Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

giao an day on Ngu Van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.79 KB, 76 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I. ÔN TẬP TIẾNG VIỆT I. Các biện pháp tu từ đã học trong chương trình THCS. 1. So sánh . Là phép tu từ đối chiếu sự vật này với sự vật khác giữa chúng có nét tương đồng( giống nhau) nhằm tăng tính biểu cảm cho sự diễn đạt. VD. -Mặt trời xuống biển như hòn lửa. - Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. 2. Ẩn dụ. Là phép tu từ dùng tên gọi sự vật này để gọi tên cho sự vật khác giữa chúng có nét tương đồng nhằm tăng sự gợi hình, gợi cảm. VD. - Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. 3. Nhân hoá. Là phép tu từ biến những sự vật không phải là người mang những đặc điểm, tính chất như con người. VD. - Sóng đã cài then, đêm sập cửa. - Hoa cườ,i ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. 4. Hoán dụ. Là phép tu từ dùng tên gọi sự vật này để gọi tên cho sự vật khác giữa chúng có nét tương cận( gần gũi) nhằm tăng sự gợi hình, gợi cảm. VD. - Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. 5. Điệp ngữ. Là phép tu từ trong đó người ta nhắc đi nhắc lại một từ ngữ nào đó nhằm tạo tính nhịp nhàng, cân đối hoặc nhấn mạnh, mở rộng ý nào đó. VD. - Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng. 6. Chơi chữ. Là biện pháp vận dụng những đặc điểm về hình thức, về nghĩa của từ ngữ để tạo ra những cách hiểu bất ngờ mang ý nghĩa hài hước hoặc châm biếm. VD. -Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. 7. Liệt kê. Là sắp xếp hàng loạt từ, cụm từ có ý nghĩa cùng loại để diễn tả đầy đủ hơn, sâu sắc hơn một thực tế khách quan hay một tư tưởng, tình cảm nào đó. VD. - Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước. 8. Nói quá. Là biện pháp phóng đại quy mô, tính chất, mức độ của sự việc hiện tượng được miêu tả nhằm nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức gợi cảm. VD: Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông cũng cạn... 9. Nói giảm ,nói tránh. Là cách diễn đạt tế nhị trong hoàn cảnh giao tiếp mà người nói không tiện nói ra thẳng vì sợ quá phũ phàng, gây cảm giác đau buồn hoặc xúc phạm đến người khác. VD : - Bác đã đi rồi sao Bác ơi. - Bác Dương thôi đã thôi rồi. - Cả một đời Bác có ngủ yên đâu. Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ. Bài tập vận dụng : 1.Phân tích cái hay của cách diễn đạt trong đoạn thơ sau: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập của Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi (Đoàn thuyền đánh cá -Huy Cận ) II : Đoạn văn và các phép liên kết trong đoạn văn. 1. Đoạn văn và cách trình bày nội dung trong một đoạn văn. a. Đoạn văn. Là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi vào đầu dòng đến chỗ dấu chấm xuống dòng. Mỗi đoạn văn trình bày một ý tương đối trọn vẹn. b. Câu chủ đề của đoạn văn( câu chốt) là câu thâu tóm được nội dung của cả đoạn văn . Nó diễn đạt ý chung nhất, khái quát nhất các câu còn lại có nhiệm vụ làm rõ nội dung cho câu chủ đề. Về vị trí, nó có thể đứng đầu hoặc cuối đoạn. VD : Mã Giám Sinh hiện lên trong đoạn trích là một kẻ bất nhân, vì tiền. Hắn bất nhân trong hành động, trong thái độ ứng xử với Kiều coi nàng như một.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> món đồ vật đem ra bán cân đong, đo đếm cả nhan sắc lẫn tài năng Đắn đo cân sắc cân tài. Còn bất nhân hơn nữa khi hắn lạnh lùng vô cảm trước gia cảnh của Kiều và mãn nguyện cho rằng rắng Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong. Bản chất vì tiền của hắn thể hiện trong hành động mặc cả keo kiệt, đê tiện chi li, hết đắn đo lại thử ép rồi cò kè thêm bớt như một kẻ mua hàng ngoài chợ. - Câu 1 là câu nêu lên chủ đề : Mã Giám Sinh là kẻ bất nhân, vì tiền. - Câu 2,3 chỉ rõ bản chất bất nhân. - Câu 4 chỉ rõ bản chất vì tiền. c) Các cách trình bày nội dung trong một đoạn văn. * Trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch. - Là cách trình bày đi từ ý chung nhất, khái quát nhất đến các ý chi tiết cụ thể. Câu chủ đề đặt ở đầu đoạn văn các câu còn lại có nhiệm vụ làm rõ nội dung cho câu chủ đề. VD : Tình yêu thiên nhiên là một tình cảm đẹp in đậm trong thơ Nguyễn Trãi. Thế giới các loài hoa như nhài, sen, mẫu đơn,mai, lan,cúc... được ông nói đến với bao tình cảm nâng niu quý mến. Ông cần mẫn Đìa thanh phát cỏ ương sen. Ông thao thức Hé cửa đêm đêm chờ hương quế lọt. cửa sổ nhà ông, án sách của ông ngào ngạt hương hoa, cái ao trong đầy ánh trăng Song có hoa mai, trì có nguyệt- Án còn phiến sách, triện còn hương. Cây niềng niễng, lãnh mồng tơi, bè rau muống, cây xoan, cây chuối...bình dị như đã ôm trọn tâm hồn Ức Trai. Với Nguyễn Trãi, trăng là bạn bầu tri kỉ. Trăng đến chia vui cùng chén rượu Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén. Gió mát trăng trong càng làm cho tâm hồn ông càng thanh cao Say minh nguyệt, chè ba chén- Thú thanh phong, lều một gian. Với ông, suối Côn Sơn là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là lộng xanh rũ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Từ núi đến mây, từ chim đến trăng đều mang tình thương mến đậm đà Núi láng giềng, chim bầu bạn- Mây khách khứa, nguyệt anh tam. * Trình bày đoạn văn theo cách quy nạp. - Là cách trình bày đi từ ý chi tiết, cụ thể đến ý chung, ý khái quát. Câu chủ đề đặt ở cuối đoạn văn, các câu trước đó có nhiệm vụ làm rõ nội dung cho câu chủ đề. VD : Nhân vật Thuý Vân hiện lên trong đoạn trích là một thiếu nữ có khuôn mặt tròn trĩnh, tươi sáng như trăng rằm. Miệng cười tươi như hoa nở. Tiếng nói trong như ngọc. Mái tóc bồng bềnh nhẹ hơn mây. Làn da trắng nõn nà, mịn màng hơn tuyết. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp trang trọng, quý phái, trẻ trung, kiều diễm hài hoà cùng thiên nhiên tạo vật. * Trình bày đoạn văn theo cách song hành. - Là cách trình bày sắp xếp các ý ngang nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau để diễn tả ý chung. Đoạn văn song hành không có câu chủ đề..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> VD : - Đi giữa Hạ Long về mùa sương, ta cảm thấy những hòn đảo vừa xa lạ, vừa quen thuộc, mờ mờ, ảo ảo. Chung quanh ta sương buông trắng xoá. Con thuyền bơi trong sương như bơi trong mây. Tiếng sóng vỗ long bong trên mạn thuyền.Tiếng gõ thuyền lộc cộc của bạn chài săn cá âm vang mặt vịnh... - Mã giám Sinh xuất hiện là người có tung tích mập mờ không rõ một viễn khách lại do mụ nào dẫn tới. Đến nhà Thuý Kiều để làm lễ vấn danh mà lời nói của y cộc lốc theo kiểu nhát gừng trong đó có ngầm chứa sự giả dối huyện Lâm Thanh cũng gần. Cách ăn mặc của y rất chưng diện, thiếu đứng đắn áo quần bảnh bao.... * Trình bày đoạn văn theo cách móc xích. - Là cách trình bày ý câu sau tiếp nối, phát triển ý câu trước bằng cách lặp lại một bộ phận của câu trước. Đoạn văn móc xích có thể có câu chủ đề. VD : - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật cải tiến thì phải có văn hoá.Vậy, việc bổ túc văn hoá là cực kì cần thiết. (Hồ Chí Minh) * Trình bày đoạn văn theo cách tổng- phân- hợp. VD : Bằng bút pháp tượng trưng ước lệ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân thật đẹp. Khuôn mặt tròn trịa như trăng rằm. Miệng cười như hoa nở. Lời nói thốt ra như ngọc. Làn da trắng, mịn màng hơn tuyết. Mái tóc bồng bềnh nhẹ hơn mây. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu hài hoà cùng thiên nhiên tạo vật. * Bài tập vận dụng. Viết một đoạn văn theo cách quy nạp phân tích vẻ đẹp của cảnh mùa xuân trong 4 câu thơ đầu đoạn trích : Cảnh ngày xuân. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả khung cảnh ngày xuân trong một thời gian và không gian cụ thể. Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Ngày xuân thấm thoắt trôi nhanh như thoi đưa, tiết trời đã bước sang tháng ba, tháng cuối cùng của mùa xuân. Những cánh chim én chao nghiêng rộn ràng dưới ánh nắng tươi sáng. Bức hoạ càng trở nên tuyệt đẹp khi xuất hiện thảm cỏ xanh mướt trải dài tới tận chân trời xa tít. Trên nền màu xanh thơm mát ấy, nhà thơ đã tô điểm một vài bông lê trắng ngần khiến màu sắc trở nên hài hoà đến mức tuyệt diệu. Chữ điểm trở thành nhãn tự của khổ thơ làm cho bức hoạ thêm sinh động, có hồn. Với bút pháp gợi tả, Nguyễn Du đã mang.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> đến cho muôn đời một bức tranh xuân mới mẻ, tinh khôi, khoáng đạt và giàu sức sống. 2. Các phép liên kết trong đoạn văn. - Thế nào là phép liên kết ? Phép liên kết còn gọi là phương thức liên kết là cách thức sử dụng các phương tiện liên kết để liên kết các câu trong một đoạn văn hoặc giữa các đoạn văn với nhau. - Để thực hiện được các phép liên kết phải có phương tiện liên kết. Phương tiện liên kết là những từ hay tổ hợp từ dùng để liên kết câu. Để liên kết các câu trong đoạn văn có các phếp liên kết sau. a) Phép nối. - Là phép liên kết câu bằng cách dùng từ hay tổ hợp từ có nội dung chỉ quan hệ. - Các phương tiện dùng trong phép nối : + Quan hệ từ : nhưng, và, mà, nếu, vì, để.... + Các từ chuyển tiếp : do đó, bởi vậy, tuy thế, tóm lại... + Các phụ từ : cũng, vẫn, cứ, còn, lại, đều... VD : Tóm lại, hai câu tục ngữ Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn nếu đứng riêng ra thì mỗi câu chưa hoàn toàn đúng và nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau. Nhưng khi đặt chúng cạnh nhau, ta sẽ tìm thấy một lời khuyên đầy đủ nhất, đúng dắn nhất : phải biết coi trọng việc học thầy đồng thời cũng phải biết học hỏi ở bạn bè cùng trang lứa. Tóm lại : liên kết đoạn văn này với phần trình bày của văn bản. Nhưng : liên kết câu 1 với 2. b) Phép thế. - Là phép liên kết câu bằng cách dùng những từ ngữ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, sự việc được nói trong những câu khác nhau. - Các phương tiện dùng trong phép thế : + Đại từ : nó, họ, chúng, thế, vậy.. + Các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa. + Các từ ngữ khác chỉ cùng một sự vật, sự việc. VD : Nguyễn Dữ quê ở tỉnh Hải Dương. Đến nay chưa rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông là một học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ở thế kỉ XVI. Đây là thế kỉ mà các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực chém giết lẫn nhau làm cho cuộc sống nhân dân điêu đứng, khổ cực. c) Phép liên tưởng. - Là phép liên kết bằng cách dùng ở những câu khác nhau các từ ngữ có quan hệ liên tưởng. Cần lưu ý : Liên tưởng trong liên kết câu phải là liên tưởng có định hướng, tức là hướng vào đề tài, chủ đề đang nói..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Các quan hệ liên tưởng thường xuất hiện trong phép liên tưởng là : liên tưởng giữa sự vật với sự vật ; liên tưởng sự việc với sự việc ; liên tưởng sự vật với sự việc ; liên tưởng sự vật, sự việc với hoàn cảnh. VD : Đến lượt cô gái từ biệt. Cô chìa tay cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng như người ta cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay. (Lặng lẽ Sa Pa- Nguyễn Thành Long) d) Phép nghịch đối. - Là phép liên kết câu bằng cách dùng các từ ngữ có quan hệ trái ngược nhau trong những câu khác nhau. - Phương tiện dùng trong phép nghịch đối : + từ trái nghĩa. + từ ngữ khẳng định- phủ định. + từ ngữ có ý nghĩa trái ngược nhau trong ngữ cảnh. VD Phần một: Các văn bản nhật dụng. I. Thế nào là văn bản nhật dụng? Là những văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống thường nhật của con người và cộng đồng xã hội: như vấn đề về môi trường, về giáo dục, về các di tích lịch sử, về quyền trẻ em... II. Các văn bản nhật dụng đã học trong chương trình Ngữ văn 9. 1. Phong cách Hồ Chí Minh - Lê Anh Tràa) Phong cách là gì? Là lối sống, cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử..tạo nên nét riêng của một người hay tầng lớp nào đó. b) Nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh là gì ? Vẻ đẹp trong phong cách Hồ chí Minh là sự kêt hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, vĩ đại và bình dị. c) Vẻ đẹp đó được thể hiện như thế nào trong văn bản phong cách Hồ Chí Minh ? * Người có vốn tri thức văn hoá nhân loại sâu rộng. - Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hoá từ Đông sang Tây ; nói và viết thạo nhiều thứ tiếng( Pháp, Anh, Nga, Trung...) Đến đâu Người cũng chịu khó học hỏi : học hỏi trong lao động, trong cuộc sống, học hỏi đến mức uyên thâm. - Người tiếp thu văn hoá nhân loại một cách chủ động, có chọn lọc. Chỉ tiếp thu cái hay, cái đẹp trên cơ sở phê phán cái xấu, cái tiêu cực. Người đã lấy văn hoá dân tộc làm nền tảng để tiếp thu. Vì thế trong vốn tri thức văn hoá.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> của Người có sự kết hợp hài hoà giữa tính hiện đại và tính dân tộc một nhân cách rất Việt Nam nhưng cũng rất mới, rất hiện đại. * Người có một lối sống giản dị mà thanh cao. - Lối sống của Người thật giản dị : Nơi ở, nơi làm việc đơn sơ một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ, chỉ vẻn vẹn vài phòng. Tư trang ít ỏi : bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Ăn uống đạm bạc : Vài món dân dã cá kho, rau luộc, cà muối, cháo hoa. - Một lối sống giản dị nhưng thực sự thanh cao, sang trọng. Bởi đây không phải là lối sống khắc khổ, cũng không phải làm khác đời hơn người mà là lối sống có văn hoá : Cái đẹp là cái giản dị, tự nhiên. Đó là lối sống rất dân tộc, rất Việt Nam. - Lối sống ấy thực sự là cách di dưỡng tinh thần đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác. Đó cũng là lối sống của những nhà hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. d) Hiện nay Đảng ta đang thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một học sinh em học tập được gì ở Bác qua Văn bản này ? - Phải viết thành đoạn văn có mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn. - Trình bày được hai ý cơ bản. + Học tập cách tiếp thu văn hoá nước ngoài. + Học tập lối sống giản dị. - Tình cảm thực sự chân thành, cầu thị. 2. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình. -G.G Mác- kéta) Văn bản này được viết trong hoàn cảnh nào ? Ý nghĩa của nó trong bối cảnh thế giới hiện nay ? - Tháng 8- 1986 nguyên thủ sáu nước Ấn Độ, Mê-hi-cô, Thuỷ Điển, Ác-hen ti-na, Hi lạp, Tan- da-ni-a họp lần thứ hai tại Mê-hi-cô đã ra một bản tuyên bố chấm dứt chạy đua vũ trang, thủ tiêu vũ khí hạt nhân để bảo đảm an ninh và hoà bình thế giới. Nhà văn được mời tham dự, ông đã đọc bản tham luận của mình. Văn bản được trích từ bản tham luận đó. - Đoạn trích đã chỉ rõ nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe doạ toàn bộ sự sống trên trái đất, cuộc chạy đua vũ trang là vô cùng tốn kém và phi lí nó làm mất đi sự cải thiện cuộc sống của nhân loại và kêu gọi các nước đấu tranh, ngăn chặn và xoá bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên trong tình hình thế giới hiện nay, cuộc chạy đua vũ trang vẫn còn tiếp diễn, nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang hàng giờ, hàng ngày đe doạ cuộc sống của nhân loại chúng ta( phân tích tình hình thế.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> giới như vấn đề Triều Tiên... để làm rõ). Vì thế văn bản dù viết cách đây hơn hai mươi năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn. Văn bản vẫn là lời kêu gọi thống thiết tất cả chúng ta hãy tham gia vào bản đồng ca chung để bảo tồn sự sống cho muôn loài. b) Tại sao tác giả khẳng định : Chạy đua vũ trang chẳng những đi ngược lại lí trí con người mà còn đi ngược lại lí trí tự nhiên. - Chiến tranh hạt nhân đi ngược lại lí trí con người là vì cuộc chạy đua vũ trang và đặc biệt là sản xuất vũ khí hạt nhân là vô cùng tốn kém nó đã làm mất đi khả năng cải thiện cuộc sống cho nhân loại về các mặt giáo dục, y tế, môi trường... để cho nhân loại có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặt khác, theo tính toán của tác giả, hiện nay trên thế giới có khoảng 50000 đầu đạn hạt nhân, nếu số đó nổ tung thì bình quân mỗi người trên thế giới ngồi trên 4 tấn thuốc nổ. Điều đó đồng nghĩa sẽ xoá sạch dấu vết của loài người trên trái đất. Đó là một hành động đi ngược lại lí trí của con người, một hành động không thể chấp nhận được. - Chẳng những đi ngược lại lí trí của con người mà còn đi ngược lại lí trí của tự nhiên. Đây mới chính là mức độ khủng khiếp của nó. Bởi vì nó không duy trì sự sống của tự nhiên mà huỷ diệt sự sống đã được nhen nhóm và phát triển qua bao nhiêu triệu năm mới có được như ngày nay chỉ trong nháy mắt. ‘chỉ cần bấm nút một cái là đưa cả quá trình vĩ đại và tốn kém đó của hàng bao triệu năm trở lại điểm xuất phát của nó’. Có nghĩa là huỷ diệt toàn bộ sự sống trên trái đất, như thế là đi ngược lại lí trí của tự nhiên, phải lại sự tiến hoá. Cứ nghĩ cái bấm nút kinh hoàng ấy , trái đất sẽ nổ tung, sự sống không còn nữa, nói chi đến văn minh loài người thì ai cũng căm thù, phản đối những kẻ điên cuồng đã gây ra chiến tranh hạt nhân, phớt lờ lời kêu gọi khẩn thiết của nhà văn chống chiến tranh để bảo vệ hoà bình. c) Tại sao tác giả đặt tên văn bản là : Đấu tranh cho một thế giới hoà bình ? - Xét nội dung , ta thấy văn bản này là chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân nhằm mục đích đem lại cuộc sống hoà bình cho nhân loại. Tên văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình đã bao quát được nội dung và mục đích ấy - Bảo vệ hoà bình và chống chiến tranh là hai mặt có mối quan hệ khăng khít với nhau : Một thế giới hoà bình là một thế giới không có vũ khí huỷ diệt hàng loạt vì thế muốn bảo vệ hoà bình thì phải chống chiến tranh. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình thực chất là đấu tranh để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, mà nóng bỏng và bức xúc nhất hiện nay là nguy cơ chiến tranh hạt nhân như đã trình bày..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 3. Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. a) Nêu ý nghĩa và hoàn cảnh ra đời của văn bản. ‘Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai’’ Trẻ em luôn là đối tượng cần quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Các vấn đề về trẻ em trở nên quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa toàn cầu. Chính vì vậy, từ đầu thập kỉ thứ 9 của thế kỉ XX, hội nghị cấp cao thế giới về quyền trẻ em đã họp tại Niu-óc- trụ sở của Liên hợp quốc ngày 30-9-1990 để ra một bản tuyên bố chung có nội dung Tuyên bố của thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Nó trở thành một văn bản quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với việc chăm sóc, bảo vệ và phát triển của trẻ em trên toàn cầu. b) Bản tuyên bố có mấy phần ? Nội dung chính của từng phần là gì ? - Văn bản gồm 4 phần, chia làm 17 mục được bố trí như sau : + Phần Mở đầu(1,2). Nêu rõ mục đích của Hội nghị ; vị trí, đặc điểm, quyền và tương lai của trẻ em. + Phần Sự thách thức(3,4,5,6,7) : Nêu lên những thách thức của trẻ em về các mặt trong cuộc sống vật chất và tinh thần của trẻ hiện nay mà các nhà lãnh đạo chính tri phải đáp ứng. + Phần Cơ hội(8,9). Nêu rõ những điều kiện thuận lợi để cộng đồng quốc tế chăm sóc, bảo vệ thúc đẩy sự phát triển của trẻ. + Phần Nhiệm vụ(10-17). Nêu lên những nhiệm vụ cụ thể, trước mắt và lâu dài nhằm đẩy lùi những khó khăn, góp phần tích cực để bảo vệ và chăm sóc trẻ để chúng có cuộc sống tốt đẹp nhất. Mặc dầu được viết dưới hình thức là một bản tuyên bố nhưng có thể xem đây là một văn bản nghị luận về vấn đề trẻ em trên thế giới hiện nay bởi nó được trình bày hợp lí, chặt chẽ các phần các mục có quan hệ khăng khít với nhau góp phần làm rõ vấn đề nghị luận tạo tính thuyết phục cao. c) Từ vấn đề nêu ra trong văn bản, em hãy viết một bài văn nghị luận về quyền trẻ em. - Về hình thức : Viết thành một bài văn nghị luận có bố cục ba phần, trình bày các luận điểm, luận cứ và có cách lập luận hợp lí. - Về nội dung : Nêu được đặc điểm, vai trò của trẻ em đối với sự phát triển của đất nước. Các quyền mà trẻ em được hưởng và ý nghĩa các quyền đó đối với sự phát triển của trẻ..