bố khá phổ biến ở ven biển nước
ta. Hiện đã phát hiện 12 lồi rong Đơng khác nhau: H. japonica, H. espiri, H. cervicornis…
[53, 76]. Rong Đông thường mọc trên nền đáy cứng từ vùng triều giữa đến phần trên


13
của vùng dưới triều. Mùa vụ sinh trưởng từ tháng 10 – 11 đến 5-6 năm sau, phát triển tốt
nhất vào tháng 3 – 4, tàn lụi vào các tháng hè. Các lồi rong Đơng là ngun liệu để

chế biến keo carragenan, agar, làm thuốc chữa bệnh, thức ăn cho người, gia súc và làm
phân bón [76, 77].
Chi rong Mứt (Pyropia = Porphyra): Hầu hết các loài thuộc chi này đều đã được
nhân dân vùng ven biển khai thác và sử dụng trực tiếp làm thực phẩm dưới dạng tươi
hay khơ từ rất lâu vì chúng có chứa hàm lượng protein cao (Protein: 17,92-36%; lipit:
0,9%; vitamin A: 1,28%; vitamin B1: 0,44%; vitamin B2: 2,07%; vitamin C: 1,0% và
nhiều các nguyên tố vi lượng khác như: canxi, photpho, natri, kali, kẽm...) [78]. Ở một số
nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…các lồi rong Mứt đã được trồng với quy mơ
cơng nghiệp và đạt được sản lượng lớn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu với giá
khoảng 14 USD/kg khơ, trong khi đó giá tại thị trường Việt Nam hiện thời khoảng
800.000 đến 1.000.000 đồng/kg. khô) [79]. Hiện nay diện tích phân bố của rong Mứt
ngày càng bị thu hẹp, sinh lượng và trữ lượng đều giảm và tại một số địa điểm đã từng có
rong Mứt đến nay rất khó tìm lại được (Hịn Dấu) [79].
Chi rong Đá (Gelidiella) : Hiện nay 3 loài thuộc chi rong này được ghi nhận cho
Việt Nam là Gelidiella acerosa, G. myrioclada, và G. lubrica. Mùa vụ thường vào tháng
10 – 11, đạt sinh khối cao nhất trong tháng 4 – 5, sinh sản trong thời gian từ tháng 3 đến
tháng 5. Đây là nhóm rong kinh tế đang được khai thác làm nguyên liệu chế biến Agar và
thực phẩm [80].
Ngoài những lồi và chi kể trên, một số chi có thể nuôi trồng thương phẩm nhưng
chưa được quan tâm đến là rong Giấy (Monostroma), rong Guột chùm (Caulerpa racemosa
), rong Cải biển (Ulva). Hầu hết các loài và các chi kể trên đều có thể nghiên cứu, xây
dựng mơ hình ni trồng tại các đảo tiền tiêu của nước ta [53].
1.2.3. Nghiên cứu các hoạt chất sinh học và phần hóa học của rong biển
Trong rong biển có nhiều hoạt chất khác nhau nhưng lớn nhất là các loại keo như
agar, carrageenan, alginat và manitol [81 - 83].
Hàm lượng agar trong rong Câu chỉ vàng ở khu vực Hải Phòng đạt 30 – 40% trọng
lượng khơ, ở đầm Ơ Loan (Phú Yên): 23,09 – 38,47%, ở phá Tam Giang (Thừa Thiên
Huế): 24 – 29%. Rong Câu trồng trong ao đầm có bón phân cho hàm lượng agar và sức
đơng cao hơn rong mọc hoang dại. Ví dụ: ở Cát Hải vào tháng