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Phần hai : Các tác phẩm văn học Trung đại. 1. Văn bản : Chuyện người con gái Nam Xương. (Trích Truyền kì mạn lục-Nguyễn Dữ) a) Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm . - Tác giả : Nguyễn Dữ quê ở tỉnh Hải Dương, hiện nay chưa rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông là một học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ở thế kỉ XVI. Đây là thế kỉ mà chế độ phong kiến thời Hậu Lê, sau một thời kì phát triển rực rỡ cuối thế kỉ XV, nay đã lâm vào tình trạng khủng hoảng , suy yếu. Các tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh- Mạc tranh giành quyền lực gây nên chiến tranh loạn lạc liên miên. Chán nản trước thời cuộc, lại chịu ảnh hưởng của thầy học, sau khi thi đỗ hương cống, ông chỉ làm quan một năm rồi cáo về , sống ẩn dật ở vùng núi rừng Thanh Hoá vừa nuôi mẹ già vừa viết văn. - Truyện truyền kì là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc, thịnh hành dưới thời nhà Đường. Nguyễn dữ đã tiếp thu thể loại này để viết tác phẩm Truyền kì mạn lục. Đây là tác phẩm văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống yên bình nhưng bị xã hội và lễ giáo phong kiến xô đẩy họ vào cảnh ngộ éo le, bất hạnh. Hoặc những người trí thức tâm huyết, bất mãn thời cuộc , không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tác phẩm này. - Chuyện người con giá Nam Xương lấy cốt truyện từ truyện cổ tích Vợ Chàng Trương, tuy nhiên phần sáng tạo của ông là rất lớn : như việc bố trí sắp xếp các tình tiết, các lời thoại, đưa vào yếu tố thần kì... b) Tóm tắt truyện : Ở huyện Nam Xương có Vũ Thị Thiết xinh đẹp, nết na kết duyên cùng Trương Sinh nhà giàu, tính đa nghi. Trương phải xa nhà đi lính, nàng ở nhà sinh con trai đặt tên là Đản. Một mình nàng vừa nuôi con vừa chăm sóc mẹ chồng. Rồi mẹ chồng ốm chết, nàng lo ma chay chu đáo. Giặc tan, Trương về nghe lời con nhỏ nghi ngờ vợ không chung thuỷ bèn mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi. Nàng đã nhiều lần phân trần nhưng không được đành tìm đến cái chết để minh oan cho mình. Sau đó Trương đã nhận ra được nỗi oan của vợ nhưng đã muộn. Phan Lang là người cùng làng, nhờ cứu thần rùa Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải khi chạy nạn chết đuối đã được Linh Phi cứu để trả ơn. Tình cờ gặp Vũ Nương- nàng cũng được Linh Phi cứu- nàng gửi chiếc thoa vàng, nhắn chồng giải oan. Khi Trương lập đàn giải oan nàng hiện về giữa dòng nói vọng vào rồi biến mất..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> c) Nhân vật Vũ Nương. * Một người con hiếu thảo, một người vợ đảm đang thuỷ chung : - Hiếu thảo : + Vâng lời cha mẹ đẻ để lấy Trương Sinh. + Khi làm đâu nhà Trương, nàng chăm sóc chạy chữa thuốc thang lúc mẹ chồng lâm bệnh( mẹ chồng cũng đã thừa nhận trong lời trăn trối). Lúc mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu đáo như chính cha mẹ đẻ của mình. - Đảm đang, thuỷ chung : + Chồng đi lính, một mình nàng sinh và nuôi dạy con; chăm sóc mẹ già. + Biết chồng đa nghi nàng chưa bao giờ để vợ chồng thất hoà. Tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu dặn dò đầy tình nghĩa khiến mọi người rơi lệ. Khi xa chồng, nàng thể hiện nỗi nhớ bằng cách chỉ bóng mình và đùa con đó là cha Đản. * Một người phụ nữ oan khiên, bất hạnh: - Bị chồng nghi ngờ không chung thuỷ, bị chồng mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi. Nàng đã phân trần để chứng tỏ tấm lòng của mình. Lần 1 nàng nói rõ lòng mình , nói rõ thân phận, tình nghĩa vợ chồng, khẳng định tấm lòng chung thuỷ cầu xin chồng để mong hàn gắn lại hạnh phúc đang có nguy cơ tan vỡ. Lần 2 nàng đau đớn thất vọng không hiểu vì sao chồng đối xử bất công, không có quyền bảo vệ hạnh phúc ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng cũng không hàn gắn được. Lần 3 nàng thất vọng, đau đớn giải bày cùng thần sông và tìm cái chết để chứng tỏ tấm lòng trinh bạch của mình. - Cuộc đời và số phận của Vũ Nương cũng là cuộc đời chung của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phụ nữ nết na, đức hạnh nhưng các thế lực tàn bạo và thứ lễ giáo phong kiến hà khắc đã đẩy họ rơi vào cảnh đau khổ, bất hạnh, đáng thương. * Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. - Trước hết là do cuộc hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh không bình đẳng, về cơ bản đó là cuộc mua bán. Chi tiết Trương xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ đã thể hiện điều đó. Đặc biệt là câu nói của Vũ Nương “ Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu” góp phần tạo nên sự cách bức để cho Trương có một cái thế bên cạnh cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ gia trưởng phong kiến. - Tính cách đa nghi của Trương “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” cộng thêm vào đó là tâm trạng nặng nề không vui khi trở về nhà “bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. - Lời nói ngây thơ của con trẻ chứa đầy những dữ kiện bất ngờ. Bé Đản ngạc nhiên khi thấy mình có hai người cha, một người biết nói và một người nín thin thít. Khi bị gạn hỏi nó nói thêm “ một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Chính thông tin này như đổ.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> thêm dầu vào lửa thổi bùng sự ghen tuông ở Trương vì thế chàng đinh ninh là vợ hư. - Cách xử sự hồ đồ, độc đoán của Trương: Khi nghe con nói vậy chàng không đủ bình tĩnh để phân tích, xét đoán vấn đề. Cũng không cho vợ phân trần và bỏ ngoài tai những lời bênh vực của xóm giềng cũng không nói ra nguyên cớ cho vợ có cơ hội minh oan. Vì thế Trương trở thành kẻ vũ phu, thô bạo, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi đẫn đến cái chết oan của vợ. - Chiến tranh phong kiến cũng góp phần gây nên nỗi oan của Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, không có sự xa cách thì liệu có nỗi oan khuất mà nàng phải gánh chịu không. Tất cả những nguyên nhân ấy tạo nên bi kịch của người phụ nữ đức hạnh. Bi kịch ấy là lời tố cáo XHPK xem trọng quyền uy của kẻ giàu sang và người đàn ông trong gia đình đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với người phụ nữ đức hạnh. Họ không những không được che chở, bảo vệ mà còn bị đối xử bất công, vô lí chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ, vì sự hồ đồ độc đoán của người chồng ghen tuông mà phải kết liễu cuộc đời mình trong sự bất lực. d) Các yếu tố kì ảo và ý nghĩa của nó. - Các yếu tố kì ảo trong truyện: Phan Lang nằm mộng thả rùa, Phan chết đuối được Linh Phi cứu, được đãi yến tiệc trong động rùa, được gặp Vũ Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế, Vũ Nương hiện về trên sông khi Trương lập đàn giải oan...Các yếu tố kì ảo này được xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, thời điểm lịch sử, sự kiên lịch sử,trang phục các mĩ nhân, tình cảnh nhà Vũ Nương không ai chăm sóc khi nàng chết...làm cho người đọc khỏi ngỡ ngàng. - Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo: + Đây là yếu tố không thể thiếu được trong thể loại truyện truyền kì, đưa yếu tố này vào để phù hợp với đặc trưng thể loại. + Hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương. Cho dù nàng ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con và phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự. + Tạo một kết thúc có hậu cho tác phẩm để thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời: người tốt dù oan khuất cuối cùng cũng được minh oan. Tuy vậy đó cũng chỉ là lời an ủi cho người bạc mệnh, bi kịch của Vũ Nương vẫn không giảm bớt. Hạnh phúc thực sự đâu còn vì thế, một lần nữa lại khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 2. Văn bản: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ( Trích: Vũ trung tuỳ bút- Phạm Đình Hổ) a) Giới thiệu tác giả: Phạm Đình Hổ(1768-1839) quê ở Hải Dương. Ông sống vào thời kì đất nước loạn lạc nên sau khi thi đỗ sinh đồ ông về quê ở ẩn và dạy học. đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, vua vời ông ra làm quan. Mặc dầu đã mấy lần từ chức nhưng vẫn bị triệu ra. Ông đã sáng tác từ thời Tây Sơn nhưng chủ yếu là đầu thời Nguyễn. Phạm đình Hổ đã để lại nhiều công trình biên soạn có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực: văn học, sử học, triết học...tất cả bằng chữ Hán. b) Thể tuỳ bút và tác phẩm “ Vũ trung tuỳ bút”. - Tuỳ bút là thể loại văn học nhằm ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể có thực, qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc suy nghĩ, nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống được phản ánh. Sự ghi chép ở đây là tuỳ theo cảm hứng chủ quan, có thể tản mạn không cần gò bó theo một hệ thống kết cấu gì nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng, một cảm xúc chủ đạo. - Tác phẩm “ Vũ trung tuỳ bút” ( Tuỳ bút viết trong những ngày mưa) là tác phẩm đặc sắc của Phạm Đnhf Hổ được viết vào đầu thời Nguyễn gồm 88 mẫu chuyện nhỏ viết theo thể tuỳ bút. Tác phẩm bàn về các thứ lễ nghi, phong tục tập quán..ghi chép những sự việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu địa dư...Tất cả được trình bày một cách giản dị, sinh động, hấp dẫn. Tác phẩm không những có giá trị văn chương mà còn có giá trị về lịch sử, địa lí, xã hội học... c) Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là tác phẩm ghi lại một cách chân thực, sinh động đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới thời Lê Trịnh. * Sự ăn chơi sa đoạ của Trịnh Sâm và lũ quan hầu cận. - Chúa cho xây dựng nhiều đình đài, cung điện để thoả ý thích “chơi đèn đuốc” điều đó làm tốn kém tiền của của nhân dân. - Chúa thường xuyên dạo chơi ở Tây Hồ, huy động rất đông người hầu kẻ hạ “binh lính đứng dàn quanh bốn mặt hồ”; các nội thần, quan hộ giá, nhạc công...bày đặt nhiều trò nhố nhăng và tốn kém như ăn mặc giả đàn bà ngồi bày hàng bán, chốc chốc thuyền lại ghé vào mua, dàn nhạc được bố trí khắp hồ thỉnh thoảng tấu cho vui.. - Đặc biệt là việc tìm thu vật “phụng thủ” nhưng thực chất là để cướp đoạt của quý trong thiên hạ nào là “trân cầm dị thú”, nào là “cổ mộc quái thạch” mặc sức thu lấy để về tô điểm nơi ở của chúa. Tác giả đã miêu tả rất kĩ việc đem một cây đa to, cành lá rườm rà từ bên kia sông đem về. Điều đó càng tô đậm việc ăn chơi sa đoạ của chúa..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chính những hành đông và việc làm ấy, sự suy sụp của triều đại này là không tránh khỏi vì thế “kẻ thức giả” biết đó là triệu bất tường. Đoạn văn miêu tả cảnh trong phủ chúa mặc dầu đầy các loại “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch” lại được bày vẽ như “bến bể đầu non” nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê sợ trước một cái gì đang tan tác, đau thương chứ không phải là cảnh đẹp phồn vinh điều đó dự báo điềm chẳng lành. * Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại. - Bọn quan lại là những kẻ được sủng ái vì chúng bày ra những trò ăn chơi, hưởng lạc cho Chúa. Vì thế chúng nấp dưới bóng Chúa để hoành hành, tác oai tác quái trong nhân dân. Hành động của chúng là vừa ăn cướp vừa la làng. Chúng vừa ních đầy túi tham lại được tiếng mẫn cán đối với gia đình nhà chúa. - Cuối tác phẩm, tác giả kể một sự việc từng xảy ra tại nhà mình nhằm tăng tính thuyết phục, làm cho bài viết sinh động, đồng thời gửi gắm một thái độ bất bình, phê phán một cách kín đáo. Qua bộ mặt của giai cấp thống trị dưới thời Lê- Trịnh, chúng ta có thể hình dung được cuộc sống của nhân dân thời ấy. Đó là một cuộc sống cực khổ với nhiều bất công, ngang trái. Kẻ thống trị thì lo ăn chơi sa đoạ mà không chăm lo đến đời sống của muôn dân bách tính. Không những vậy, chúng còn cướp đoạt của cải của nhân dân một cách trắng trợn. Những hành động và thủ đoạn ấy, được Phạm Đình Hổ ghi chép lại một cách tỉ mỉ, chi tiết và chân thực qua văn bản này. 3. Văn bản: Hoàng Lê nhất thống chí. ( Trích: Hồi thứ mười bốn) a) Trình bày vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả, Thanh Oai, Hà Tây- nay là Hà Nội. Tác phẩm này do nhiều người viết trong đó có hai tác giả chính đó là Ngô Thì Chí( viết 7 hồi đầu) và Ngô Thì Du( viết 7 hồi tiếp). + Ngô Thì Chí(1753- 1788), em ruột của Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống. Là người tuyệt đối trung thành với vua Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm kéo quân ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh(1787), Ông dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong để chống Tây Sơn trên đường bị bệnh mất tại Bắc Ninh..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> + Ngô Thì Du(1772- 1840), anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhưng không đỗ đạt gì, thời Tây Sơn ông ẩn mình ở vùng Hà Nam. Thời Nguyễn, ra làm quan được bổ làm đốc học Hải Dương, đến 1827 về nghỉ. - Tác phẩm: Chí là lối văn ghi chép sự vật, sự việc. Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán, tác phẩm ghi chép lại sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê đồng thời tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu cuối thế kỉ XIX. Tác phẩm có thể xem là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi gồm 17 hồi. Phần trích trong SGK thuộc hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi quân Thanh bị thua trận; bỏ Thăng Long Chiêu Thống trốn ra ngoài. b) Tóm tắt nội dung hồi thứ 14. Ngô Văn Sở sau khi đem quân rút lui về Tam Điệp liền sai Nguyễn Văn Tuyết vào Nam cáo cấp. Được tin báo, Nguyễn Huệ giận lắm. Ông lên ngôi hoàng đế lấy hiệu Quang Trung rồi hạ lệnh xuất quân hôm ấy là ngày 2512- 1789. Đại binh của Quang Trung ra đến Nghệ An ngày 29, vua cho mời người cống sĩ Nguyễn Thiếp vào dinh hỏi binh tình và sai tướng Hám Hổ Hầu kén lính được hơn một vạn quân tinh nhuệ đồng thời mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, đọc cho quân lính nghe lời dụ và hạ lệnh xuất quân. Đến Tam Điệp, Sở và Lân ra đón và mang gươm xin chịu tội và nói rõ sự tình. Quang Trung không phạt, bèn mở tiệc khao quân và hẹn đến ngày mồng 7 thì vào thành mở tiệc ăn mừng, hôm đó là ngày 30- 12. Đêm ngày mồng 3- 1, Quang Trung cho quân vây làng Hà Hồi rồi bắc loa truyền gọi. Quân giặc sợ hãi xin hàng. Ngày 5- 1, mờ sáng quân Quang Trung tiến sát đồn Ngọc Hồi, nhờ dùng ván phủ rơm dấp nước nên quân Thanh nổ sung bắn ra không trúng ai cả, quân Thanh phun khói không may trời trở gió thành ra chúng tự làm hại mình. Quang Trung lệnh cho quân tiến giáp la cà, tất cả nhất tề xông tới. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy giày xéo nhau chết. Đến giữa trưa, Quang Trung kéo quân vào thành. Tôn Sĩ Nghị nghe tin, vội lên ngựa dẫn theo bọn kị binh qua cầu phao nhằm hướng Bắc chuồn thẳng. Vua Lê hoảng sợ vội đưa Thái hậu và bọn Quýnh, Hiến bỏ chạy nhưng cầu phao bị đứt, vua bèn cướp thuyền để qua sông. Đến Hoà Lạc thì gặp người thổ hào, người ấy thiết đãi cơm nước và chỉ đường cho vua chạy lên cửa ải. Đến đây, nhà vua gặp được Nghị, hai người nhìn nhau than thở oán giận chảy nước mắt. c) Hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. - Hành động mạnh mẽ, quyết đoán: Khi nghe tin giặc đến Thăng Long, ông định cầm quân đi ngay; chỉ hơn một tháng làm nhiều việc lớn như: lên ngôi hoàng đé, kéo đại binh ra bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở La Sơn, tuyển mộ.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> quân lính, mở cuộc duyệt binh, hoạch định kế hoạch đánh giặc và kế sách đối phó với nhà Thanh sau này... - Trí tuệ sáng suốt nhạy bén: Thể hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc, so sánh lực lượng giữa ta và địch; đọc lời dụ ở Nghệ An( khẳng định chủ quyền dân tộc, lên án bọn xâm lăng phi nghĩa trái với lẽ trời đất, nhắc lại dã tâm của giặc, nhắc lại truyền thống dánh giặc của dân tộc, kêu gọi mọi người giết giặc, ra kỉ luật nghiêm minh). Sáng suốt trong xét đoán dùng người, khen chê đúng người đúng việc đặc biệt là khi Sở và Lân mang gươm chịu tội. - Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng: Quang Trung chưa đánh mà biết chắc thắng, chưa đánh mà đã nghĩ kế sách để đối phó với nhà Thanh sau này. - Tài dụng binh như thần: Thể hiện ở cuộc hành quân thần tốc, 25-12 còn ở Phú Xuân, ngày 30 đã từ Tam Điệp tiến ra Thăng Long, đến ngày mồng 5 tết ăn tết tại Thăng Long. Hành quân xa nhưng đội ngũ chỉnh tề, trong một thời gian ngắn vừa hành quân vừa làm nhiều việc đồng thời đánh đuổi được hàng chục vạn quân Thanh... - Lẫm liệt trong chiến trận: Là người tổng chỉ huy hoạch định phương lược, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế..Một đội quân không hoàn toàn thiện chiến nhưng dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, họ đánh những trận đánh đẹp, thắng áp đảo kẻ thù. Hình ảnh cưỡi voi đi đốc thúc quân thật oai phong, lẫm liệt... Từ đó ta thấy hình ảnh người anh hùng đan tộc Nguyễn Huệ được khắc hoạ khá đạm nét với tính cách quả cảm, mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt nhạy bén, tài dụng binh như thần và là người tổ chức và linh hồn của những chiến công vĩ đại. d) Bộ mặt của bọn cướp nước và bán nước. - Tôn Sĩ Nghị là một kẻ cầm quân bất tài, không biết được tình hình thực hư, luôn kiêu căng, tự mãn, chủ quan, khinh thường chỉ lo suốt ngày ăn chơi, tiệc tùng cho thoả thích. Vì thế sự thất bại là tất yếu. Khi lâm trận, tướng thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp qua cầu phao chuồn thẳng. Quân lúc lâm trận thì rụng rời, sợ hãi, kẻ thì xin hàng, kẻ thì bỏ chạy tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau..ngày đêm đi gấp không dám nghỉ. Điều đó cho thấy đây là một xộc xệch, trễ nãi, hèn nhát vì thế thất bại thảm hại là không tránh khỏi. - Bọn vua tôi Lê Chiêu Thống đã vì lợi ích riêng mà đem số phận dân tộc trao tay kẻ thù, vì thế đã chịu đựng nỗi sĩ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin. Chúng vội vã đưa Thái hậu chạy bán sống bán chết, cướp thuyền qua sông may mà gặp được người thổ hào mời ăn cơm và chỉ đường cho chạy trốn,.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> gặp Nghị nhìn nhau chảy nước mắt. Đó là số phận bi đát của kẻ bán nước hại dân. e) Tại sao vốn là những cựu thần nhà Lê mà các tác giả viết được hay và đẹp về Nguyễn Huệ như vậy? Các tác giả phản ánh hiện thực trên cơ sở tôn trọng sự thực lịch sử và xuất phát từ ý thức dân tộc. Vì thế, mặc dù là những cựu thần của nhà Lê, họ chịu ơn sâu nặng của vua Lê nhưng không thể bỏ qua sự thực vua Lê là một ông vua yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào của cả dân tộc. Cho nên họ viết được thật và hay về Nguyễn Huệ. Tuy nhiên họ không thể không mủi lòng khi nhìn thấy một triều đại mà mình tôn thờ giờ đã sụp đổ. Vì thế cảnh tháo chạy của vua và Thái hậu được miêu tả tỉ mỉ, nhịp văn chậm với giọng điệu ngậm ngùi, chua xót. ................................................................................................................ 4. Tác phẩm:. Truyên Kiều ( Nguyễn Du).. 4.1: Tác giả, tác phẩm: a) Tác giả. - Nguyễn Du ( 1765- 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền- Nghi Xuân- Hà Tĩnh. - Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học. - Mồ côi cha khi 9 tuổi, mồ côi mẹ lúc 12 tuổi ; sống trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội nên ông phiêu bạt nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều cảnh đời nhiều số phận. - Khi ra làm quan với triều Nguyễn, ông được cử đi sứ ở Trung Quốc, được tiếp xúc với một nền văn hoá rực rỡ. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến sáng tác của ông. - Ông là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều. b) Tác phẩm Truyện Kiều. - Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm đặc sắc của nền văn học Việt Nam. Viết tác phẩm này, Nguyễn Du lấy cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc. Nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn như : Tước bỏ các yếu tố dung tục chỉ giữ lại cốt truyện, kể chuyện.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> bằng thơ lục bát, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên cũng như khắc hoạ tâm lí con người. - Lúc đầu truyện có tên là Đoạn trường tân thanh( Tiếng kêu đau đớn, đứt ruột mới) sau đó đổi tên thành Truyện Kiều. Tác phẩm bao gồm 3254 câu thơ lục bát. Hiện nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được bạn bè thế giới biết đến như là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam. c) Tóm tắt. - Gặp gỡ và đính ước : Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, là con gái đầu lòng của một gia đình trung lưu lương thiến sống trong cảnh êm đềm bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân và Vương quan. Trong buổi du xuân ngày Thanh minh, Kiều gặp Kim Trọng, hai người chớm nở một mối tình đẹp. Kim Trọng đến trọ gần nhà Kiều, nhân trả chiếc thoa rơi, Kim bày tỏ tâm tình với Kiều. Hai người chủ động, tự do đính ước với nhau. - Gia biến và lưu lạc : Trong khi Kim về quê chịu tang chú, gia đình Kiều mắc oan, Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình để chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy nàng vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh- một khách làng chơi hào phóng, cứu vớt nàng ra nhưng bị vợ Thúc là Hoạn Thư đánh ghen, đày đoạ. Nàng phải trốn đến nương nhờ cửa Phật, sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bàkẻ buôn người như Tú Bà, vì thế nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Ở đây, nàng gặp Từ Hải- một anh hùng đội trời đạp đất, Từ đã cứu nàng ra và giúp nàng báo ân, báo oán. Do mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết. Kiều phải hầu đàn, hầu rượu Hồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho tên thổ quan. Đau đứn, tủi nhục Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu và lần thứ hai nương nhờ cửa Phật. - Đoàn tụ : Sau nửa năm về Liêu Dương chịu tang chú, Kim trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình nàng bị gia biến Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng đau đớn vô cùng. Tuy kết duyên cùng Thuý Vân nhưng Kim chẳng thể nào quên được mối tình đầu say đắm.Chàng lặn lội tìm Kiều, nhờ gặp sư Giác Duyên mà Kim Kiều được đoàn tụ. Chiều ý mọi người Thuý kiều nối duyên cùng Kim Trọng. d) Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. - Về nội dung : + Nội dung hiện thực : Truyện Kiều phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận của những con người bị áp bức đau khổ đặc biệt là người phụ nữ..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> + Nội dung nhân đạo : Trong Truyện Kiều, tác giả đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước nỗi khổ đau của con người ; lên án tố cáo những thế lực tàn bạo ; trân trọng đề cao vẻ đẹp từ hình thức đến phẩm chất, ước mơ khát vọng chân chính của con người như quyền tự do yêu đương, quyền tự do công lí... - Về giá trị nghệ thuật : + Đến Truyện Kiều, Tiếng Việt đã đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếng Việt vừa mang chức năng biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ. + Đến Truyện Kiều nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Ngôn ngữ kể chuyện tồn tại dưới 3 hình thức : Trực tiếp(lời nhân vật), gián tiếp( lời tác giả), nửa trực tiếp( lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật). Nhân vật xuất hiện trong truyện vừa là con người hành động vừa là con người cảm nghĩ có đời sống nội tâm phong phú. Nghệ thuật tả cảnh vừa chân thực, sinh động vừa tả cảnh ngụ tình. Vì thế có thể khẳng định : Truyện Kiều là bước quá độ từ chủ nghĩa cổ điển lên chủ nghĩa hiện thực.. 4.2. Đoạn trích : Chị em Thuý Kiều. a) Vị trí, bố cục của đoạn trích: - Nằm ở phần đầu tác phẩm. - đoạn trích có thể chia làm 4 phần : + 4 câu đầu : Giới thiệu chung về chị em Vân Kiều. + 4 câu tiếp : Miêu tả vẻ đẹp Thuý Vân. + 12 câu tiếp : Miêu tả vẻ đẹp và tài năng Thuý Kiều. + 4 câu cuối : Nhận xét về cuộc sống của họ. Kết cấu này rõ ràng và hợp lí giúp người đọc cảm nhận chung về hai chị em, sau đó cảm nhận vẻ đẹp từng người, cuối cùng hình dung về cuộc sống của họ. Kết cấu này còn liên quan đến ý đồ của tác giả, khi miêu tả vẻ đẹp của từng nhân vật, tác giả miêu tả Vân trước Kiều sau, đó là nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật nhân vật chính ngay từ đầu tác phẩm. b) Phân tích chi tiết. - Bốn câu đầu tác giả giới thiệu cho người đọc vị trí của hai chị em trong gia đình Vương viên ngoại “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân”. Họ đều là những người con gái đẹp thân hình thanh tao, mảnh dẻ như cây mai, phẩm hạnh trong trắng, trinh bạch như tuyết. Bằng bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã vẽ nên những bức chân dung về hai thiếu nữ tuyệt sắc giai nhân. Họ đẹp một cách hoàn mĩ nhưng trong vẻ đẹp chung ấy vẫn có vẻ đẹp riêng của từng người “mỗi người một vẻ”. Bốn câu đầu vừa giới thiệu vừa miêu tả nhân vật lại vừa tạo cho người đọc một tâm thế chờ đợi để khám phá vẻ đẹp riêng của từng người..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả trong 4 câu thơ tiếp. Cũng là những hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ cổ điển như: khuôn trăng, nét ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết, tác giả Nguyễn Du đã vẻ nên bức chân dung Thuý Vân thật tươi tắn, trẻ trung, đoan trang phúc hậu. Khuôn mặt tròn trĩnh như trăng rằm, miệng cười tươi như hoa nở, tiếng nói trong như ngọc, làn da trắng nõn mịn màng hơn tuyết, mái tóc bồng bềnh nhẹ hơn mây. Vẻ đẹp ấy khiến thiên nhiên phải thua, phải nhường nàng có nghĩa thiên nhiên cũng đồng tình, ủng hộ, điều đó dự báo về một cuộc đời bằng lặng, yên ả. - Nổi bật trong đoạn trích là bức chân dung Thuý Kiều. Nếu như Thuý Vân tác giả miêu tả tương đối kĩ thì ở Thuý Kiều tác giả chỉ chú ý miêu tả vẻ đẹp đôi mắt. Cũng vẫn là những hình tượng nghệ thuật ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tạo một ấn tượng về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Kiều có một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh ẩn chứa dưới cặp lông mày thanh nhẹ như nét núi mùa xuân: Làn thu thuỷ nét xuân sơn. Vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn” , khiến cho thiên nhiên phải ghen ghét, đố kị. Điều đó càng tôn thêm sắc đẹp độc nhất vô nhị của Kiều. Bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, Thuý Kiều còn có vẻ đẹp ở tài năng. Nàng tài thơ, tài đàn, tài hát, tài sáng tác nhạc. Một loạt những từ ngữ: hoạ hai, vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi, làu bậc, ăn đứt...càng khẳng định tài năng hiếm có ấy. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm của nàng, cung đàn bạc mệnh mà nàng sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Với sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai, bức chân dung Thuý Kiều cũng mang tính cách số phận. Kiều đẹp khiến thiên nhiên phải đố kị, ghen ghét nàng tài khi tự mình lựa nên thiên bạc mệnh điều đó dự báo số phận nàng sẽ éo le, đau khổ. Ở Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau tạo nên cái triết lí “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” của tác giả. - Bốn câu cuối đoạn trích, tác giả nhận xét về cuộc sống của họ. Hai thiếu nữ họ Vương sống trong cảnh êm đềm, nề nếp, gia phong. Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về mặt thanh điệu, nó nhẹ nhàng êm đềm như cuộc sống yên vui, hạnh phúc của Thuý Kiều và Thuý Vân. Bằng nghệ thuật ước lệ cổ điển, Nguyễn Du đã miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp hình thức cũng như tài năng của chị em Kiều, qua đó thể hiện sự trân trọng, tự hào đồng thời dự báo về tương lai, số phận của nhân vật..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 4.3 Đoạn trích: Cảnh ngày xuân. a) Vị trí, bố cục đoạn trích. - Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm. Sau khi miêu tả tài sắc của Kiều, tác giả miêu tả cảnh chị em du xuân trong tiết Thanh Minh. - Đoạn trích có kết cấu theo trình tự thời gian của một chuyến du xuân. Vì thế có thể chia làm 3 phần: + 4 câu đầu: Bức tranh mùa xuân. + 8 câu tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh. + 6 câu cuối: Cảnh chị em du xuân trở về. b) Phân tích chi tiết. - Khung cảnh mùa xuân được gợi lên trong 4 câu thơ đầu thật mới mẻ, tinh khôi, trong sáng. “Ngày xuân con én đưa thoi, thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” câu thơ vừa nói được cảnh xuân trong một thời gian và không gian cụ thể. Ngày xuân thấm thoắt trôi nhanh như thoi đưa, tiết trời đã bước sang tháng thứ ba- tháng cuối cùng của mùa xuân. Những cánh én chao nghiêng rộn ràng dưới ánh nắng tươi sáng. Bức hoạ càng trở nên tuyệt đẹp khi xuất hiện thảm cỏ xanh mướt trải dài đến tận chân trời xa tít.Trên nền màu xanh thơm mát ấy, nhà thơ tô điểm một vài bông lê trắng ngần khiến cho màu sắc trở nên hài hoà đến mức tuyệt diệu. “ Cỏ non xanh tận chân trời, cành lê trắng điểm một vài bông hoa” chữ điểm trở thành nhãn tự của khổ thơ làm cho bức hoạ thêm sinh động, có hồn. Hai câu thơ này, Nguyễn Du lấy ý từ câu thơ cổ Trung Quốc: Phương thảo liên thiên bích- Lê chi sổ điểm hoa, nhưng ông đã sáng tạo chyển từ trời xanh thành cỏ xanh, thêm chữ điểm và màu trắng để tạo một bức tranh động, gần gũi mang đậm sắc thái Việt Nam. Với bút pháp gợi tả kết hợp với sử dụng từ ngữ đắt, Nguyễn Du đã mang đến cho người đọc muôn đời một bức tranh xuân mới mẻ, thật giàu sức sống. - Tám câu tiếp là khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh, đó là một lễ hội truyền thống của dân tộc. Chỉ một câu thơ, tác giả đã cung cấp cho người đọc biết các hoạt động trong lễ hội này “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Có hai hoạt động cùng diễn ra: tảo mộ( viếng, quét, sửa sang phần mộ người thân) và đạp thanh( chơi xuân ở chốn đồng quê). Không khí lễ hội diễn ra thật nhộn nhịp, đông vui với các hoạt động tưng bừng, rộn rã. Một loạt những tính từ: nô nức, dập dìu; động từ: sắm sửa, bộ hành; danh từ: yến anh, chị em, tài tử giai nhân, ngựa xe, áo quần.. xuất hiện đã góp phần diễn tả không khí ấy. Gần xa đã nô nức kéo về dự hội như yến anh ríu rít, tưng bừng; con người thì dập dìu tài tử giai nhân; phương tiện, trang phục thì ngựa xe như nước, áo quần như nêm...Bằng những so sánh, ẩn dụ cái sự đông vui, nhộn nhịp của trai tài, gái sắc cứ rõ ràng và nổi bật hơn trong lễ.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> hội. Hình ảnh lễ hội xa xưa cứ hiện về rõ nét qua ngôn ngữ thi sĩ. Sự thành kính, nghiêm trang của lễ tảo mộ được ghi lại trong lời thơ: ngổn ngang gò đống kéo lên, thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Bức tranh thơ đã thấm đượm cái hồn xuân đất nước bởi tác giả đã miêu tả bằng cả cái hồn dân tộc của mình. - Khác với cảnh xuân tươi sáng, tinh khôi trong bốn câu đầu, bức tranh xuân khi chị em trở về là cảnh chiều tà chứa chan tâm trạng. Ở đây vẫn có cái thanh, cái dịu của mùa xuân nhưng mặt trời đã từ từ ngả bóng, nắng nhạt, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh, mọi chuyển động nhẹ nhàng, không khí nhộn nhịp của lễ hội không còn nữa. Tất cả cứ lặng dần, nhạt dần. Một loạt những từ láy xuất hiện: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao,..xuất hiện không chỉ có tác dụng tả cảnh chiều mang màu sắc đượm buồn của thiên nhiên mà còn có tác dụng bộc lộ tâm trạng nhân vật. Buổi du xuân đã hết con người trở về sao tránh khỏi những bâng khuâng luyến tiếc. Vì thế cảnh và tình hoà quyện với nhau đến mức tuyệt diệu bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc của thi nhân. Bằng kết cấu hợp lí, sử dụng ngôn ngữ tài tình, kết hợp giữa miêu tả cụ thể với bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình nhuần nhị tự nhiên, Nguyễn Du đã khắc hoạ một bức tranh thiên nhiên lễ hội mùa xuân thật trong sáng tươi đẹp. ************************************************. 4.4. Đoạn trích: Kiều ở lầu Ngưng Bích. a) Vị trí đoạn trích, kết cấu. - Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của tác phẩm, sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều bị đưa vào lầu xanh của Tú Bà. Mụ ta bắt nàng tiếp khách, đau đớn, nhục nhã nàng tự tử. Tú Bà sợ mất vốn bèn đưa nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để mụ thực hiện một âm mưu mới. Đoạn trích miêu tả tâm trạng của nàng khi ở lầu Ngưng Bích. - Đoạn trích có thể chia làm 3 phần: + 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều. + 8 câu tiếp: Nỗi nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ. + 8 câu cuối: Tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. b) Phân tích chi tiết. - Tám câu thơ đầu miêu tả hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều: “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”, hai chữ “khoá xuân” cho thấy Kiều đang bị giam lỏng ở lầu. Một mình nàng trơ trọi giữa không gian mênh mômg, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên một không gian rợn ngợp “Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh non xa, trăng gần như gợi hình ảnh.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. Đứng trên lầu phóng tầm mắt nhìn ra, chỉ thấy những dãy núi mờ mờ xa xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy đang giam lỏng một thân phận chơi vơi, trơ trọi, không một bóng người, không một tâm hồn quen thuộc để trò chuyện. Sáng chỉ biết làm bạn với mây, đem chỉ biết làm bạn với đèn trong thời gian tuần hoàn khép kín ấy chỉ thêm tô đậm sự giam hãm con người khiến cho nàng càng trở nên nhỏ bé, cô đơn. Đúng là “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” . Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật hai mối phụ hoạ nhau mà tác động đến tâm trạng nàng khiến cho lòng nàng đồn dập lớp lớp những nỗi niềm chua xót thương đau. - Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, nàng chỉ biết tìm về với người thân qua nỗi nhớ người yêu và cha mẹ. Tác giả đã diễn tả rất xúc động và sâu sắc nỗi nhớ ấy qua lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời gốc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai Nàng đã dành cho Kim một chữ “tưởng”. Tưởng là tưởng tượng, liên tưởng. Nàng nghĩ đến lời thề hôm nào dưới trăng giờ đây vẫn còn đó mà người thì đôi ngả chia li. Không những vậy nàng còn thương Kim ngày đêm khắc khoải chờ mong mình và chạnh lòng thương mình bơ vơ nơi đất khách. Mấy chữ bao giờ cho phai vẽ nên một thời gian vời vợi. Một tấm lòng vị tha,chung thuỷ thật đáng trân trọng. Bên cạnh nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ thương cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Kiều hi sinh đời mình, mối tình cao đẹp để cho gia đình được sum họp, chỉ riêng nàng phải lưu lạc nơi đất khách. Thế mà nàng đâu nghĩ đến nỗi đau của mình. Trên là chữ tưởng dành cho người yêu đến đây nàng lại xót cho cha mẹ, đó là nghĩa tình sâu nặng hiếm có. Không chỉ còn thương mà còn đau, còn tưởng tượng ra hình bóng tội nghiệp “tựa cửa hôm mai” của những người đã sinh dưỡng nàng. Tựa cửa là hình ảnh chờ mong khắc khoải, hôm mai là thời gian đằng đẵng, cha mẹ nàng già yếu làm sao chịu được.Thành ngữ dân gian đã tăng sức biểu cảm cho câu thơ, làm cho lời độc thoại nội tâm của nàng thêm chân thành, da diết. Qua đó ta thấy Kiều là một người con hiếu thảo. - Nỗi buồn dâng lên xâm chiếm lòng nàng và thấm đẫm cảnh vật. Tám câu cuối dựng lên một bức tranh buồn bắt đầu bằng hai chữ “buồn trông”. Hình.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> như ở đây chỉ có tâm trạng. Với quan niệm mĩ học phong kiến, nhà thơ lấy thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm nhân vật, và khung cảnh ấy thường được miêu tả phác hoạ, khái quát bằng hình tượng ngôn ngữ ước lệ. Nhưng ở đoạn thơ này cảnh vật thiên nhiên lại hết sức chân thực với cửa biển, cánh buồm, hoa trôi, nội cỏ, chân mây..với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như ngọn nước mới sa, nội cỏ xanh xanh, tiếng sóng ầm ầm..những cảnh ấy dễ đi vào lòng người gợi lên cái tình của nhân vật thấm vào cảnh. Ở đây, mỗi cảnh vật là một ẩn dụ về tâm trạng và số phận của Kiều: những cánh buồm thấp thoáng xa xa nơi cửa bể chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà khôn xiết; những cánh hoa trôi man mác trên dòng nước lại nhắc đến thân phận lênh đênh, lạc loài; rồi màu xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu khiến cho nỗi buồn càng mênh mang, da diết trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội nên nỗi kinh hoàng lo sợ khi “ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” tiếng sóng biển hay chính là tiếng sóng của cuộc đời ngang trái đang ập xuống bủa vây thân phận bé nhỏ? Liệu nàng có thoát được không? Tiếng sóng như một lời dự báo tai hoạ đang ập xuống đời nàng về mười lăm năm lưu lạc mà Kiều phải trải qua. Nó là nốt nhấn kinh hoàng đẻ khép lại bản nhạc buồn ở lầu Ngưng Bích và mở ra một chặng đời lưu lạc. Tám câu thơ tuyệt bút đã đưa nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh cao hiếm có. Đó là nhờ tài năng của nhà thơ, nhưng trước hết xuất phát từ cái tình lớn của ông đối với nhân vật, đối với cuộc đời. *************************************************************. 4.5. Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. a) Tác giả, tác phẩm: - Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu(1822- 1888) gọi là Đồ Chiểu sinh tại quê mẹ Gia Định nay là thành phố Hồ Chí Minh. Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi nhưng sau đó 6 năm thì bị mù. Không đầu hàng số phận, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Khi Pháp chiếm Nam Kì ông cùng lãnh tụ nghĩa quân bàn kế đánh giặc và viết thơ văn khích lệ tinh thần yêu nước. Lúc Nam Kì rơi vào tay giặc, ông về sống ở Bến Tre nêu cao tinh thần trước kẻ thù, giữ trọn lòng trung với Tổ quốc với nhân dân. Ông là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ông vừa chở đạo vừa thể hiện tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm. - Tác phẩm: Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời nhiều áng văn có giá trị nhằm truyền bá đạo lí làm người như: Lục Vân Tiên, Dương Từ- Hà Mậu..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Nhiều tác phẩm cổ vũ lòng yêu nước như: Chạy giặc, văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc..... b) Vài nét về Truyện Lục Vân Tiên. Đây là truyện thơ nôm của Đồ Chiểu, được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XX và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân dưới hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian. Nó được kết cấu theo lối tiểu thuyết chương hồi xoay quanh diễn biến, cuộc đời của nhân vật chính. Truyện được viết nhằm mục đích dạy đạo lí làm người như: xem trọng tình nghĩa giữa con người với con người(cha mẹ, vợ chồng, bè bạn, những người cưu mang khi hoạn nạn), đề cao hành động nghĩa hiệp; thể hiện khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng( kết thúc có hậu) đó là mô típ thường thấy ở cổ tích. Sau khi ra đời, truyên được in nhiều lần và có nhiều văn bản khác nhau. Văn bản hiện nay dùng có 2082 câu thơ lục bát. c) Tóm tắt. Lục Vân tiên quê ở quận Đông Thành, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng từ giã tôn sư xuống núi đua tài.Trên đường về nhà, gặp bọ cướp hoành hành, chàng đã ra tay cứu Kiều Nguyệt Nga, cảm ân đức, Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó suốt đời với chàng và tự mình vẽ một bức chân dung Vân Tiên luôn giữ bên mình. Chàng tiếp tục lên đường gặp và kết bạn với Hớn Minh. Sau khi thăm cha mẹ, chàng ghé thăm Võ Công- người hứa gả con gái cho mình. Từ đây chàng có thêm người bạn đồng hành là Tử Trực, tới kinh gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiêm. Thấy Tiên tài cao, Hâm -Kiệm sinh lòng ghen ghét, đố kị. Sắp vào thi, Tiên được tin mẹ mất, chàng bỏ thi về chịu tang mẹ. Trên đường về, khóc mù hai mắt. Chàng bị lang băm, thầy bói lừa hết tiền, bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu vào bãi, được gia đình ông Ngư cứu. Sau đó bị gia đình Võ Công hãm hại bỏ vào hang núi, được du thần và ông Tiều cứu ra. Chàng gặp Hớn Minh vì trừng trị con nhà ỷ thế làm càn mà phải trốn ở rừng. Hớn Minh đón bạn về nương náu nơi am vắng. Năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, ghé vào Võ Công hỏi thăm tin tức, Võ Công ngỏ ý muốn gả con gái bị Trực mắng hổ thẹn ốm chết. Nghe tin Vân Tiên chết, Nguyệt Nga thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, thù oán tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Nàng mang theo hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật bà đưa nàng dạt vào vườn hoa họ Bùi, Bùi Công nhận nàng làm con nuôi nhưng Bùi Kiệm muốn lấy nàng làm vợ. Nàng trốn vào rừng nương nhờ bà lão dệt vải. Vân Tiên ở với Hớn Minh được Tiên cho thuốc sáng mắt, chàng về thăm cha, viếng mẹ, thăm cha Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ trạng nguyên được vua cử đi dẹp giặc Ô Qua, Hớn Minh được cử àm phó tướng..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Đánh tan giặc, chàng lạc vào rừng đến nhà bà lão gặp được Nguyệt Nga. Chàng về tâu hết sự tình, kể gian ác bị trừng trị. Vân Tiên và Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc. d) Nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích. Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp mang lí tưởng mà tác giả muốn gửi gắm niềm tin và khát vọng của mình. Đó là khát vọng có một người anh hùng đem tài năng của mình ra hành đạo giúp đời trong xã hội đầy rẫy những cái ác, cái xấu. Trong đoạn trích, Vân Tiên là một chàng trai mới rời trường học bước vào đời lòng đầy hăm hở muốn lập công danh. Gặp chuyện bất bình, cũng là thử thách và cơ hội cho chàng thể hiện tài năng vì thế khi gặp bọn cướp hung hãn chàng hành động ngay mà không cần một chút đắn đo, nghĩ suy hay tính toán. ‘Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô; kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ, chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Một loạt những động từ mạnh như: bẻ, xông vô, kêu .. thể hiện hành động thật dứt khoát, tung hoành, dũng mãnh sẵn sàng tuyên chiến với cái ác. Chưa biết người bị hại là ai, giữa một bọn côn đồ hung hãn được trang bị gươm giáo sáng loà nếu là kẻ hèn nhát, chàng sẽ bỏ chạy; nếu là người thờ ơ chàng sẽ lẫn tránh. Nhưng không, chàng xông ngay vào bọn cướp. Hình ảnh Vân Tiên xông pha giữa đám cướp được miêu tả thật đẹp: Vân Tiên tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang; Lâu la bốn phía vỡ tan; Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay; Phong Lai trở chẳng kịp tay; Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. Chàng được so sánh với Triệu Tử Long- một tướng tài của Lưu Bị. Điều đó cho thấy Vân Tiên không những là con người muốn, dám mà còn có khả năng thực hiện việc nghĩa. Bọn cướp đã bị đánh tan, Phong Lai tên cầm đầu đã bị giết chết. Qua đó, cho ta thấy chàng là một con người tài ba, dũng cảm và vị nghĩa dùng cái tài của mình để bênh vực kẻ yếu chiến thắng các thế lực bạo tàn. Cuộc chiến giữa Vân Tiên với cướp là cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác. Ở đây cái ác hoành hành, cái thiện lên ngôi và chiến thắng. Thái độ của chàng cư xử với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài nhưng cũng rất từ tâm nhân hậu. Thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, chàng “động lòng” tìm cách an ủi “ta đã trừ dòng lâu la”. Khi nghe họ nói muốn lạy tạ, chàng gạt đi ngay “Khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai” ở đây có phần câu nệ của lễ giáo phong kiến nhưng chủ yếu là đức tính khiêm nhường của nàng. Chàng không muốn nhận cái lạy tạ của hai cô gái, từ chối lời mời về thăm nhà của Nguyệt Nga dường như với chàng làm việc nghĩa là một bổn phận, là lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, làm người như thế cũng phi anh hùng”. Đó là mẫu người lí tưởngcủa Đồ Chiểu thấy việc nghĩa là tự nguyện.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> làm và đã làm thì không cần trả ơn. Vân Tiên trong đoạn trích này không chỉ là một chàng trai tài ba, dũng cảm mà còn là một con người trọng nghĩa khinh tài rất đáng khâm phục. e) Nhân vật Kiều Nguyệt Nga. Nếu Lục Vân Tiên mang nét đẹp của nhân vật chính nghĩa thuộc nam giới thì Nguyệt Nga lại mang vẻ đẹp của người phụ nữ đức hạnh. Ở đoạn trích này chỉ qua đối thoại, tác giả đã cho thấy nàng là cô gái hiền hậu, nết na, trọng ân tình. Hiền hậu, nết na trong lời thưa gửi, đối đáp và ân tình trong cách trả ơn. Đây là đoạn lời thoại hay tác giả viết để ca ngợi những nét đẹp trong tâm hồn người con gái. Ở nàng trong cái nét khuê các của con gái nhà quan có nét thuỳ mị, nết na của người phụ nữ Việt Nam: Làm con đâu dám cãi cha; Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. Đặc biệt trong lời nói với người đã cứu mình: Trước xe quân tử tạm ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Chts tôi liễu yếu đào thơ.. Những chữ quân tử tạm ngồi đối lập với tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa, chút tôi không chỉ nói lên thái độ mang ơn, chịu ơn mà còn thể hiện sự nết na của người con gái trước ân nhân cứu mạng, cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Nhưng cao đẹp nhất là sự ân tình được bộc lộ trong nguyện vọng và cách trả ơn của nàng “Ơn ai một chút chẳng quên” huống chi là ơn cứu mạng. Vì thế nàng muốn đền ơn cho chàng: Hà Khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng Và muốn đền ơn một cách cụ thể, xứng đáng cho người cứu mình: Gặp đây đang lúc giữa đàng Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.. Cách trả ơn không chỉ nói lên tấm lòng chân thành của nàng mà còn nói lên quan niệm đền ơn của nhân dân ta: đền ơn không chỉ bằng lời nói mà phải bằng vật chất cụ thể, có như thế mới chứng tỏ tấm lòng thành của mình đối với ân nhân. Trong đoạn trích ân tình hiện lên như một nét đẹp của Nguyệt Nga, nét đẹp đó theo suốt cuộc đời người con gái thuỷ chung tiết hạnh. Vì thế nàng đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, trở thành tấm gương cho mọi người học tập. ************************************************************* PHẦN 3: CÁC VĂN BẢN THƠ VÀ TRUYỆN HIỆN ĐẠI.. 1. Văn bản: Đồng chí.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Chính Hữu. 1. Trình bày vài nét về tác giả và tác phẩm? - Tác giả: Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc( 1926- 2007) quê ở Lộc Hà- Hà Tĩnh. Ông từ người lính Trung đoàn thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. Thơ ông hầu như chỉ viết về người lính trong hai cuộc kháng chiến tranh víi c¶m xóc dån nÐn, ng«n ng÷ vµ h×nh ¶nh chän läc, hµm sóc. N¨m 2000 ông đợc nhà nớc trao tặng giải thởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuËt. - Tác phẩm: Bài thơ đồng chí đợc sáng tác năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947. Đây là tác phÈm tiªu biÓu viÕt vÒ ngêi lÝnh c¸ch m¹ng cña v¨n häc chèng Ph¸p. 2. Em hiểu gì về nhan đề bài thơ. Bài thơ lấy nhan đề “Đồng chí” cách đặt tên bài thơ thật giản dị, chân thực, mộc mạc nh đời thờng. Đồng chí là những ngời cùng chung chí hớng, chung lÝ tëng, cïng ë trong mét ®oµn thÓ chÝnh trÞ, c¸ch m¹ng. Hai tiÕng gäi nµy trë nên thân thuộc, thiêng liêng của những anh bộ đội Cụ Hồ sau cách mạng tháng Tám. Lấy tiếng gọi này làm nhan đề bài thơ, tác giả muốn nhấn mạnh cơ sở hình thành tình đồng chí cũng nh những biểu hiện và sức mạnh tạo nên vẻ đẹp trong tâm hồn của anh bộ đội Cụ Hồ. 3. Phân tích bài thơ. * Cơ sở hình thành tình đồng chí. - Họ là những con người cùng cảnh ngộ xuất thân từ những miền quê nghèo khó “ Quê hương anh nước mặn đồng chua; Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” đó là cơ sở cùng chung giai cấp xuất thân của những người lính cách mạng. Chính điều đó cùng với mục đích, lí tưởng chung đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở thành thân quen với nhau. - Tình đồng đội được nảy sinh từ chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát bên đầu’. Súng là tượng trưng cho chiến đấu, đầu là tượng trưng cho lí tưởng, ý chí. Hai hình ảnh đặt cạnh bên nhau, bổ sung cho nhau tạo sự gắn kết bền chặt. - Tình đồng đội, đồng chí còn nảy nở và bền chặt hơn trong sự chan hoà, chia sẻ những gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã thể hiện bằng một hình ảnh cụ thể giản dị mà hết sức gợi cảm “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Biểu tượng đắp chăn chung đã trở nên quen thuộc trong đời sống người lính qua hai cuộc kháng chiến, nay được Chính Hữu đưa vào thơ thật giản dị mà sâu sắc. Sau câu thơ này, nhà thơ đã hạ một dòng thơ đặc biệt “Đồng chí”. Câu thơ chỉ có hai tiếng với một dấu chấm than tạo một nốt nhấn ngân nga trong lòng độc giả. Nó vang lên như một phát hiện, như một lời khẳng định về tình cảm cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ. Đồng thời nó như một cái bản lề nối kết đoạn đầu và đoạn sau của bài thơ. Sáu câu thơ trước hai tiếng ấy là cội.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> nguồn và sự hình thành tình đồng chí keo sơn giữa những người lính cách mạng còn mười câu thơ tiếp theo là những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí giữa những người lính. * Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. - Đồng chí là sự thấu hiểu, cảm thông những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Anh có ruộng nương nhưng gửi nhờ bạn, gian nhà trống không mặc kệ gió mưa. Hai chữ “mặc kệ” thể hiện thái độ dứt khoát mang dáng dấp trượng phu. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính là hình ảnh ẩn dụ thể hiện nỗi nhớ của hậu phương đối với người lính ở chiến trường. Ở đây cái chung đã lấn át cái riêng, người lính đã sẵn sàng gác lại tất cả để ra đi vì nghĩa lớn. Điều đó một lần nữa lại khẳng định vẻ đẹp trong tâm hồn người lính chống Pháp. - Đồng chí là cùng nhau chịu đựng, chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trong cuộc đời người lính. Thiếu thốn về quân trang quân dụng, thiếu thốn về thuốc men “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, chân không giày”. Và nhất là cái giá lạnh như cắt da cắt thịt ở vùng Tây Bắc về mùa đông cùng với sự hành hạ của những cơn sốt rét rừng thế nhưng trong gian khổ, bệnh tật, buốt giá vẫn sáng lên nụ cười của người lính. Họ đã chiến thắng hoàn cảnh bởi họ thương nhau, một hành động “nắm tay” vừa nói lên sự gắn bó sâu nặng vừa thể hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh giúp họ vượt qua khó khăn, gian khổ. - Kết thúc bài thơ là một hình ảnh đặc sắc: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tîng của cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh nổi bật ba hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Trong đêm sương muối của rừng hoang, trong cái giá lạnh tê buốt ấy những người lính phục kích chờ giặc, mắt đăm đăm tay ôm súng nhìn về phía trước trong tư thế thần kinh căng như chão sẵn sàng giặc đến là nhả đạn bất cứ lúc nào. Trong khoảnh khắc căng thẳng ấy họ vẫn kịp nhận ra vầng trăng, nhận ra cái đẹp. Vầng trăng như treo lơ lửng đầu mũi súng “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ “..còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh, trong sự bát ngát”. Đó là một hình ảnh được cảm nhận trong những đêm hành quân, phục kích của chính tác giả. Ngoài ý nghĩa thực, hình ảnh này còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra những liên tưởng phong phú. Súng và trăng là gần và xa, là thực tại và mơ mộng, là chất chiến đấu và chất trữ tình, là chiến sĩ và thi sĩ... Đó là các mặt bổ sung nhau, hài hoà với nhau của người lính cách mạng, đó cũng là biểu tượng của thơ ca kháng chiến, một nền thơ ca kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn bay bổng..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Đồng chí là một bài thơ hay, ngôn ngữ cô đúc, cảm xúc dồn nén đã khắc hoạ được những phẩm chất cao đẹp của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp, đó là tình đồng chí thắm thiết keo sơn. Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng đồng chí vẫn mãi là khúc hát xúc động, sâu lắng. *************************************************************. 2. Văn bản: Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Phạm Tiến Duật 1. Trình bày vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Phạm Tiến Duật(1941-2007) quê ở Phú Thọ. Năm 1964, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành nhà thơ tiêu biểu thời chống Mĩ. Thơ ông thường viết về hình ảnh người lính, những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường trường sơn với một giọng thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch nhưng sâu sắc. - Tác phẩm: Bài thơ được viết vào năm 1969 được rút từ tập thơ “Vầng trăng- Quầng lửa”của tác giả. 2. Em hiểu gì về nhan đề bài thơ. Bài thơ có một nhan đề dài, tưởng chừng như thừa nhưng lại thu hút được người đọc bởi sự độc đáo, khác lạ của nó “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề bài thơ làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe không kính, điều đó chứng tỏ tác giả đã trải nghiệm và am hiểu đời sống chiến tranh. Qua nhan đề bài thơ cho thấy đây không chỉ có một chiếc xe không kính mà là cả một tiểu đội hay nói cách khác là nhiều tiểu đội xe không kính, điều đó phần nào phản ánh được hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mĩ. Nhưng tại sao tác giả lại thêm vào từ bài thơ? Thêm vào như vậy để thấy rằng những chiếc xe vốn bình thường bị chiến tranh tàn phá biến dạng đến trơ trụi tưởng không có gì nên thơ nhưng dưới cái nhìn của Phạm Tiến Duật nó nên thơ đó là chất thơ của hiện thực, chất thơ của tuổi trẻ. Để qua những chiếc xe không kính này, tác giả làm nổi bật những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ung dung, hiên ngang, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. 3. Hình ảnh những chiếc xe không kính. Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả chọn để lập tứ cho bài thơ. Đó là những chiếc xe: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước. Chiến tranh đã làm cho những chiếc xe vốn bình thường trở nên biến dạng đến trơ trụi một loạt điệp từ “không” đã góp phần thể hiện điều đó. Xưa nay hình ảnh xe cộ, tàu thuyền được đưa vào thơ thường được các thi sĩ thi vị.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> hoá, lãng mạn hoá mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực như : Bài ca lái xe đêm của Tố Hữu hay Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên nay trong thơ xuất hiện những chiếc xe không kính được miêu tả rất thực, thực đến trần trụi. Tác giả lí giải nguyên nhân cũng rất thực “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Động từ giật, rung cho thấy chiến trường dữ dội, khốc liệt. Xe không kính không phải hiếm trong chiến tranh nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, nghịch ngợm, thích cái mới lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa vào thành hình tượng độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Để rồi từ hình ảnh này, tác giả làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. 4. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ hội để những chiến sĩ lái xe bộc lộ phẩm chất cao đẹp, sức mạnh lớn lao của mình. Bằng cảnh diễn tả cụ thể, gợi cảm, hình ảnh những chiến sĩ lái xe hiện lên với một tư thế ung dung, hiên ngang bất chấp khó khăn, gian khổ: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Một loạt điệp từ nhìn góp phần thể hiện tư thế đó, đặc biệt là cái nhìn thẳng thể hiện sự coi thường khó khăn, nguy hiểm tiến vào miền Nam trong mưa bom bão đạn. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Khổ thơ ghi lại cảm giác của người chiến sĩ khi ngồi trong buồng lái qua cái nhìn khoáng đạt, yêu đời, lạc quan của người lính. Qua khung cửa không có kính chắn gió, các anh như được trực tiếp tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Đoạn thơ hay về âm điệu, hình ảnh, cách nói. Câu thơ nhanh gấp như bánh xe đang phóng ào ào ra trận. Hiện thực ngồn ngộn, chính xác đến từng chi tiết nhưng đằng sau hiện thực ấy là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu vững vàng của người chiến sĩ. Để có được cảm giác ấy, tác giả đã từng chứng kiến, đã từng ngồi trên những chiếc xe không kính vào chiến trường. Phép so sánh như sa/ như ùa gợi tả chiếc xe đang phóng nhanh xuống đèo, rẽ gấp. Bên cạnh tư thế chiến đấu là một tinh thần lạc quan, coi thường khó khăn, gian khổ. Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Không có kính ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay lái trăm cây số nữa. Mưa, bụi là khó khăn gian khổ. Con đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ được Nguyễn Đình Thi miêu tả “Bụi Trường Sơn nhoè trong trời lửa” hay một bài thơ khác của Phạm Tiến Duật có viết “Bụi mù trời mùa hanh, nước trắng khe mùa lũ” thế nhưng đối với các anh mưa, bụi có hề gì, đó là chuyện vặt . Một loạt những từ: ừ thì, chưa cần, phì phèo, cười ha ha, chưa cần thay...thể hiện sự coi thường, bất chấp. Đằng sau những chữ bông đùa ấy là một bản lĩnh chiến đấu vững vàng của người lính. Trong chiến tranh ác liệt, giữa bom đạn mù trời vẫn vang lên tiếng cười ha ha thật trẻ trung, yêu đời đến lạ thường. Tình đồng chí, đồng đội thật sôi nổi, thắm thiết và cao đẹp. Các anh cùng chung thử thách trong bom giật, bom rung với cái bắt tay qua cửa kính vỡ đầy tự tin kiêu hãnh. Một bữa cơm dã chiến giữa núi rừng đã tạo nên tình cảm gia đình của người lính: Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi...Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy. Xong bữa các anh lại tiếp tục lên đường “ Lại đi, lại đi” vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Khổ cuối của bài thơ ngân vang một lời thề chiến đấu: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim Ở đây, nhà thơ đã khắc hoạ một sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần. Chiếc xe đã vì bom đạn của kẻ thù làm biến dạng: không kính, không đèn, không mui...nhưng điều kì diệu thay là chiếc xe vẫn chạy, vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lí giải rất tự nhiên, bất ngờ đến thú vị “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là một trái tim “Biết lẽ phải, biết yêu thương căm giận; biết đi tới và làm nên thắng trận”. Trái tim đã trở thành nhãn tự của bài thơ, là hình ảnh hoán dụ về người chiến sĩ. Trái tim ấy được lí tưởng soi đường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ hay thể hiện rõ phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Với giọng thơ mới lạ, ngang tàng, nghịch ngơm, rất lính, tác giả đã khai thác chất liệu hiện thực của đời sống chiến tranh vẽ nên những chiếc xe không kính để qua đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi. Bài thơ như một khúc hát của những chiến sĩ lái xe lạc quan phơi phới trong chiến tranh chống Mĩ ác liệt. 5. Ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ:.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Ngôn ngữ bài thơ là ngôn ngữ thường ngày mang đậm chất lính lái xe Trường Sơn. Ngôn ngữ ấy mang tính khẩu ngữ tự nhiên không chỉ làm cho bài thơ dễ hiểu mà còn làm cho bài thơ sống động, ngỡ như hiện thực của người lính lái xe đang ùa vào trang thơ. Những từ : ừ thì, phì phèo châm điếu thuốc, nhì nhau mặt lấm cười ha ha.. đã góp phần khắc hoạ tính cách trẻ trung, ngang tàng của người lính. - Giọng điệu mới lạ vừa hiên ngang lại có chút bông đùa, tinh nghịch, vừa lắng sâu trách nhiệm lại vừa thanh thản, vui tươi. Giọng điệu ấy đem lại sự khoẻ khoắn, trẻ trung, yêu đời cho bài thơ, phản ánh đúng tính cách và tâm hồn của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Ngôn ngữ và giọng điệu là hai phương diện thành công của bài thơ, gây ấn tượng mạnh và sâu sắc đối với người đọc về người lính trong bài thơ. *************************************************************. 3. Văn bản: Đoàn thuyền đánh cá Huy Cận 1. Nêu vài nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời bài thơ. - Tác giả: Huy Cận( 1919-2005) Quê ở Vũ Quang- Hà Tĩnh. Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945, sau năm 1945 ông đã từng giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính quyền cách mạng. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập Lửa thiêng(1940), sau cách mạng ông tiếp tục sáng tác và trở thành nhà thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Năm 1996, ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. - Tác phẩm: Bài thơ được sáng tác trong một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh năm 1958 và đưa vào tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng(1958). 2. Cảm hứng bao trùm bài thơ: Sự thống nhất giữa cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng lao động đã tạo nên những hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn thể hiện niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống mới. 3. Âm hưởng và giọng điệu. Bài thơ mang âm hưởng khoẻ khoắn, sôi nổi lại vừa phơi phới, lạc quan bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần. Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phới phới. Cách gieo vần linh hoạt, biến hoá vần trắc xen vần bằng, vần liền xen vần cách. Các vần trắc tạo sức mạnh, sức dội ; cácvần bằng tạo sức vang, sức bay bổng. 4. Phân tích chi tiết: * Cảnh đoàn thuyền ra khơi..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Đoàn thuyền đánh cá ra khơi được miêu tả trong 4 câu thơ đầu: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa khổng lồ từ từ lặn xuống đáy biển. Biển cả như một ngôi nhà vũ trụ đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, cửa đã sập, then đã cài. Thiên nhiên đi vào yên nghỉ trong lúc đó, đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Chữ lại ở câu thứ ba gợi tả một hoạt động thường xuyên, liên tục, đều đặn của đoàn thuyền. Bằng trí liên tưởng và tưởng tượng bay bổng kết hợp với sự đối lập giữa hoạt động con người với thiên nhiên, tác giả đã làm nổi bật tư thế, ca ngợi sự bền bỉ, lạc quan của người lao động bước đầu làm chủ cuộc sống mới. Họ ra khơi trong niềm vui, sự phấn chấn với những câu hát cùng với gió trời đã thổi phồng cánh buồm đưa con thuyền chạy nhanh ra biển. * Cảnh đánh cá đêm trên biển. - Biển cả thật giàu có với bao loài cá: Cá bạc biển đông lặng; cá thu biển đông như đoàn thoi; cá nhụ, cá chim cùng cá đé; cá song lấp lánh đuốc đen hồng, cái đuôi em quẫy trăng vàng choé; vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông. Những so sánh, nhân hoá đã tạo những hình ảnh mới lạ dựng lên một bức tranh với nhiều màu sắc lung linh, huyền ảo nhờ trí tưởng tượng và liên tưởng độc đáo. - Công việc đánh cá đêm trên biển được miêu tả trong niềm vui lạc quan phơi phới. Con thuyền vốn nhỏ bé càng trở nên mạnh mẽ và kì vĩ biết bao khi có gió làm lái, có trăng làm buồm: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận với vây giăng. Con người đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả với một tư thế chủ động trong niềm vui sự lạc quan phơi phới. Công việc mệt nhọc đã trở thành câu hát ngợi sự giàu có của biển cả quê hương: Ta hát bài ca gọi cá vào/gõ thuyền đã có nhịp trăng cao/biển cho ta cá như lòng mẹ. Sức mạnh của con người chinh phục thiên nhiên được thể hiện trong những câu thơ khoẻ khoắn, gân guốc “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Hai chữ xoăn tay đầy ấn tượng đã khắc hoạ sức mạnh cơ bắp và sức mạnh tinh thần của những dân chài lực lưỡng đã quen với sóng gió biển khơi. Sức mạnh ấy còn được thể hiện rõ hơn trong “Câu hát căng buồm với gió khơi” và “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” của ngư dân lúc trở về bến sau một đêm lao động hăng say với nhiều thành quả to lớn..