14
5/1974 rong Câu mọc hoang dại cho hàm lượng agar 30,64%, sức đơng 121 g/cm2,
nhưng ở rong Câu trồng có bón phân, 2 chỉ tiêu trên tương ứng: 43,69% và 263g/cm2 [70].
Hàm lượng axit alginic trong các loài rong Mơ ở khu vực phía Bắc (vùng Hải
Phịng) đạt giá trị trung bình khoảng 28 - 30% khi hình thành cơ quan sinh sản
(Receptacles); 40% ở vùng ven biển miền Trung (Phú n, Khánh Hịa, Bình Thn,
Ninh Thuận ; 33,24 - 43,75%, đạt giá trị cao trong tháng 3 - 4. Hàm lượng mannitol
trong rong Mơ miền Bắc 4%, miền Trung (Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận ): 6,24 16,74%. Lồi Sargassum mcclurei có hàm lượng mannitol cao hơn cả (9,3 - 16,71%) và
đạt tối đa trong tháng 5. Hàm lượng iốt của các loài rong Nâu ở ven biển miền Nam dao
động từ 0,05 - 0,16%, ở miền Bắc: 0,25- 0,33% (nhiều hơn các thực vật trên cạn vài trăm
lần). Hàm lượng iốt thay đổi theo mùa rõ rệt: mùa đông cao hơn mùa hè [82,83].
Hàm lượng protein của các lồi rong Đỏ phía Nam biến thiên trong khoảng 5,05 22,2%, rong Nâu: 8,05 - 21,11%, rong Lục: 15,94% [82,83] . Ở miền Bắc, rong Mứt
Porphyra crispata (vùng Sầm Sơn) cho 28,4% protein, rong Câu dẹp G. textorii (Hòn Dấu):
18,58%, rong Mơ mềm S. tenerrium (Hòn Dấu): 22,14%, rong Bún ruột Enteromorpha
intestinalis (Hịa Nghĩa): 15,94%. Trong lồi Porphyra crispata đã phát hiện 13 loại axit
amin. Tổng lượng khoáng của các loài rong dao động khá lớn: ở loài rong Nâu, tổng
lượng khoáng thay đổi 15,51 - 46,30%, rong Đỏ 12,25 - 57,63%. Ở lồi rong Mơ S.
mcclurei có lượng khống cao nhất (42,8%) trong tháng 12, thấp nhất (21,1%) vào tháng 3.
Tổng lượng khoáng trong rong biển cao hơn hẳn các lồi ngũ cốc và rau quả, trong đó chủ
yếu là canxi, kali, lưu quỳnh. Trong các loài rong Mơ vùng biển Khánh Hòa - Thuận Hải
đã phát hiện hàng loạt các nguyên tố hóa học: Al, Si, Mg, Ca, Sr, Ba, Fe, Mn, Ti, Co,
Ni, Cr, Sn, As, Bi, Cu, Pb, Zn. Các nguyên tố Mg, Al, Ba, Sr, Fe đạt tới n.10-1% (theo
tro). Mn, Cu, Zn, As, Ti đạt tới n.10-2%. Còn Co, Mo, Cr, Sn, Pb, Ni đạt tới n.10-3%

[82,83].
Trong rong biển có rất nhiều các hợp chất khác nhau gồm: các loại sắc tố, steroid,
protein, enzyme, lectin, vitamin, các chất kích thích sinh trưởng và các nguyên tố hóa
học [25, 84,85].
1.2.4. Nghiên cứu sử dụng rong biển

Sử dụng rong biển để xử lý ô nhiễm môi trường nước biển: Kết quả nghiên cứu
trên loài rong Câu cước (G. bailiniae) và rong Sụn (Kappaphycus alvarezii) bước đầu đã


15
cho thấy, cả hai loài đều thể hiện khả năng hấp thụ cao đối với các hợp chất muối nitơ và
phospho trong nước thải ưu dưỡng [86], dùng hệ thống nuôi kết hợp Hàu và rong Câu trong
việc xử lý nước thải ni Tơm Sú cho thấy rong Câu có thể đóng góp tới 12% trong việc làm
sạch nước thải [87], đã sử dụng rong Sụn trong việc nuôi lồng bè đa đối tượng gồm cá Mú,
vẹm Xanh, rong Sụn và Bào ngư cho thấy vẹm Xanh, rong Sụn góp phần cải thiện
môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế của mơ hình. Ba lồi rong Câu đang ni
trồng phổ biến ở Việt Nam (rong Câu chỉ vàng, rong Câu cước và rong Câu thắt) có khả
năng hấp thụ dinh dưỡng và có thể lọc 100% nước thải từ ao nuôi tôm [70].
Sử dụng rong biển để hấp thụ khí CO 2 dư thừa góp phần chống hiệu ứng nhà
kính và biến đổi khí hậu: Ngồi vai trị giá trị nguồn lợi rong biển cịn có vai trị
chức năng sinh thái quan trọng. Vùng ven biển từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên – Huế đã
phát hiện tới 90 loài rong biển có khả năng hấp thụ lượng CO 2 rất lớn, góp phần làm
giảm hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu [88,89].
Sử dụng rong biển để sản xuất nhiên liệu sinh học: Một số loài rong biển (trước kia
coi là rong tạp và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng) có thể sử dụng để sản xuất
nhiên liệu sinh học thay thế nguồn nguyên liệu dầu mỏ đang ngày càng khan hiếm