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> * Cảnh đoàn thuyền trở về. Cảnh đoàn thuyền trở về được miêu tả bằng cảm hứng lạc quan phơi phới. Đầu bài thơ là câu hát căng buồm cúng gió khơi kết thúc là câu hát căng buồm với gió khơi đã tạo cho bài thơ một kết cấu đầu cuối tương ứng. Ra đi cũng khẩn trương, hào hứng trở về cũng với tinh thần ấy. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” là sự liên tưởng độc đáo, thú vị. Đó là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên, chạy đua để lao động xây dựng cuộc sống mới. Thành quả lao động sau chuyến ra khơi ấy được khắc hoạ bằng hình ảnh hết sức ấn tượng: Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Màu mới là màu của bình minh, của niềm tin và hy vọng. Cùng với mặt trời của bình minh đang lên còn xuất hiện hàng triệu mặt trời lấp lánh huy hoàng trong mắt cá làm cho cái hùng vĩ và tráng lệ hài hoà vào nhau tuyệt đẹp trong bức tranh thơ tạo nên nét độc dáo trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. * Với âm hưởng hào hùng, khoẻ khoắn; ung dung, tự tin, bay bổng, lãng mạn, lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng; cách gieo vần linh hoạt: trắc xen bằng, liền xen cách,vần trắc tạo sức mạnh sức dội, vần bằng tạo sức bay bổng lạc quan phơi phới. VĂN BẢN: BẾP LỬA. Bằng Việt. 1. Vài nét về tác giả và tác phẩm. - Tác giả: Tên thật là Nguyễn Việt Bằng Sinh năm 1941 ở Hà Tây nay là Hà Nội. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, thường khai thác những kỉ niệm tuổi thơ, những ước mơ tuổi trẻ. - Tác phẩm: Được ông viết vào năm 1963, khi còn du học ngành luật ở Liên Xô và được đưa vào tập thơ “Hương cây- Bếp lửa” in chung với Lưu Quang Vũ. 2. Tìm hiểu nhan đề bài thơ. Bài thơ lấy nhan đề là “Bếp lửa” , nhan đề thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ. Bếp lửa là hình ảnh xuyên suốt bài thơ. Trong bài thơ, hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà và tình bà cháu. Ngoài ý nghĩa thực, bếp lửa còn là hơi ấm của gia đình, là quê hương, là bà kính yêu. Chính vì thế, bếp lửa đã khơi nguồn cảm xúc để từ đó tác giả thể hiện tình cảm biết ơn, kính yêu đối với bà cũng như đối với quê hương đất nước. 3. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ. - Hình ảnh bếp lửa(ngọn lửa) được nhắc tới 10 lần trong bài thơ, nó là hình ảnh xuyên suốt bài thơ trở thành linh hồn của tác phẩm, tạo nên ấn tượng khó quên trong lòng người đọc..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Hình ảnh bếp lửa gắn bó máu thịt với cuộc đời bà, vì thế khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và khi nhớ về bà là nhớ ngay đến bếp lửa. Bởi chính bếp lửa ấy, người cháu đẫ được sưởi ấm trong lòng bà, được sống trong tình bà cháu thiêng liêng. - Hình ảnh bếp lửa mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó tượng trưng cho tình bà cháu, tượng trưng cho hồn quê đất nước Việt Nam, nó còn là niềm yêu thương, sự ấm cúng, niềm tin yêu của mỗi con người, mỗi gia đình Việt Nam, nó là chỗ dựa tinh thần của mỗi con người trong cuộc sống. Chính vì thế mà tác giả viết: Ôi kì là và thiêng liêng- Bếp lửa và dù có đi xa, được hưởng nhiều niềm vui trong cuộc sống, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả nhưng nhà thơ vẫn nhớ về cái bếp lửa nồng đượm của quê hương, nơi ấy có bà đã chăm sóc cháu trong những ngày thơ ấu đầy gian khổ. - Từ hình ảnh bếp lửa, phần sau bài thơ đã nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa. Đây là hình ảnh khái quát, một ngọn lửa luôn được ủ sẳn và chứa đựng niềm tin dai dẳng trong lòng bà. Nó mang tính biểu tượng cho tấm lòng, sức sống, niềm tin không gì có thể dập tắt nổi. Bếp lửa cũng như tấm lòng bà mãi mãi toả sáng , đó là vẻ đẹp của của người phụ nữ Việt Nam và rộng ra là của dân tộc Việt Nam. 4. Hình ảnh người bà và tình bà cháu. - Trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện lên cùng với bếp lửa quê hương. Đó là người bà vất vả, lận đận: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, lận đận đời bà biết mấy nắng mưa. - Bà là người thương yêu, nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người để cha mẹ yên tâm công tác: Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm bà chăm cháu học. - Bà là người giàu lòng hi sinh, yêu kháng chiến. Giặc đốt làng, hàng xóm giúp đỡ bà cháu dựng lại túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn vững lòng và còn dặn cháu đinh ninh: Bố ở chiến khu bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. - Những đức tính tốt đẹp của bà cũng chính là của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh cứu nước. Tình bà cháu trong bài thơ được thể hiện một cách chân thành và xúc động qua hồi tưởng của người cháu. Tình cảm ấy có hai chiều: bà yêu thương cháu và cháu kính yêu bà .Hai chiều ấy đều được nhớ lại qua một con ngưới là người cháu – tác giả của bài thơ. Bà thương cháu trong tình cưu mang của một nhười già với một người cháu nhỏ khi bố mẹ nó đi công tác xa , dạy cháu làm , chăm cháu học, lo cho cháu lên người. Người cháu nay đã trưởng thành, đi học ở nước ngoài, nhớ về người bà nuôi dạy thuở ấu thơ mà trào lên một nỗi thương bà sâu sắc, một lòng kính yêu và biết ơn bà không.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> cùng. Nhưng không chỉ thu hẹp trong tình bà cháu, mà tình cảm ấy còn gắn liền với cuộc sống đói khổ của nhân dân ta trong năm đói 1945, gắn liền với tình kháng chiến, tình cách mạng, tình hàng xóm láng giềng và mở rộng ra cả những “ niềm vui trăm ngả” Nhờ thế, tình bà cháu trong bài thơ càng thiêng liêng, cao đẹp và mang dấu ấn của thời đại. ************************************** VĂN BẢN: ÁNH TRĂNG Nguyễn Duy. 1 Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ sinh năm 1948 quê ở Thanh Hoá. Là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thường viết về đề tài người lính để từ đó gợi ra những suy ngẫm sâu xa về cuộc đời. - Tác phẩm: Bài thơ viết vào năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh . Bài thơ được tác giả lấy là nhan đề cho cả tập thơ “Ánh trăng”. Bài thơ ghi lại một thoáng, một lần giật mình trước sự vô tình lãng quên quá khứ tình nghĩa. 2. Giải thích nhan đề bài thơ: Bài thơ được đặt tên “Ánh trăng” bởi ánh trăng trong bài thơ mang tính biểu tượng cho thiên nhiên, đất nước hồn hậu, biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình. Ánh trăng ấy đã gần gũi, thân thiết đối với tuổi thơ cũng như thời chiến tranh của người lính trở thành tri kỉ với nhau. Thế nhưng chiến tranh kết thúc, người lính về sống giữa thành phố hiện đại với những tiện nghi sang trọng đã lãng quên quá khứ, lãng quên người bạn tình nghĩa năm xưa, để rồi trong khoảnh khắc mất điện, người lính bắt gặp vầng trăng- người bạn năm xưa. Mặt đối mặt, người lính bỗng giật mình xúc động. Để từ bước ngoặt này, con người sẽ hoàn thiện mình hơn và cũng qua đó nhắc nhở mọi người đạo lí sống phải thuỷ chung, tình nghĩa. 3. Tìm hiểu bài thơ. a. Trăng trong tuổi thơ, trong kí ức chiến tranh. Hai câu thơ đầu gieo vần lưng(sông- đồng), từ với được điệp lại ba lần nhằm diễn tả một tuổi thơ bao la, được hạnh phúc cảm nhận từ vẻ đẹp thiên nhiên, được ngắm trăng trên cánh đồng, trên dòng sông và trên bãi bể. Tất cả như một hoài niệm xa vời của tác giả. Kể về thời chiến tranh ở rừng, trăng đã trở nên thân thiết với người lính qua hai câu thơ tiếp theo(hồi chiến tranh...tri kỉ). Vầng trăng tươi mát, hồn nhiên cùng người lính Cụ Hồ đã trở thành người bạn tri kỉ. Khổ thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở những năm tháng gian lao đã qua của người lính. Ở đây âm điệu thơ liền mạch cùng với.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> ẩn dụ làm nổi bật cái chất trần trụi, hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng “hồn nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng là biểu tượng dẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kỉ ngỡ không bao giờ quên. Từ “ngỡ” nhằm để khẳng định cái tình sâu nặng giữa trăng và người lính. b. Trăng trong hiện tại. - Hoàn cảnh sống thay đổi, con người cũng đổi thay, có lúc trở nên vô tình, bạc bẽo. Sau chiến tranh, người lính về thành phố với một cuộc sống hiện đại “quen ánh điện cửa gương” khiến cho vầng trăng nghĩa tình năm xưa bị vô tình quên lãng. Cách so sánh thật thấm thía “Vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường” khiến cho người đọc phải giật mình. Hình ảnh trăng được nhân hoá, cứ lặng lẽ qua đường chẳng ai hay ai biết. Và một tình huống đời thường đã xáy ra, đó là lúc thành phố mất điện “ Thình lình đèn điện tắt”. Rồi “ Vội bật tung cửa sổ, đột ngột vầng trăng tròn”. Các từ “vội”, “đột ngột” gợi ra tâm trạng đột biến của người lính để nhận ra sự thật. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách,, vươn lên hướng tâm hồn về cái đẹp, cái cao cả. Giọng thơ thì thầm ,trò chuyện như giãi bày tâm sự của mình. Và đây là sự đối mặt rưng rưng, xúc động. Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng. Mặt đối mặt, quá khứ năm xưa hiện về là đồng, là sông, là bể, là rừng khiến nhà thơ nghẹn ngào, ứa lệ. Quá khứ ấy vẫn đẹp, vẫn thuỷ chung, nghĩa tình, bao dung, độ lượng, bất chấp cứ tròn vành vạnh, cứ im phăng phắc thể hiện sự nghiêm khắc để từ đó tác giả phải giật mình. Đó là một pảhn xạ tâm lí của người biết suy nghĩ khi nhận ra sự vô tình, bạc bẽo của mình. Đó là cái giật mình ăn năn, tự trách, tự thấy phải thay đổi cách sống, nhắc nhở bản thân không được quên quá khứ. Thiên nhiên thật nghiêm khắc nhưng cũng ân tình, độ lượng bao dung. - Từ câu chuyện riêng của nhà thơ, bài thơ còn gợi cho người đọc thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng, quá khứ gian lao, nghĩa tình với thiên nhiên, đất nước bình dị, hồn hậu. Vì thế bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nướcnhớ nguồn, gợi lên đạo lí sống tình nghĩa, thuỷ chung. Đó là truyền thống tốt đẹp của con người và dân tộc Việt Nam. 4. Kết cấu và gịong điệu bài thơ. Bài thơ như một câu chuyện để từ đó nhân vật trữ tình nhận ra sự lãng quên và củng cố thái độ sống. Bài thơ có sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình. Thể thơ năm chữ, giọng điệu tâm tình, tự nhiên của tác giả viết về cuộc sống riêng.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> như một lời nhắc nhở đồng thời là sự chia sẻ, gợi nhắc đối với mọi người. Khổ 4, giọng điệu bất ngờ, đột ngột như sững lại là bước ngoặt trong cảm xúc ; đến khổ 5 gịong xúc động, ăn năn, rưng rưng, hối hận ; khổ 6 giọng nghiêm trang, phán xét. *************************************** ÔN TẬP PHẦN TIẾNG VIỆT. I. KHỞI NGỮ. 1. Khái niệm : Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. VD : Điều này ông khổ tâm hết sức. 2. Khả năng kết hợp : Trước khởi ngữ có thể thêm các quan hệ từ : về, với, đối với. 3. Tác dụng của khởi ngữ. - Thường đứng đầu câu có quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa với toàn bộ nồng cốt câu. - Được dùng để nêu lên một vật, một đối tượng hay một nội dung với tư cách là đề tài của câu nói. Giữa khởi ngữ và thành phần câu tiếp theo có thể có trợ từ thì, là để nhấn mạnh, và thường nhấn mạnh cấu trúc ngôn ngữ đi trước. 4. Lưu ý. - Từ dùng làm khởi ngữ có khi trùng với chủ ngữ hoặc vị ngữ. VD : + Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. + Giàu tôi cũng giàu rồi. - Có khi không trùng với từ nào trong câu. VD : + Quan người ta sợ cái uy của quyền thế... II. CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP. 1. Khái niệm : Thành phần biết lập là những thành phần không tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc trong câu. 2. Các thành phần biệt lập : a. Thành phần tình thái : Dùng thể hiện cách nhìn của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu. Các từ thể hiện tình thái : chã nhẽ, lẽ ra, có lẽ, hình như, chắc chắn..... b. Thành phần cảm thán. Được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói. VD : Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ! c. Thành phần gọi – đáp :.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Dùng để tạo lập và duy trì quan hệ giao tiếp. VD : Thưa ông ! d. Thành phần phụ chú. Dùng bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu. Nó thường được đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu phẩy, hai dấu ngoặc đơn hoặc giữa một dấu gạch ngang với một dấu phẩy. Có khi được đặt sau dấu hai chấm. VD : Chúng tôi, mọi người- kể cả anh đề tường con bé sẽ đứng yên đó thôi. III. LIÊN KẾT CÂU VÀ LIÊN KẾT ĐOẠN VĂN. 1. Khái niệm. - Các câu trong đoạn văn phải đượ liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức. - Về nội dung : + Các đoạn phải phục vụ chủ đề của văn bản ; các câu phải phục vụ chủ đề của đoạn văn. + Các đoạn, các câu phải được sắp xếp một cách hợp lí để thể hiện chủ đề. - Về hình thức. + Các câu các đoạn phải được liên kết bằng các phép. * Phép lặp : lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước. * Phép đồng nghĩa, trái nghĩa, liên tưởng : Sử dụng ở câu đứng au những từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với câu trước. * Phép thế : Sử dụng câu đứng sau những từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước. * Phép nối : Sở dụng câu đứng sau những từ ngữ có quan hệ với câu trước. IV. CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI. 1. Phương châm về lượng. Khi gt nói có nội dung, nội dung đáp ứng yêu cầu giao tiếp không thiếu, không thừa. 2. Phương châm về chất. Khi gt không nên nói những điều mà mình không tin là đúng sự thật, không có bằng chứng xác thực. 3. Phương châm quan hệ. Khi giao tiếp cần nói đúng chủ đề, đề tài giao tiếp tránh lạc đề. 4. Phương châm cách thức. Khi gt cần nói rõ ràng, ngắn gọn, rành mạch, tránh nói mơ hồ. 5. Phương châm lịch sự. Khi gt cần tế nhị tôn trọng người khác. VĂN BẢN : MÙA XUÂN NHO NHỎ. Thanh hải..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả : Tên thật là Phạm Bá Ngoãn(1930-1980), quê ở Thừa Thiên-Huế. Là nhà thơ có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những ngày đầu. Thơ ông ngọt ngào, nhỏ nhẹ thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết. - Tác phẩm : Bài thơ mùa xuân nho nhỏ được sáng tác thánh 11-1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, không lâu sau đó nhà thơ qua đời. Bài thơ thể hiện tiếng lòng thiết tha yêu mến cuộc sống và ước nguyện chân thành muốn làm một màu xuân nho nhỏ để dâng hiến cho cuộc đời chung. 2. Giải thích nhan đề bài thơ : Đặt nhan đề bài thơ là Mùa xuân nho nhỏ là một sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Người ta thường dùng nhiều định ngữ gắn với mùa xuân như : mùa xuân chín, mùa xuân xanh, xuân ý, xuân lòng...nhưng mùa xuân nho nhỏ là một phát hiện mới mẻ, sáng tạo và gợi cảm. Từ láy nho nhỏ gợi vẻ khiêm nhường vừa gợi cái xinh xinh đáng yêu của nó, vừa nói được mùa xuân riêng trong lòng nhà thơ vừa hoà cùng mùa xuân chung của đất nước. Sáng tạo mùa xuân nho nhỏ, nhà thơ nguyện làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống, tuổi trẻ của mình để làm một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của cuộc đời, của dân tộc. Vì thế mùa xuân nho nhỏ nhưng ý nghĩa không nhỏ chút nào. 3. Mạch cảm xúc và giọng điệu của bài thơ. - Mạch cảm xúc và tư tưởng của bài thơ là từ cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước đến mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân lớn của đất nước, thể hiện khát vọng được dâng hiến mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung. - Giọng điệu và nhịp điệu biến đổi theo nhịp cảm xúc : Say sưa, trìu mến khi diễn tả cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên, đất trời ; nhịp nhanh, hối hả, phấn chấn khi suy ngẫm về mùa xuân đất nước ; giọng thiết tha, trầm lắng, chân thành khi nguyện làm một mùa xuân nhỏ để dâng cho đời. 4. Phân tích chi tiết bài thơ. * Cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên xứ Huế. - Mùa xuân thiên nhiên xứ Huế được phác hoạ qua một vài nét vẻ : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện. Chỉ vài nét vẻ đã mở ra một không gian cao rộng :dòng sông mặt đất và bầu trời bao la,cả sắc màu thắm tươi của mùa xuân : sông xanh, hoa tím ; cả âm thanh vang vọng của chim trời. - Trước cảnh xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống nhà thơ đang say sưa, ngất ngây : Điều đó thể hiện qua một loạt từ thể hiện giọng ơi, gịong hỏi «ơi, hót chi mà ». Sự nâng niu, trân trọng vẻ đẹp của mùa xuân được tác giả diễn tả bằng một câu thơ giàu chất tạo hình :.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Tưng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. Câu thơ sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh(cảm nhận thính giác), được chuyển thành từng giọt(có hình khối, cảm nhận bằng thị giác) từng giọt lại long lanh sắc màu có thể cảm nhận được bằng xúc giác(hứng). * Cảm xúc về mùa xuân đất nước. - Từ cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên, đất trời nhà thơ chuyển sang những rung cảm về mùa xuân đất nước với hình ảnh người cầm súng và người ra đồng biểu tượng cho hai nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Sức gợi cảm của câu thơ được thể hiện ở từ lộc. Lộc non của mùa xuân theo người cầm súng, theo người ra đồng hay chính họ đã đem mùa xuân đến trên mọi miền Tổ quốc. - Đất nước trong quá khứ với bao gian nan, vất vả, khó khăn và thử thách nhưng trong hiện tại tươi sáng vững bước đi lên trong sự hối hả, xôn xao. Một hình ảnh so sánh thật đẹp thể hiện niềm tự hào, ngưỡng vọng. Đất nước như vì sao, cứ đi lên phía trước. * Suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ. - Từ cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên đất nước , mạch thơ chuyển sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ. Đó là khát vọng hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến một phần tốt đẹp, nhỏ bé của mình vào cuộc đời chung. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp đẽ. Làm con chim, làm nhành hoa, làm nốt trầm xao xuyến. Hình ảnh con chim, nhành hoa lại được lặp lại vừa tạo một đối ứng chặt chẽ vừa mang một ý nghĩa mới. Đó là niềm mong muốn được sống có ích, sống cống hiến cho đời như một lẽ tự nhiên như con chim mang tiếng hót, như đoá hoa toả hương sắc cho đời.- Phần cuối bài thơ tác giả đổi cách xưng hô từ tôi ở khổ 1 đến đây đổi thành ta. Điều đó cho thấy ước nguyện đó không chỉ riêng một mình nhà thơ mà đó cũng là nguyện ước chung của mọi người. Hãy sống có ích, sống cống hiến dù một phần nhỏ bé của mình để làm nên mùa xuân chung cho cuộc đời. - Dù dâng hiến, hoà nhập nhưng cũng không mất đi cái riêng, dù khiêm nhường nhưng cũng phải là nốt trầm ngân nga trong bản hoà ca chung ấy. * Đặc sắc về nghệ thuật. - Thể thơ năm chữ, âm hưởng dân ca nhẹ nhàng, thathiết. - Kết hợp hình ảnh giản dị, gần gũi của thiên nhiên với những hình ảnh mang tính khái quát, biểu trưng. - Cấu tứ chặt chẽ - Giọng điệu đúng tâm trạng, cảm xúc..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> VĂN BẢN : VIẾNG LĂNG BÁC. Viễn Phương. 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả : Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn là một trong những cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Thơ ông nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất thơ mộng ngay trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Ông có nhiều tác phẩm khá nổi tiếng được nhiều bạn trẻ ưa thích : Mắt sáng học trò, đám cưới giữa mùa xuân.... - Bài thơ : Năm 1976, kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được khánh thành. Viễn Phương ra thăm lăng Bác và bài thơ ra đời trong hoàn cảnh ấy và in trong tập thơ Như mây mùa xuân(1978). Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, là lòng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau của nhà thơ cũng như của nhân dân ta khi vào lăng viếng Bác. 2. Cảm hứng và giọng điệu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, là lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghĩ. Cùng với giọng suy tư trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào. 3. Mạch cảm xúc. Mạch vận động của cảm xúc theo trình tự một cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng hàng tre gợi lên hình ảnh của quê hương, xứ sở. Tiếp đến là cảm xúc về hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác và những xúc cảm, suy ngẫm được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng : mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi rời lăng về miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi bên lăng để làm con chim, đoá hoa, cây tre mãi ở bên Người. 4. Phân tích chi tiết. - Mở đầu bài thơ là giây phút xúc động nghẹn ngào khi vào lăng viếng Bác. Nỗi niềm ấy được diễn đạt qua cách xưng hô chân thành : Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Nhà thơ xưng “con” với Bác trong sâu thẳm lòng mình bởi Bác luôn là người cha hiền từ , nhân hậu. Mối quan hệ ruột thịt cha- con đã được Tố Hữu khái quát trong bài “Bác ơi”(Bác nhớ Miền Nam nỗi nhớ nhà, Miền nam mong Bác nỗi mong cha). Giờ đây tình cảm ấy lại trào dâng trong lòng Viễn Phương để rồi lắng xuống khi nhà thơ nhìn thấy “trong sương hàng tre bát ngát”. Nỗi xúc động nghẹn ngào ban đâù đã chuyển thành niềm xúc động thiêng liêng, tôn kính để rồi nhà thơ phải thốt lên: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng. Cây tre tượng trưng cho quê hương, xứ sở Việt Nam, cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Đến thăm Người, nhà thơ như thấy cả dân tộc đứng vây quanh Bác, vẫn tươi nguyên một sắc xanh Việt Nam và dù trong “bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng” vẫn một lòng chung thuỷ, sắt son đối với Bác. Hình ảnh thực của hàng tre bên lăng đã được nâng lên thành hình ảnh biểu tượng cho cả dân tộc khiến cho câu thơ có chiều sâu suy nghĩ, tạo một không khí trang nghiêm khi vào lăng viếng Người. - Tình cảm cha con ruột thịt trong khổ một đã quyện hoà trong tình cảm lãnh tụ-quần chúng thiêng liêng. Đến đây cảm hứng của nhà thơ đã thăng hoa để sáng tạo những hình ảnh tuyệt đẹp về Bác và về lòng dân đối với Bác. Nhà thơ thấy Bác như mặt trời trong lăng và dòng người vào lăng viếng Bác như tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. Đây là những hình ảnh ẩn dụ cô đọng, giàu sức khái quát. Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. Hình ảnh mặt trời trên lăng là hình ảnh mặt trời thực, còn hình ảnh mặt trời trong lăng là hình ảnh ẩn dụ về Bác. Nếu mặt trời thực đi qua lăng để đem ánh sáng đễn cho muôn loài thì Bác Hồ kính yêu của chúng ta với những biểu hiện sáng chói về tư tưởng yêu nước, lòng nhân ái vẫn có sức toả sáng mãi mãi. Ẩn dụ đó càng chứng tỏ sự vĩ đại của Bác cũng như tấm lòng biết ơn, ngưỡng vọng của dân tộc ta đối với Người. Bên cạnh sự vĩ đại ấy là tấm lòng nặng nỗi niềm thương nhớ của nhân ta khi vào lăng Chủ tịch. Những dòng người xếp hàng ngay ngắn vào Lăng viếng Bác được nhà thơ liên tưởng như những tràng hoa thành kính dâng Bác trong sự tiếc thương vô hạn. - Khung cảnh trong lăng được nhà thơ tái hiện thật trang nghiêm, thanh tĩnh như ngưng đọng cả thời gian và không gian. Tác giả hình dung Bác đang ngủ bình yên giữa vầng trăng sáng. Đó là sự nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Người sau cả cuộc đời mải miết đấu tranh cho dân tộc và nhân loại. Vầng trăng sáng ấy còn gợi lên tâm hồn cao đẹp và những vần thơ đầy trăng của Bác. Lời thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh “tròi xanh” đó là ẩn dụ về sự trường tồn vĩnh cửa của Bác. Nhưng tình cảm mách bảo rằng Bác đã ra đi, một cảm giác nhói đau, quặn thắt được thể hiện trong câu thơ đầy xúc động “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Niềm tự hào pha lẫn nỗi đau đớn, xót xa đó là tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng chung của dân tộc. - Khổ cuối là tâm trạng và cảm xúc khi rời lăng. Đó là niềm đau xót, thương nhớ, lưu luyến trào dâng trong lòng tác giả “thương trào nước mắt”. Để rồi.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> tác giả ước nguyện làm con chim cất tiếng hót, làm đoá hoa toả hương thơm, đặc biệt là làm cây tre trung hiếu mãi bên Người. Điệp ngữ “muốn làm” dồn dập, lưu luyến, thiết tha, mãnh liệt của nhà thơ. Hình ảnh cây tre được lặp lại nhưng mang một ý nghĩa mới. Đó là cây tre trung hiếu thể hiện sự trung thành với lí tưởng cao đẹp của Bác. VĂN BẢN: SANG THU. Hữu Thỉnh. 1. Tác giả, tác phẩm. - Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 quê ở Tam Dương- Vĩnh Phúc. Năm 1963, ông nhập ngũ và trở thành cán bộ văn hoá, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông đã tham gia BCH Hội nhà văn Việt Nam các khoá III, IV, V. Từ năm 2000, ông là tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Thơ ông thể hiện những cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên cũng như cuộc sống con người. - Bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977, in lần đầu trên báo văn nghệ, sau đó được in lại nhiều lần trong các tập thơ. Bài thơ là sự cảm nhận tinh tế những chuyển động nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Qua đó thể hiện những suy ngẫm về con người và cuộc sống. 2. Tìm hiểu chi tiết. a. Những cảm nhận tinh tế lúc đất trời chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. - Mở đầu bài thơ là trạng thái ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên “Bỗng”. Dấu hiệu của sự chuyển mùa được nhà thơ cảm nhận bằng các hình ảnh gần gũi, quen thuộc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đó là hương ổi, gió và sương. Hương thơm của quả ổi chín nồng nàn, lan toả “phả’ vào trong làn gió heo may se lạnh “gió se” cùng với làn sương buổi sớm. Mùa thu về mang theo hương quê và mang theo sương mờ ướt lạnh. Dường như có sương, nên thu dễ nhận ra hơn “Sương chùng chình qua ngõ”. Từ láy chùng chình gợi sự quẩn nhẹ, cố ý chậm lại như ngập ngừng, bịn rịn vấn vương hay đợi chờ. Cứ dần dần mềm mại và nhẹ nhàng như thế. Thu đến từ lúc nào không hay để rồi nhà thơ phải giật mình, bối rối nửa tin, nửa ngờ “Hình như thu đã về”. Tất cả đang hoà quyện trong cái tình ngỡ ngàng, bâng khuâng xao xuyến của nhà thơ chợt đón nhận khoảnh khắc giao mùa. - Cái bỡ ngỡ ban đầu đã vụt tan biến để nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước mùa thu. Con sông quê dềnh dàng thong thả trôi khi đã bớt những cơn mưa rào mùa hạ. Những cánh chim vội vã bay về phương nam tránh rét. Tất cả hối hả, xôn xao khi thu về. Không còn cái nắng gay gắt, chói chang của mùa hạ mà thay vào đó là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> sang thu”. Mây trời vắt nửa mình sang thu. Đó là cách diễn đạt độc đáo càng tôn thêm vẻ đẹp của bầu trời thu. - Mùa thu thật sự đã về. Nắng vẫn còn nhưng không gay gắt, những cơn mưa rào đã vơi dần, và thu về tiếng sấm không còn bất ngờ với những hàng cây đứng tuổi. Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Biện pháp đảo ngữ kết hợp với những từ Vẫn còn- vơi dần- cũng bớt nhằm khẳng định rõ nét phút giao mùa. Mặc dù những dấu ấn dư âm của mùa hạ vẫn còn nhưng dường như mang nét riêng của mưa nắng mùa thu. b. Những suy ngẫm về con người và cuộc sống. Bên cạnh những cảm nhận tinh tế về phút giao mùa là những suy ngẫm về con người và cuộc sống. Nắng, mưa, sấm là những biến động bất thường về con người và cuộc đời còn hàng cây đứng tuổi là tượng trưng cho con người đã từng trải. Vì thế khi con người đã từng trải, đã bước sang thu thì sẽ vững vàng hơn trước những biến động bất thường của ngoại cảnh. Với thể thơ 5 chữ, sử dụng nhiều ẩn dụ, nhân hoá, đối lập bài thơ thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt khi đất trời chuển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. VĂN BẢN: NÓI VỚI CON. Y Phương. 1. Tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Y Phương- tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, người dân tộc Tày. Ông sinh năm 1948, quê Cao Bằng. Năm 1968 ông nhập ngũ đén năm 1981 chuyển về công tác tại Sở văn hoá- Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông là chủ tịch Hội văn học - nghệ thuật Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. - Tác phẩm: Ông viết nhiều tác phẩm thể hiện bản sắc dân tộc như: Tên làng, Người khai sinh bài ca, Bài ca thứ chín, Sông Hiến đang yêu. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình được diễn đạt qua những hình ảnh, từ ngữ giàu sức biểu cảm. 2. Tìm hiểu chi tiết. a. Nói với con về cội nguồn sinh dưỡng..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> - Mở đầu bài thơ, người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng. Con được sinh ra và lớn lên trong sự căm sóc, chở che của cha mẹ. Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười. Cha mẹ là người dìu dắt, nâng đỡ từng bước đi của con. Cách diễn tả của nhà thơ rất sinh động vừa diễn tả được bước đi của con vừa diễn tả được tình cảm của cha mẹ trong sự chăm chút, nuôi dưỡng con lớn từng ngày. - Con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Cuộc sống cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được nhà thơ gợi lên qua các hình ảnh đẹp: Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát. Sự gắn bó quấn quýt được thể hiện qua động từ cài, ken. Rừng núi quê hương cũng nghĩa tình, thơ mộng đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: Rừng cho hoa con đường cho những tấm lòng. - Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình “Người đồng mình thương lắm con ơi....Không lo cực nhọc” họ sống một cuộc sống vất vả, cực nhọc mà mạnh mẽ, khoáng đạt bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn đói nghèo, cực nhọc. “Người đồng mình thô sơ da thịt....Nghe con” họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Chính những con người như thế, bằng sự lao động cần cù nhẫn nại của mình, đã xây dựng quê hương với những truyền thống tốt đẹp “Người đồng mình tự đục đá....phong tục”. - Từ đó, người cha muốn nhắc nhở con phải sống nghĩa tình, chung thuỷ với quê, chấp nhận vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình; phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải biết tự tin mà vững bước trên đường đời. - Giọng điệu thiết tha trìu mến, các hình ảnh cụ thể giàu tính khái quát, mộc mạc nhưng giàu chất thơ; bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên.. VĂN BẢN: CON CÒ. Chế Lan Viên. 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Chế Lan Viên(1920-1989) là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam, ông đã có những đóng góp quan trọng cho thơ ca dân tộc thế kỉ XX. Thơ Chế Lan Viên có pơhong cách độc đáo. Đó là phong cách suy.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> tưởng triết lí, đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Ông đã có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Các hình ảnh trong thơ thường phong phú, đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tạo bằng sức mạnh của sự liên tưởng, tưởng tượng nhiều bất ngờ kì thú. - Bài thơ “Con cò” sáng tác năm 1962 thể hiện khá rõ một số nét phong cách nghệ thuật của ông. Bài thơ khai thác và phát triển hình ảnh con cò trong những câu hát ru quen thuộc để ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa lời ru đối với cuộc đời của mỗi con người. 2. Nhan đề bài thơ. Hình tượng con cò là hình tượng sáng tạo của nhà thơ. Đây là hình tượng trung tâm được khai thác trong những câu ca dao truyền thống. Nhưng đó không phải là sự lặp lại những hình ảnh đơn giản và ý tứ sẵn có trong ca dao. Hình ảnh con cò trong bài thơ này đã được phát triển, mở rộng ý nghĩa biểu tượng và tập trung hướng về biểu hiện tình mẹ, lòng mẹ sâu nặng, lớn lao, bền lâu đối với cuộc đời mỗi con người. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh này được phát triển qua từng đoạn thơ để cuối cùng tác giả đưa ra những suy ngẫm, triết lí về ý nghĩa lời ru và lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi con người. 3. Tìm hiểu chi tiết. - Ở đoạn 1, hình ảnh con cò được gợi ra từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Nhưng tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi bài để gợi nhớ những câu ca dao ấy. “Con cò bay la.... Đồng Đăng” gợi tả một không gian, khung cảnh quen thuộc của cuộc sống thời xưa, từ làng quê đến phố xá. Hình ảnh con cò bay gợi vẻ nhịp nhàng, thong thả, bình yên. Tiếp đến là “Con cò mà đi...lại mang một nội dung và ý nghĩa khá sâu sắc. Con cò là tượng trưng cho người phụ nữ, người mẹ nhọc nhằn vất vả, lặn lội kiếm sống. - Qua lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn tuổi ấu thơ. Đây chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế gới tâm hồn con người của những lời ru, qua ca dao, dân ca là cả một điệu hồn dân tộc thấm đẫm vào tiềm thức. Ở tuổi ấu thơ, đứa trẻ chưa hiểu nội dung, ý nghĩa của những lời ru này mà chúng chỉ cần được vỗ về qua âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận bằng trực giác, vô thức tình yêu và sự chở che của người mẹ. Đoạn thơ được khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống: Ngủ yên...chẳng phân vân. - Cánh cò trong lời ru đã đi vào tiềm thức tuổi thơ, trở nên gần gũi, thân thiết và sẽ theo con trên suốt cuộc đời. Ở đây, hình ảnh này tiếp tục sự sống của nó trong tâm thức con người và nó được xây dựng bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ, nó như được bay ra từ những câu ca để sống trong tâm hồn theo cùng và nâng đỡ con người trên mỗi chặng đường từ tuổi thơ ấu nằm trong nôi “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ- Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi’ đến tuổi đến trường “Mai khôn lớn con theo cò đi học-.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân” và đến lúc trưởng thành “ Cánh trắng cò lại bay hoài không nghỉ- Trước hiên nhà- Và trong hơi mát câu văn”. Vì thế, hình ảnh con cò đã gợi về biểu tượng về tấm lòng người mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ đối với con. - Đoạn 3, hình ảnh con cò lại được nhấn mạnh biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, lúc nào cũng ở bên con “Dù ở.....cò mãi yêu con”. Từ đó nhà thơ khái quát một quy luật của tình cảm có ý nghĩa rộng lớn, bền vững và sâu sắc. Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. Từ cảm xúc mà mở ra những suy tưởng, khái quát thành những triết lí sâu sắc. Phần cuối của bài thơ lại trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong những lời ru ấy. Một con cò thôi....qua nôi. - Sử dụng thể thơ tự do, nhưng có nhiều câu mang dáng dấp của thể thơ tám chữ. Thể thơ này giúp tác giả có khả năng thể hiện giọng điệu, cảm xúc một cách linh hoạt, biến đổi dễ dàng. Các đoạn trong bài thơ thường bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu của lời ru. Tuy không sử dụng thể thơ lục bát nhưng vẫn gợi được âm hưởng lời ru nhờ yếu tố vần. Tuy nhiên bài thơ không phải là lời hát ru thực sự mà giọng điệu của bài thơ còn là giọng suy ngẫm, triết lí. Nó làm cho bài thơ không cuốn người đọc vào âm điệu êm ái, mà hướng đến những suy ngẫm, phát hiện. - Sáng tạo hình ảnh là một nét nghệ thuật tiêu biểu. Hình ảnh con cò trở thành điểm tựa cho sự liên tưởng, tưởng tượng, sáng tạo của nhà thơ hàm chứa những ý nghĩa mới và có giá trị biểu cảm cao. VĂN BẢN : KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ. Nguyễn Khoa Điềm. 1. Tác giả, tác phẩm. - Tác giả Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1843 tại Thừa Thiên-Huế, trong một gia đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về quê tham gia chiến đấu. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Ông từng là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam, từ năm 2000 là Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. - Tác phẩm : Bài thơ được sáng tác năm 1971, khi tác giả đang công tác tại chiến khu miền Tây -Huế. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương con gắn với.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> tinh thần yêu nước, yêu cách mạng tinh thần chiến đấu của người mẹ dân tộc Tà-Ôi miền tây Thừa Thiên- Huế. 2. Tìm hiểu chi tiết. a. Nhan đề của bài thơ. Nhan đề độc đáo nó đem lại cho người đọc một cảm giác quen thuộc mà lạ lùng. Vì khúc hát ru là quen ; những em bé lớn trên lưng mẹ cũng không xa lạ với một số phụ nữ nuôi con những dân tộc ở miền núi. Nhưng ghép hai cụm từ này lại thành một nhan đề bài thơ thì sẽ gây được sự tò mò của người đọc, khó hiểu và ngạc nhiên vì sự mới mẻ. Vì ai cũng muốn biết nhà thơ sẽ hát ru gì và người mẹ địu con ấy sẽ như thế nào. b. Phân tích bài thơ. - Ở khúc ru thứ nhất xuất hiện hình ảnh người mẹ địu con giã gạo góp phần nuôi bộ đội đánh giặc. Đó là công việc nặng nhọc, đều đều. Đoạn thơ có nhiều câu thơ hay và xúc động : Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Đó là những câu vừa tả việc làm và tư thế của mẹ rất ấn tượng vừa biểu hiện được tình cảm xúc động của mẹ đối với con và đối với bộ đội. Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng là câu thơ giàu chất tạo hình và xúc động nhất. Hai từ nghiêng xuất hiện như vẻ ra cái dáng nghiêng nghiêng vất vả của mẹ và trên lưng đứa con đang ngủ say, cả người cũng nghiêng theo áp sát vào lưng mẹ. Trên đôi vai gầy của người mẹ nhấp nhô làm gối, từ láy nhấp nhô gợi sự đói khổ gầy gò đồng thời cho thấy sự cố gắng của người mẹ trong công việc nặng nhọc theo nhịp chày lên xuống. Đặc biệt câu Lưng đưa nôi và tim hát thành lời vừa mới lạ vừa cảm động vì người mẹ không đưa nôi bằng tay mà bằng lưng và hát bằng tim chứ không phải bằng lời. Đó là tiếng hát vang lên từ trong sâu thắm lòng mẹ. - Ở khúc ru thứ hai, hình ảnh người mẹ xuất hiện đang tỉa bắp trên núi Kalưi. Một so sánh rất ngộ nghĩnh và chân thực mộc mạc Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Hai câu thơ cuối khúc ru của tác giả xuất hiện hình ảnh mặt trời của bắp và mặt trời của mẹ. Mặt trời của bắp là mặt trời thiên nhiên đem ánh sáng đến cho muôn loài thì mặt trời của mẹ là ẩn dụ về con. Con là mặt trời là thiêng liêng cao quý nhất, con đã trở thành lẽ sống, là nguồn sức mạnh của mẹ. Mặt trời ấy nằm ngay trên lưng, vô cùng gần gũi như là một phần cơ thể của mẹ, cùng mẹ sống và làm mọi công việc. - Hai khúc ru trên công việc của người mẹ đang là những công việc ở hậu phương(giã gạo, tỉa bắp) còn khúc ru thứ ba công việc của người mẹ là chuyển lán, đạp rừng là đi giành trận cuối. Đó là công việc của một chiến sĩ.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> trên trận tuyến đánh Mĩ ngay trên quê hương, buôn làng mình. Hai câu : Từ trên lưng mẹ.....vào Trường Sơn đã khái quát được hình ảnh nghệ thuật thật sự thần kì của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ mà đồng bào, quân và dân Việt Nam đã lớn mạnh và trưởng thành đến thắng lợi. Sự lớn mạnh vượt bậc, nhanh chónh kì lạ của những chiến sĩ trẻ từ trên lưng mẹ, từ trong đói khổ mà ra, mà nên. - Bên cạnh lời ru của tác giả, qua lời ru của mẹ ta thấy mẹ là người yêu con vô bến bờ nhưng tình cảm ấy hoà cùng tình cảm chung, yêu bộ đội, yêu buôn làng, yêu cách mạng. Cấu trúc đối xứng của từng câu thơ trong đoạn thơ thể hiện sự hài hoà riêng chung ấy : Mẹ thương a-cay-mẹ thương bộ đội Mẹ thương a-kay- mẹ thương làng đói Mẹ thương a-kay-mẹ thương đất nước ; Mặt khác, qua từng đoạn thấy rõ sự trưởng thành sâu sắc trong tình cảm suy nghĩ của người mẹ. Những mơ ước của mẹ về con trai cũng phát triển, mở rộng với mơ ước về nhân dân, đất nước và cách mạng. Hai đoạn đầu, mẹ mơ ước con sớm trở thành chàng trai Tà Ôi cao lớn, có sức mạnh phi thường để vung chày lún sân, giã cho gạo trắng ngần cho bộ đội ăn đánh giặc, trở thành như Đăm San phi phàm có sức phát mười dãy núi Ka-lưi. Đế đoạn 3 thì mơ ước thật cao đẹp : Được thấy Bác Hồ, được làm người Tự do. Đó chính là nguyện vọng tha thiết, thường trực cháy bỏng suốt cuộc đời mẹ cũng như tất cả nhân dân Tà Ôi. Được thấy vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già dân tộc, người đã nêu cao chân lí : Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Khát vọng độc lập, tự do của Bác cũng là của mẹ, là tương lai hạnh phúc của dân tộc, của đất nước mình. Tác giả viết : Con mơ cho mẹ thể hiện sự thống nhất, gắn bó máu thịt giữa mẹ và con. Và trong lòng mẹ thì : Con dù lớn vẫn là con của mẹ- Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. Bài thơ đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ Tà Ôi nuôi con thơ mà làm mọi việc để kháng chiến chống Mĩ, góp phần cho thắng lợi chung của đất nước. Lao động nhọc nhằn mà ước mơ bay bổng, tin tưởng chắc chắn vào tương lai. Đây là hình tượng người mẹ tiêu biểu trong thơ ca Việt Nam hiện đại, sánh vai cùng các hình tượng người mẹ khác như Mẹ Suốt, Mẹ Tơm.... PHẦN III. CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI. TRUYỆN : LÀNG CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN. 