[90].
Sử dụng rong biển làm thực phẩm: Rất nhiều lồi rong biển của nước ta có thể sử
dụng làm thực phẩm như rong Cải biển (Ulva), rong Mứt (Porphyra), rong Đông (Hypnea),
rong Giấy (Monostroma). Nhân dân vùng Đầm Hà, Hà Cối, Vĩnh Thực, Cái Chiên đã sử
dụng rong Câu để làm nộm, nấu thạch; một số nơi sử dụng rong Đông, rong Chạc, rong
Cải biển nấu súp hoặc làm salad; ngoài ra, rong Mơ được sử dụng khá phổ biến để làm
nước giải nhiệt [53].
Sử dụng rong biển làm thức ăn gia súc và phân bón: Nhân dân vùng ven biển nước ta

đã thu nhiều loài thuộc ngành rong Lục và rong Đỏ để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm
[53]. Vùng Trà Cổ, Vạn Hoa dùng rong Câu thừng, rong Câu gậy làm thức ăn cho lợn. Ngư
dân vùng ven biển (Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa) dùng rong Bún, rong
Đi chó làm thức ăn cho lợn. Nhìn chung, những lồi rong biển làm thức ăn cho người
đều có thể chế biến thành thức ăn gia súc [53]. Nhân dân vùng đảo Cái Chiên, Vĩnh
Thực, Cô Tô, Cái Bầu, Quan Lạn, Cát Bà thường lấy rong Mơ bón cho lúa, khoai sắn,
đậu, cải củ, mía, cà phê, cà chua, dưa hấu, … [53].


16
Sử dụng rong biển làm thuốc: Ở Việt Nam, việc sử dụng rong biển làm thuốc cịn ít
mà ngun nhân chính là do cơng nghệ bào chế phức tạp. Các thí nghiệm thử lâm sàng cho
thấy chế phẩm từ rong biển có tác dụng phịng trừ giun, sán ngang với Piperazine - một
thuốc giun nhập ngoại [53].
Gần đây, cịn có một số nghiên cứu khác về chiết một số chất (axit arachidonic,
phenolic) dùng làm thực phẩm chức năng [91,92].
1.2.5. Nuôi trồng rong biển
Hiên tại, ở Việt Nam (chủ yếu tại miền Trung) đang ni trồng một số lồi rong
biển: rong Sụn (Kappaphycus alvarezii Doty); rong câu Cước (Gracilaria bailiniae) và
rong Nho (Caulerpa lentillifera ).
Trồng rong Câu: Hầu hết sản lượng rong Câu ở Việt Nam được sử dụng làm nguyên
liệu chiết agar. Hiện nay, diện tích đang ni trồng rong Câu khoảng 9.830 ha, chiếm
khoảng 50% của diện tích có khả năng ni trồng (18.050 ha). Diện tích của các đầm
trồng rong ở các tỉnh miền Trung thường từ 1-2 ha, còn ở các tỉnh miền Bắc và miền Nam
diện tích lớn hơn (5-25 ha), với sản lượng 47.700 tấn tươi (7.000 tấn khơ), năng suất trung
bình khoảng 5 tấn tươi/ha/năm. Việc khai thác nguồn lợi rong Câu tự nhiên chỉ tập trung
vào một số các đối tượng rong Câu chỉ, rong Câu thắt, rong Câu chân vịt, rong Câu
cong, rong Câu đá, rong Câu rễ tre, rong Đơng móc câu (khoảng 792,5 tấn tươi), chiếm
khoảng 3% tổng sản lượng. Hiện nay các cơ sở chế biến agar (chủ yếu ở Hải Phịng và
Thái Bình) sử dụng khoảng 5.100 tấn rong khô/năm, công suất 60-150 kg agar/ngày (cơ

sở lớn) và 10-20 kg agar/ ngày (cơ sở nhỏ). Tổng sản lượng Agar hiện nay là 430 tấn/
năm nhưng chất lượng còn thấp (hàm lượng 18 - 34% và sức đông 310-774g/cm2).
Phần lớn lượng agar này được xuất khẩu qua các nước Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn
Độ, khoảng 35-40 tấn agar/năm [93].
Rong Câu chỉ vàng (Gracilaria tenuispititata Zhang et Xia), được ni trồng rộng rãi
tại hầu hết các tỉnh phía Bắc (từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên – Huế) bằng nhiều mơ hình
khác nhau nhưng phần lớn là trồng quảng canh kết hợp với ni một số lồi hải sản khác
trong các đầm nước lợ [53,65,94,95].
Trồng G. heteroclada tại các tỉnh miền Trung và miền Nam chủ yếu ở các tỉnh
Phú Yên và Bà Rịa - Vũng Tàu. Những loài này, không những chỉ trồng thâm canh và bán
thâm canh, mà cịn ni ghép với tơm. Hiện nay, diện tích trồng G. heteroclada khoảng
100 ha, năng suất là 1,5 - 2,0 tấn khơ/ ha. Đây là lồi có hàm lượng agar và sức đông cao để


×