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> - Tác giả : Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài quê ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn có sáng tác đăng báo từ TCM. Vốn sống gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, nên tác phẩm của ông hầu hết viết về sinh hoạt và cảnh ngộ của người nông dân ở làng quê Việt Nam. Những tác phẩm nổi tiếng là : Vợ nhặt, Làng, Ông Cán Ngũ.... - Tác phẩm : Truyện ngắn Làng được sáng tác thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1948, trên chiến khu Việt Bắc. Truyện thể hiện một cách chân thực, cảm động tình yêu làng quê gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người dân đi tản cư trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà tiêu biểu là ông Hai Thu ở làng chợ Dầu. 2. Tóm tắt và nêu chủ đề. - Tóm tắt. Ông hai là người nông dân rất yêu làng nhưng vì kháng chiến, vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ về làng và khoe với mọi người về làng ông là làng cách mạng, làng kháng chiến. Một hôm, như thường lệ, ông vào phòng thông tin nghe đọc báo và theo dõi tin tức kháng chiến. Trong tâm trạng vui sướng từ phòng thông tin, ông rẽ vào một quán nước nói chuyện với mấy người đàn bà tản cư dưới xuôi lên. Họ bảo làng chợ Dầu theo Tây. Lúc này ông Hai đau đớn, xấu hổ. Về nhà ông Hai chẳng dám đi đâu, nỗi đau khổ, tủi nhục bao trùm lên không khí gia đình ông. Ông lo sợ bị người ta bài trừ, không chứa. Một hôm, ông chủ tich xã lên đính chính cái tin sai sự thật ấy, ông Hai vui mừng khôn xiết lại tiếp tục đi khoe về làng mình một cách say sưa. - Chủ đề. Qua tâm trạng đau đớn, tủi nhục của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, truyện thể hiện một cách chân thực, cảm động tình yêu làng quê, lòng yêu nước gắn với tinh thần kháng chiến của người nông dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp. 3. Tình huống cơ bản v à t ác d ụng. - Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện khá đắc sắc đó là ông Hai tình cờ nghe tin làng chợ Dầu yêu quý của mình theo Tây làm Việt gian phản lại kháng chiến, phản lại Cụ Hồ. - Chi tiết này nó tạo nên một sự thắt nút của câu chuyện, gây ra một mâu thuẫn giằng xé trong tâm trạng ông Hai đồng thời nó tạo điều kiện để tâm trạng, phẩm chất và tính cách của nhân vật được bộc lộ sâu sắc góp phần bộc lộ chủ đề tác phẩm : Phản ánh, ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân trong chống Pháp. Mặt khác xây dựng tình huống truyện để các sự việc cảu câu chuyện phát triển trên cơ sở tình huống oái oăm ấy. 4. Ph©n tÝch nh©n vËt «ng Hai..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - ¤ng Hai lµ ngêi n«ng d©n yªu lµng tha thiÕt. ¤ng rÊt tù hµo vµ hay khoe vÒ cái làng chợ Dầu thân yêu của mình nhng vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải xa lµng cña m×nh ®i t¶n c. N¬i t¶n c «ng nhí lµng da diÕt, nhí nh÷ng ngµy ông cùng anh em đào đờng, đắp ụ..Mỗi khi nh vậy, ông cảm thấy mình nh trẻ ra “Sao mà độ ấy vui thế”. - Tình yêu làng của ông Hai đợc đặt vào một hoàn cảnh gay cấn, đầy thử th¸ch. §ã lµ khi «ng Hai nghe tin lµng chî DÇu ®i theo T©y, ph¶n béi l¹i c¸ch m¹ng, ph¶n béi l¹i Cô Hå. - Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc đợc nhà văn miêu tả tỉ mỉ víi nhiÒu tr¹ng th¸i kh¸c nhau : + Thoạt đầu khi nghe ngời đàn bà cho con bú nói ra tin dữ, ông bàng hoàng, xấu hổ , sững sờ không thể tin đợc “cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tởng chừng không thở đợc. Một lúc sau ông mới rặn è è nh nuốt một cái gì vớng ở cổ”. + Khi cái tin dữ ấy đợc khẳng định chắc chắn “Thằng Chánh Bệu thì đích thùc ngêi lµng m×nh råi. Kh«ng cã löa th× lµm sao cã khãi. Ngêi ta h¬i ®©u mµ bÞa ra nh÷ng chuyÖn nh vËy”. T©m tr¹ng «ng l·o bÞ ¸m ¶nh, day døt víi mÆc c¶m lµ kÎ ph¶n béi. + Ông trốn biệt trong nhà chẳng dám đi đâu với tâm trạng nơm nớp, lo sợ, xấu hổ, nhục nhã. Ông cảm thấy tủi thân, thương con, thương dân làng chợ Dầu “ chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?” nước mắt ông cứ giàn ra..”Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!” ai chứa, ai buôn bán với... - Ông Hai lại tiếp tục được đặt vào tình huống thử thách căng thẳng quyết liệt hơn khi nghe bà chủ báo sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ra khỏi nơi sơ tán. Ông thấy thật nhục nhã, lo sợ và tuyệt vọng. Rồi đây ai chứa bởi cả cái nước Việt Nam này người ta thù hằn, ghê tởm cái giống Việt gian bán nước. Tâm trạng ông Hai gằng xé, bế tắc. Ông giận và trách những kẻ phản bội nhưng lòng yêu làng khiến ông nảy ra ý định quay về làng nhưng vừa chớm nghĩ, ông đã phản đối ngay. Bởi về làng là phản cách mạng, phản Cụ Hồ, là làm nô lệ cho thằng Tây. - Đến đây, ông buộc phải lựa chọn giữa làng và nước. Vì thế, ông tâm sự với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi lòng, để củng cố vào niềm tin cách mạng và kháng chiến. Ông rành rọt khẳng định “Làng thì yêu thật nhưng theo tây thì phải thù”. Sự trung thành với cách mạng, với kháng chiến là sự biến đổi trong nhận thức của ông Hai. Điều đó tạo nên vẻ đẹp trong tâm hồn người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. - Khi nghe tin cải chính từ ông chủ tịch xã, một niềm vui sướng vô bờ bến tràn ngập trong lòng ông Hai. Ông lại tiếp tục khoe làng mình trong niềm tự hào, hãnh diện “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn”. Niềm vui sướng hân hoan khiến ông Hai khoe làng một cách khác thường. Mặc dù nhà mình bị đốt, nhà mình bị đốt nhưng sẽ mọc lên một ngôi làng mới xứng đáng với tình cảm của ông. Đó là làng chợ Dầu kháng chiến..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> - Kim Lân xây dựng trhành công nhân vật ông Hai trước hết là nhờ tình huống truyện. Chính việc tạo ra một tình huống truyện độc đáo, tâm trạng nhân vật được miêu tả cụ thể hơn qua nội tâm, ý nghĩ, và ngôn ngữ nhân vật. VĂN BẢN: CHIẾC LƯỢC NGÀ. Nguyễn Quang Sáng. 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Nguyễn Quang sáng sinh năm 1932, quê ở tỉnh An Giang. Trong chốnh Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tiếp tục kháng chiến và sáng tác văn học. Tác phẩm của ông thường viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến tranh cũng như trong hòa bình với nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim... Ông có một số tác phẩm nổi tiếng như: Đất lửa, Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng.. - Tác phẩm: Truyện Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của ông sáng tác năm 1966 in trong tập truyện ngắn cùng tên “Chiếc lược ngà”. Câu chuyện kể về cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu trong một lần về phép thăm nhà và ở khu căn cứ, qua đó ca ngợi tình cảm cha con thắm thiết, cảm động trong hoàn cảnh chiến tranh. 2. Tóm tắt và nêu chủ đề. - Tóm tắt: Ông Sáu đi kháng chiến đã tám năm, nay được về phép thăm nhà. Ông mong muốn được gần con, được nghe con gọi một tiếng “ba” nhưng bé Thu- con gái của ông không nhận ông là ba chỉ vì vết thẹo dài trên má. Ông đau khổ, thất vọng và đã tức giận đánh con. Thu bỏ về nhà bà ngoại được ngoại giải thích, em đã nhận ông Sáu là ba thì cũng là lúc ông Sáu ra đi. Trước lúc chia tay, ông hứa sẽ làm một cây lược bằng ngà voi tặng cho con. Khi trở lại khu căn cứ, ông tìm ngà và cẩn trọng, tỉ mỉ làm một cây lược bằng ngà voi để tặng cho con gái. Cây lược đã được làm xong, chưa kịp trao tận tay cho con, trong một trận càn của địch ông Sáu đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông kịp trao cho người bạn nhờ bạn thực hiện ước nguyện của mình. 3. Tình huống và tác dụng. - Tình huống truyện: + Ông Sáu được về phép thăm nhà trong ba ngày, bé Thu không chịu nhận ông là ba. đến lúc được giải thích, em nhận ông Sáu là ba thì cũng chính là lúc ông Sau phải ra đi. + Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tâm sức làm một cây lược bằng ngà voi để tận tay trao tặng cho con gái. Nhưng cây lược làm xong, ông chưa kịp thực hiện ước nguyện của mình thì hi sinh chỉ kịp gửi nhờ người bạn..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> - Tạo tình huống truyện đầy éo le, bất ngờ nhà văn nhằm để khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, tình cẩm ấy mãi toả sáng và cao đẹp hơn trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. 4. Giải thích nhan đề : Chiếc lược ngà. Nguyễn Quang Sáng lấy tên “Chiếc lược ngà” để đặt cho truỵên ngắn này và cho cả một tập truyện của ông bởi chiếc lược ngà là kỉ vật thiêng liêng thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha giành cho con trong những ngày xa cách. Nó là chiếc lược xinh xắn và quý giá làm vơi dịu nỗi day dứt, ân hận và nhớ thương con, nó ánh lên niềm hi vọng khắc khoải sẽ được gặp lại con để trao cho con món quà kỉ niệm này. Đặt tên truyện là “Chiếc lược ngà” vừa thể hiện được tình cảm cha con sâu nặng vừa nói được sự mất mát đau thương do chiến tranh gây ra cho bao gia đình, qua đó làm nổi bật chủ đề tác phẩm. 5. Phân tích. a. Nhân vật bé Thu. - Sau nhiều năm xa cách, ông Sáu về phép không kìm được niềm vui mừng và nỗi xúc động ông hối hả bước tới và gọi con “Ba đây con! Ba đây con!”. Trước tình huống bất ngờ có một người lạ xưng là ba, em đang chơi trước sân bỗng hốt hoảng, sợ hãi, tái mặt đi và vụt chạy kêu thét lên . - Trong ba ngày nghỉ phép, Thu một mực không chịu nhận ông Sáu là ba vì thế em đối xử với ông lạnh nhạt, lảng tránh với một sự ngờ vực đến ương ngạnh. Một loạt hành động của em đối với ông Sáu đã thể hiện rõ điều đó. + Mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm thì em gọi trống không “Vô ăn cơm” + Khi mẹ bảo nấu cơm có gì nhờ ba giúp, nhưng nồi cơm sôi sợ nhão nhưng Thu vẫn không chịu gọi mà tiếp tục nói trổng “Cắt nước dùm cái..cơm sôi rồi, nhão bây giờ”. + Phản ứng của em gay gắt, quyết liệy hơn khi ông Sáu gắp một cái trứng bỏ vào bát. Em đã hất tung cái trứng ra khỏi bát. Bị đánh em không khóc mà bỏ về nhà ngoại xuống xuồng cố ý mở dây lòi tói để nó kêu thật to... - Sự cứng đầu ương ngạnh của em là không đáng trách, đó chỉ là phản ứng một cách tự nhiên. Em không nhận ông Sáu là ba chỉ vì ông có vết thẹo trên má khiên ông không giống với người ba đã chụp ảnh chung với má mà em được biết. điều đó chứng tỏ em là người có cá tính mạnh mẽ, có tình cảm yêu ba sâu sắc. Em chỉ thực sự yêu ba khi tin chắc đó là ba của mình. - Khi về ngoại được ngoại kể cho nghe về lí do có vết thẹo trên má của ông Sáu, Thu cảm thấy ân hận, day dứt “Nó nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Đến lúc chia tay, thái độ của em bổng thay đổi đột ngột. Em vừa kêu vừa chạy tới, nhanh như sóc, nhảy lên dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba rồi hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má. Tưởng chừng hai tay không thể giữ được ba em dùng chân câu chặt lấy ba và nói trong.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> tiếng nấc nghẹn ngào “Ba ở nhà với con”. Đó là hành động mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt xen lẫn sự ân hận. - Tình cảm mà em giành cho ba trong buổi chia tay thật sâu sắc, cảm động, nó cứng cỏi rạch ròi nhưng cũng hồn nhiên ngây thơ. Hành động ấy, tình cảm ấy làm xúc động trái tim của của tất cả những người chứng kiến buổi chia tay của cha con Thu, riêng người kể cảm thấy “khó thở như có một bàn tay bóp chặt trái tim” mình. b. Nhân vật ông Sáu. - Được về phép, ông vui mừng, hồ hởi và xúc động. Không chờ xuồng cập bến, ông nhảy lên, gọi con trong tư thế chờ đợi con sẽ sà vào lòng mình. Nhưng bé Thu bỏ chạy, ông đau đớn, thất vọng “mặt sầm lại, hai tay buông xuống như bị gãy”. - Trong những ngày phép, ông chẳng đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà để được gần con, để mong nghe con gọi một tiếng ba nhưng Thu lại lảng tránh. điều đó khiến ông khổ tâm, đau đớn “khe khẽ cười và lắc đầu. Có lẽ vì khổ tâm quá không khóc được nên phải gượng cười vậy thôi”. Ông luôn tìm mọi cách để được gần con nhưng thất bại. Có lúc vì không kìm nổi sự tức giận nên ông đã đánh con để rồi phải day dứt, ân hận trong lòng. - Trong phút chia tay, ông không dám lại gần con mà chỉ nói khe khẽ “Thôi! Ba đi nghe con”. Thu bỗng thay đổi đột ngột nhận ba và gọi ba. Ông sung sướng cảm động không kìm được nước mắt. Trước lúc đi ông hứa sẽ tặng cho con một cây lược. Đó là món quà kỉ niệm mà người cha sẽ giành cho con khi trở về. - Ở căn cứ, ông vui mừng, hớn hở khoe với bạn khi tìm được một khúc ngà. Rồi cẩn thận lấy vỏ đạn làm một chiếc cưa nhỏ. Ông cẩn trọng, tỉ mỉ, cố công ngồi cưa từng chiếc răng lược. Rồi gò lưng, tẩn mẫn khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Cây lược đã trở thành món quà thiêng liêng thể hiện tình cảm sâu ngặng của người cha giành cho con trong những ngày xa cách. Nó làm vơi đi nỗi day dứt, ân hận và ánh lên niềm hi vọng sẽ gặp lại con. Nó trở thành nguồn sống, niềm hi vọng và động lực chiến đấu của người chiến sĩ. - Thế nhưng tình cảnh đau thương đã ập xuống gia đình ông Sáu. Trong một trận càn của địch, ông hi sinh khi chưa kịp thực hiện ước nguyện của mình . Trước lúc nhắm mắt, ông gửi nhờ người bạn. Mặc dầu ông hi sinh, nhưng tình cảm cha con mãi toả sáng để trở thành niềm tin, dũng khí cho Thu khi em trở thành một cô gaio liên dũng cảm. VĂN BẢN: LẶNG LẼ SA PA. Nguyễn Thành Long..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả. Nguyễn Thành Long(1925-1991) quê ở Quảng Nam. Ông viết văn từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí với một phong cách văn xuôi nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ và ánh lên vẻ đẹp con người mang ý nghĩa sâu sắc. - Tác phẩm: Viết trong một chuyến đi thực tế ở Lào Cai năm 1970 in trong tập Giữa trong xanh(1972). Tác phẩm kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa những con người lao động bình thường mà tiêu biểu là anh thanh niên là khí tượng trên núi cao, qua đó ca ngợi vẻ đẹp của những con người lao động và ý nghĩa của công việc thầm lặng. 2. Tóm tắt: Trên chuyến xe Hà Nội- Lào Cai, qua lời giới thiệu của bác lái xe, ông hoạ sĩ già và cô kỉ sư trẻ tìm gặp anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Họ gặp nhau và nói chuyện chưa đầy 30 phút họ đã hiểu sâu sắc về nhau. Và cũng trong 30 phút ngắn ngủi đó, hoạ sĩ già đã vẽ xong bức chân dung kí hoạ về anh thanh niên còn cô kĩ sư trẻ cũng nhận được một bó hoa của những háo hức, mơ mộng mà anh cho thêm cô. Rồi họ chia tay, mỗi người có một cảm nhận về chàng trai nhưng tất cả đều giành cho anh sự yêu mến, cảm phục. 3. Tìm hiểu nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa”. Đặt tên truyện là “Lặng lẽ Sa Pa” nhưng đọc truyện ta thấy đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài của một nơi ít người đến nhưng thực ra cuộc sống Sa Pa không hề lặng lẽ. Bởi đằng sau núi rừng Sa Pa là một cuộc sống sôi động của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cái lặng lẽ Sa Pa gợi cho người đọc sự tò mò, muốn tìm hiểu để biết về cuộc sống thực ở nơi núi rừng lặng lẽ. 4. Phân tích nhân vật anh thanh niên. - Anh thanh niên hiện lên qua cuộc gặp gỡ tình cờ với các nhân vật khác. Đó là một người có hoàn cảnh sống rất đặc biệt cô đơn, vắng vẻ, không một bóng người “Sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”. - Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất dự báo thời tiết để phục vụ sản xuất và chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Qua lời anh kể “ nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ báo thức muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào cũng thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn gió tuyết và lặng im như chực ào ào xô tới..xong việc vào không sao ngủ lại được” ta thấy công việc thật khó khăn, gian khổ nhưng anh đã vượt qua nhờ:.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> + Anh có lòng yêu nghề và ý thức sâu sắc về công việc: Anh tâm sự “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu , mình vì ai mà làm việc”. Công việc tuy thầm lặng nhưng có ích cho cuộc sống. Anh kể có lần nhờ anh góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy không quân ta hạ được nhiều máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình thật hạnh phúc. + Anh có suy nghĩ đúng đắn và sâu sắc về công việc “khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. + Anh là người biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống một cách gọn gàng, ngăn nắp. Một căn nhà ba gian sạch sẽ, gọn gàng. Ngoài công việc anh còn trồng hoa, nuôi gà và tự học. Anh xem sách là một người bạn lúc nào cũng bên mình. + Lòng chân thành, cởi mở, quý trọng khách, quý trọng tình cảm mọi người là nét đẹp trong tâm hồn anh. Củ tam thất biếu vợ bác lái xe mới ốm dậy, bó hoa to tặng cho cô gái, giỏ trứng gà biếu mọi người ăn đường. Tất cả là tấm lòng chân thành, tình cảm cao đẹp mà anh giành cho mọi người trong cuộc gặp gỡ thú vị. + Nỗi khao khát gặp gỡ và trò chuyện, lòng khiêm tốn khi nói về mình càng làm cho mọi người khâm phục anh. Anh chặn xe lại để trò chuyện một lát. Khi hoạ sĩ vẽ kí hoạ về anh, anh đã từ chối “Không, bác đừng mất công vẽ cháu để cháu gới thiệu với bác” Anh giành sự cảm phục cho những người khác, coi những cống hiến của mình là nhỏ bé không đáng nhắc đến. - Chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng anh thanh niên là một người con trai đáng yêu, là âm vang của cuộc sống Sa Pa lặng lẽ. Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình xây dựng và phát triển đang cần những con người như anh, vì thế thế hệ trẻ cần học tập phấn đấu hết mình vì sự nghiệp chung của dân tộc: Hãy sống và cống hiến hết mình như anh thanh niên. 5. Chất trữ tình trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa”. - Truyện “Lặng lẽ Sa Pa” bàng bạc chất trữ tình. Chất trữ tình trước hết thể hiện ở cảnh thiên nhiên Sa Pa đẹp, thơ mộng: “Cảnh trước mắt đẹp một cách kì lạ. Nắng bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe”. “ Nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> - Chất trữ tình của truyện còn thể hiện ở cuộc sống đẹp, đầy chất thơ của những con người lao động nơi núi rừng Sa Pa mà trước hết là anh thanh niên. + Phân tích vẻ đẹp của anh thanh niên. + Phân tích vẻ đẹp của đồng chí nghiên cứu khoa học, bác kĩ sư trồng rau. VĂN BẢN: NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI. 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Tác giả: Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Mĩ bà tham gia thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn từ những năm 70. Là cây bút nữ chuyên viết về truyện ngắn, các tác phẩm của bà trong chống Mĩ thường viết về thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn. Sau 1975, các tác phẩm của bà tập trung phản ánh những chuyển biến của đời sống con người và xã hội trên tinh thần đổi mới với ngòi bút sắc sảo, miêu tả tâm lí tinh tế, đặc biệt là tâm lí phụ nữ. Các tác phẩm tiêu biểu là: Một chiều xa thành phố, Trong làn gió heo may, đoạn kết, Cao điểm mùa hạ, Bi kich nhỏ.... - Tác phẩm “ Những ngôi sao xa xôi” là một trong những truyện ngắn đầu tay của bà viết năm 1971. Thông qua câu chuyện về ba nữ thanh niên xung phong làm công việc trinh sát mặt đường, nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp trong sáng, mơ mộng, tinh thần lạc quan, dúng cảm vượt lên khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc của những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Đó cũng là vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lòng phơi phới dậy tương lai”. 2. Nhan đề tác phẩm. Nhan đề “Những ngôi sao xa xôi” là cách nói ẩn dụ về những cô thanh niên xung phong: Phương Định, Nho và Thao. Họ là những con người có tâm hồn trong sáng, lạc quan, mơ mộng nhưng gan dạ, dũng cảm trong cuộc chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ. Họ thực sự là những ngôi sao sáng trên cao điểm xa xôi cũng như trong cảm nhận của tác giả và bạn đọc. 3. Tóm tắt: Ba nữ thanh niên xung phong lập thành một tổ trinh sát tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ gồm Phương Định, Nho và Thao. Công việc của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Họ sống trong một cái hang dưới chân cao điểm. Mỗi người có một tính cách khác nhau nhưng họ đều là những cô gái hồn nhiên, lạc quan, mơ mộng, dũng cảm , đầy tinh thần trách nhiệm. Trong một lần.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> phá bom, Nho bị thương được sự chăm sóc tận tình của đồng đội. Họ trở thành những ngôi sao trong cảm nhận của tác giả. 4. Ngôi kể và tác dụng của việc lựa chọn ngôi kể. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Phương định vừa là nhân vật chính vừa là người kể chuyện. Sự lựa chọn ngôi kể như vậy vừa phù hợp với nội dung tác phẩm vừa tạo thuận lợi để tác giả miêu tả biểu hiện thế giới tâm hồn và những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Để cho nhân vật là người trong cuộc kể chuyện về mình và đồng đội sẽ làm cho câu chuyện chân thật hơn, tạo cho người đọc niềm tin vào câu chuyện. Truyện viết về chiến tranh tất nhiên có bam đạn, chiến đấu và hi sinh nhưng ở đây vẫn hiện lên khá rõ thế giới tâm hồ của các nữ thanh niên xung phong nhờ cách lựa chọn ngôi kể của tác giả. 5. Những nét chung về ba nữ thanh niên xung phong. - Họ là những cô gái thanh niên xung phong thời chống Mĩ còn rất trẻ, có lí tưởng chiến đấu, đã tạm xa gia đình và mái trường tự nguyện vào chiến trường tham gia chiến đấu một cách vô tư, hồn nhiên. - Họ đều là những người có tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lòng dũng cảm, tình đồng đội gắn bó. Có lệnh là ra đường ngay bất kể tình huống nào dù nguy hiểm, dù gian nan đối mặt với bam đạn kẻ thù, đối mặt với thần chết nhưng họ vẫn tự tin hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. - Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hiểm nguy, căng thẳng nhưng họ vẫn lạc quan, mơ mộng vẫn bình tĩnh, chủ động trước mọi tình huống. Nho thích thêu thùa, chị Thao thích chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ màng.. - Họ là những người có tình đồng đội gắn bó thắm thiết. Khi Nho bị thương được đồng đội lo lắng, tận tình chăm sóc. 6. Những nét riêng về ba nữ thanh niên xung phong. a. Nho là cô gái trẻ, xinh xắn, “trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”, có “cái cổ tròn, và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định muốn bế trên tay. Cô lại rất hồn nhiên “Vừa tắm dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi đòi ăn kẹo”, khi bị thương nằm trong hang vẫn nhổm dậy xoè tay xin mấy viên đá mưa nhưng trong công việc thì rất dũng cảm, hành động nhanh nhẹn “Nho cuộn tròn cái gối cất nhanh vào túi”, “Nho quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu” và trong một lần dũng cảm phá bom, cô đã bị thương được đồng đội chăm sóc chu đáo. b. Chị Thao là tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn nên những mơ ước và dự tính về tương lai của chị cũng thiết thực hơn nhưng ở chị cũng không thiếu những khát khao và rung động của tuổi trẻ “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm”. Nhưng trong công việc thì cương quyết, táo bạo. Đặc biệt là sự bình tĩnh đến phát.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> bực mỗi khi cang thẳng. Máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh bích quy trong túi thong thả nhai”. Có ai ngờ con người như vậy lại sợ máu và vắt “thấy máu và vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”. Chị là người thích chép bài hát nhưng hát không trôi chảy được bài nào, giọng thì chua, nhạc sai bét thế nhưng cứ rảnh là chị ngồi chép bài hát vào sổ. Chị có những ba cuốn sổ dày chép bài hát. c. Phương Định là nhân vật chính đồng thời là người kể chuyện. Là một cô gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ, trong một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trong những ngày thanh bình trước chiến tranh ở thành phố của mình. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách và nguy hiểm, hàng ngày đối mặt với cái chết nhưng ở cô vẫn không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và mơ mộng. Nét cá tính ở cô thể hiện rất rõ. Là cô gái hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát. “Tôi mê hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”, “Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng”. Cũng như những cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Cô tự đánh giá: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn con mắt thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Cô biết mình được nhiều người để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô vui và tự hào nhưng chưa giành tình cảm cho ai. Cô không hay biểu lộ tình cảm của mình giữa đám đông mà thường kín đáo tỏ ra kiêu kì nhưng trong thâm tâm thì người mà cô yêu mến nhất là những người mặc quân phục và có ngôi sao trên mũ. Cũng như hai người đồng đội trong tổ trinh sát, Phương Định yêu mến những người đồng đội trong tổ và trong cả đơn vị mình. Khi Nho sập hầm, bị thương trong một lần phá bom, cô đã tận tình chăm sóc “rửa cho Nho bằng nước đun sôi để nguội”, băng và tiêm cho Nho, pha sữa cho Nho uống... đó là tấm lòng yêu quý, đùm bọc đồng đội với một tinh thần trách nhiệm cao. Ngay giữa chiến trường ta còn nhận ra một nét đẹp khác của nhân vật được thể hiện trong một lần phá bom. Đó là sự gan dạ, dũng cảm. Ở đây tâm trạng của Phương Định được miêu tả chính xác đến rtừng cảm giác. Trong.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> không khí bàng hoàng, căng thẳng và vắng lặng đến phát sợ. “Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt của các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom”. Đến gần quả bom là đến gần cái chết nhưng lòng tự trọng đã kích thích tinh thần dũng cảm. Và khi đã đến bên quả bom, từng cảm giác của cô càng trở nên sắc nhọn hơn, thần kinh căng như chão “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Trong lúc phá bom, cô có nghĩ đến cái chết, nhưng rất mờ nhạt. điều làm cô lo nhất lúc này là liệu mìn nổ, bom có nổ không. Nếu không thì làm thế nào châm mìn lần thứ hai. Điều đó cho thấy, Phương Định chỉ quan tâm đến việc có hoàn thành được nhiệm vụ không. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng, hồi hộp chờ quả bom nổ và bom đã nổ, cô thở phào nhẹ nhõm. Nhiệm vụ đã hoàn thành. Sau phá bom là trận mưa đá bất ngờ kéo đến làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm hồn nhân vật. Từ một Phương Định dũng cảm trong phá bom giờ bỗng trở thành một cô gái hồn nhiên trong niềm vui trẻ con đang “nở tung ra, say sưa, tràn đầy”. Trận mưa đá đã kéo cô về với những kỉ niệm tuổi thơ ngày nào. Những kỉ niệm ấy “xoáy mạnh như sóng” trong tâm trí với bao hình ảnh thân thương của gia đình và thành phố thân yêu: người mẹ, cái cửa sổ, bà bán kem, tiếng rao của bà bán xôi sáng, con đường nhựa sau cơn mưa mùa hạ, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố....Chính những kỉ niệm đó đã nâng bước cô trên những chặng đường đánh Mĩ cho đến ngày thắng lợi. PHẦN IV: PHẦN TIẾNG VIỆT. I. Các phương châm hội thoại. 1. Phương châm về lượng. Khi giao tiếp cần nói cho có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng yêu cầu của cuộc giao tiếp, không thiếu, không thừa. 2. Phương châm về chất. Khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng sự thật, không có bằng chứng xác thực. 3. Phương châm quan hệ. Khi giao tiếp, cần nói đúng đề tài, tránh nói lạc đề. 4. Phương châm cách thức. Khi giao tiếp, cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch; tránh nói mơ hồ. 5. Phương châm lịch sự. Khi giao tiếp cần tế nhị, tôn trọng người khác. * Quan hệ giữa phương châm hội thoại với tình huống giao tiếp..

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Việc vận dụng các phương châm hội thoại phải phù hợp với đặc điểm của tình huống giao tiếp( Nói với ai? Nói khi nào? Nói ở đâu? Nói để làm gì?). * Những trường hợp không tuân thủ phương châm hội thoại. Việc không tuân thủ phương châm hội thoại do các nguyên nhân: - Người nói vô ý, vụng về, thiếu văn hoá giao tiếp. - Người nói ưu tiên cho một phương châm hội thoại hoặc một yêu cầu nào đó quan trọng hơn. - Người nói muốn gây một sự chú ý để người nghe hiểu câu nói theo một hàm ý nào đó. II. Xưng hô trong hội thoại. 1. Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô phong phú, tinh tế, giàu sắc thái biểu cảm. Vì thế để xưng hô trong giao tiếp phù hợp, người nói phải căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp. III. Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp. 1. Cách dẫn trực tiếp. Là cách nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật; lời dẫn trực tiếp đựơc đặt trong dấu ngoặc kép. 2. Cách dẫn gián tiếp. Là cách thuật lại lời nói hoặc ý nghĩ của người hoặc nhân vật có điều chỉnh cho thích hợp; lời dẫn gián tiếp không đặt trong dấu ngoặc kép. IV. Sự phát triển từ vựng. 1. Phát triển nghĩa của từ trên cơ sở nghĩa gốc của chúng qua hai phương thức: Ẩn dụ và hoán dụ. 2. Tạo từ ngữ mới. 3. Vay mượn tiếng nước ngoài. V. Thuật ngữ. 1. Thuật ngữ là những từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học, công nghệ và thường được dùng trong văn bản khoa học, công nghệ. 2. Đặc điểm của thuật ngữ. - Mỗi thuật ngữ chỉ biểu thị một khái niệm và ngược lại mỗi khái niệm chỉ được biểu thị bằng một thuật ngữ. - Thuật ngữ không có tính biểu cảm. VI. Trau dồi vốn từ. 1. Rèn luyện để nắm vững nghĩa của từ và cách dùng từ. 2. Rèn luyện để làm tăng vốn từ. VII. Khởi ngữ. 1. Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. 2. Trước khởi ngữ thường có thể thêm các quan hệ từ về, đối với, với. VIII. Các thành phần biệt lập..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Thành phần biệt lập là những thành phần không tham gia vào việc diễn đạt ý nghĩa sự việc của câu. Bao gồm : a. Thành phần tình thái : Dùng để thể hiện cách nhìn nhận của người nói đối với sự việc nói trong câu. VD : Có lẽ vì khổ tâm quá anh không khóc được nên phải gượng cười vậy thôi. b. Thành phần cảm thán : Dùng để bộc lộ tâm lí của người nói. VD : Ô hay, ông cũng là cha tôi ư ? c. Thành phần gọi - đáp : Dùng để tạo lập hoặc duy trì quan hệ giao tiếp. VD : Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. d. Thành phần phụ chú : Dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu. Nó thường được đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu ngoặc đơn, hoặc gữa một dấu ngạch ngang với một dấu phẩy. VD : Cô bé nhà bên(có ai ngờ) Cũng vào du kích. IX. Liên kết câu và liên kết đoạn văn. Các câu trong đoạn văn, các đoạn trong một văn bản phải được liên kết với nhau chặt chẽ về nội dung và hình thức. - Về nội dung : + Các đoạn phải tập trung phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ cho chủ đề của đoạn (Liên kết chủ đề). + Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí (Liên kết lô-gíc). - Về hình thức : Các đạon văn, các câu văn có thể được liên kết với nhau bằng một số biện pháp chính sau : + Lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước(Phép lặp). + Sử dụng ở câu đứng sau những từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước(Phép đồng nghĩa, tría nghĩa, liên tưởng). + Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ thay thế từ ngữ đã có ở câu trước(Phép thế). + Sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước(Phép nối). X. Nghĩa tường minh và hàm ý. 1. Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng các từ ngữ trong câu. 2. Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng những từ ngữ trong câu nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ đó..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> VD : Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất ; kì thực trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi. * Điều kiện đẻ sử dụng hàm ý : - Người nói(viết) có ý thức sử dụng hàm ý trong phát ngôn. - Người nghe(đọc) có năng lực giải đoán hàm ý. PHẦN V : PHẦN TẬP LÀM VĂN. I. Văn bản thuyết minh. 1. Khái niệm: Là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp những tri thức khách quan về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên và xã hội bằng phương pháp trình bày, giới thiệu. 2. Các phương pháp thường dùng trong văn bản thuyết minh: Phương pháp định nghĩa, nêu ví dụ, liệt kê, dùng số liệu, phân loại, so sánh.... 3. Để bài thuyết minh thêm sinh động, hấp dẫn người ta vận dụng thêm một số biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hoá hoặc các hình thức vè, diễn ca... Các biện pháp nghệ thuật vận dụng một cách thích hợp sẽ góp phần làm nổi bật đối tượng thuyết minh, gây được hứng thú cho người đọc. 4. Yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh. - Để bài thuyết minh thêm sinh động, hấp dẫn người rta thường sử dụng yếu tố miêu tả khi thuyết minh. - Yếu tố miêu tả góp phần làm cho đối tượng thuyết minh thêm cụ thể, nổi bật và gây được ấn tượng cho người đọc. 5. Các dạng bài tập thuyết minh. a. Giới thiệu về tác giả văn học. b. Giới thiệu về tác phẩm văn học. II. Văn bản tự sự. 1. Khái niệm: Là kiểu văn bản trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia cuối cùng dẫn đến một kết thúc thể hiện một ý nghĩa nào đó. 2. Miêu tả trong văn tự sự. Yếu tố miêu tả trong văn bản tự sự có tác dụng tái hiện một cách cụ thể, chi tiết về cảnh vật, sự việc, nhân vật làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, gợi cảm, và sinh động hơn. 3. Miêu tả nội tâm trong văn tự sự..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> - Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự là tái hiện những ý nghĩ, cảm xúc và diễn biến của tâm trạng. Đó là biện pháp quan trọng để xây dựng nhân vật, làm cho nhân vạt sinh động. - Người ta có thể miêu tả nội tâm trực tiếp bằng cách diễn tả những ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm của nhân vật; Cũng có thể miêu tả nội tâm gián tiếp bằng cách miêu tả cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục... của nhân vật. 4. Nghị luận trong văn tự sự. Trong văn bản tự sự, để người đọc(nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết(kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách đưa ra các ý kiến, nhận xét, cùng lí lẽ và dẫn chứng. Đó là yếu tố nghị luận, nó góp phần làm cho câu chuyện thêm triết lí. 5. Đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm trong văn tự sự. - Đối thoại là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai hoặc nhiều người. Trong văn bản tự sự, đối thoại được thể hiện bằng cách gạch đầu dòng ở đầu mỗi lời trao và lời đáp. - Độc thoại là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc với một ai đó trong tưởng tượng. Trong văn bản tự sự, khi độc thoại thành lời thì phía trước câu nói có gạch đầu dòng; còn khi không thành lời thì không gạch đầu dòng. Trường hợp sau gọi là độc thoại nội tâm. VD: Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con của làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn bằng ấy tuổi đầu... Ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên: - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. (Kim Lân) 6. Người kể chuyện trong văn tự sự. - Người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc đi vào nội dung câu chuyện: Giới thiệu nhân vật, tình huống, tả người, tả cảnh, đưa ra các nhận xét, đánh giá về những điều được kể. - Trong văn tự sự có hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất. Người kể xưng “tôi” vì vậy dễ dàng đi vào kể được những diễn biến tinh vi, phức tạp trong tâm trạng nhân vật; làm cho thế giới tâm hồn con người trở nên sống động hơn. - Ngoài kể chuyện theo ngôi thứ nhất còn có hình thức kể chuyện theo ngôi thứ ba. Đó là người kể giấu mình chỉ gọi tên nhân vật nhưng có mặt khắp nơi trong văn bản. Dường như thấy hết mọi việc, mọi hành động, tâm tư, tình cảm của nhân vật. III. Văn nghị luận. A. Phép phân tích và tổng hợp..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> 1. Phép phân tích. Là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung sự vật, hiện tượng người ta vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu... và cả phép lập luận giải thích, chứng minh. 2. Phép tổng hợp. Là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn, cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản. B. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. 1. Khái niệm : Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống là bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ. 2. Yêu cầu về nội dung : Bài viết phải nêu được sự việc, hiện tượng có vấn đề ; phân tích mặt sai, đúng, lợi, hại của nó ; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến, nhận định của người viết. 3. Yêu cầu về hình thức : Bài viết phải có bố cục mạch lạc ; luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp ; lời văn chính xác, sinh động. 4. Dàn bài chung : a. Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề. b. Thân bài: Liên hệ thực tế, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại, đánh giá nhận định. c. Kết bài: Kết luận, khẳng định, phủ định, lời khuyên. * Lưu ý. - Khi làm bài phải tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn bài, viết và đọc lại để sửa chữa những sai sót(nếu có). - Khi viết cần chọn góc độ riêng để phân tích, nhận định; đưa ra các ý kiến có suy nghĩ và cảm thụ riêng của người viết. C. Nghị luận về một vấn dề tư tưởng, đạo lí. 1. Khái niệm: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống...của con người. 2. Yêu cầu về nội dung: Người viết phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích... để chỉ ra chỗ đúng(hoặc sai) của một tư tưởng nào đó để khẳng định tư tưởng của người viết..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> 3. Yêu cầu về hình thức: Bài viết phải có bố cục ba phần; có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn phải chính xác, sinh động. 4. Dàn bài chung: a. Mở bài: Giới thiệu tư tưởng đạo lí cần bàn luận. b. Thân bài: + Giải thích, chứng minh nội dung vấn đề tư tưởng, đạo lí. + Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng đạo lí đó trong bối cảnh của cuộc sống riêng, chung. c. Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động. * Lưu ý: - Bài làm cần vận dụng các phép lập luận giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp một cách linh hoạt, phù hợp. - Người viết phải chọn góc độ riêng để giải thích, đánh giá và đưa ra được quan điểm, ý kiến của mình. 5. Ví dụ: Trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long có chi tiết sau: “...Ơ bác vẽ cháu đấy ư? Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn” (Lời của anh thanh niên nói với bác hoạ sĩ già). a. Chi tiết trên thể hiện phẩm chất gì của anh thanh niên? b. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về phẩm chất ấy? Hướng dẫn. a. Chi tiết trên thể hiện một phẩm chất rất đáng quý của anh thanh niên. Đó là sự khiêm tốn. b. Bài văn nghị luận bàn về phẩm chất khiêm tốn của con người trong cuộc sống. * Mở bài: Giới thiệu đức tính khiêm tốn. * Thân bài; - Khiêm tốn là gì? Không tự đề cao mình một cách quá mức. - Vì sao phải khiêm tốn? Những thành quả trong gia đình và xã hội là do nhiều người, do bao thế hệ góp công, góp sức xây dựng nên. Những đóng góp của mình cho gia đình và xã hội chỉ là những đóng góp hết sức nhỏ bé. Khiêm tốn càng làm cho con người cố gắng phấn đấu hơn trong cuộc sống, trong lao động để xây dựng một xã hội phồn vinh, hạnh phúc..

<span class='text_page_counter'>(69)</span> - Trái với khiêm tốn là gì? Tự cao, tự đại coi những gì mình làm ra là to lớn không ai sánh bằng. Nó làm cho con người thoả mãn với đóng góp của mình mà coi thường người khác... - Làm thế nào để rèn luyện khiêm tốn? Thường xuyên học tập, trau dồi đạo đức, lối sống. Quan niệm sống là cống hiến hết mình, phải sống có ích. Đó mới là lí tưởng sống của con người khiêm tốn. * Kết bài: Ngày nay khiêm tốn có tác dụng gì trong công cuộc xây dựng đất nước? Thế hệ trẻ hôm nay cần rèn luyện cho mình đức tính khiêm tốn để đem trí tuệ, công sức xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp. D. Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. 1. Khái niệm: Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiên, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. 2. Yêu cầu về nội dung: Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa cốt truyện, tính cách, số phận nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. Những nhận xét, đánh giá phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. 3. Yêu cầu về hình thức: Bài văn phải có bố cục ba phần, lời văn chuẩn xác, gợi cảm . 4. Dàn bài chung: a. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm( tuỳ theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình. b. Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực. c. Kết bài: Nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm hoặc đoạn trích. * Lưu ý: - Trong quá trình triển khai các luận điểm, luận cứ cần thể hiện cảm thụ, ý kiến riêng của người viết. - Giữa các phần các đoạn cần có sự liên kết hợp lí, tự nhiên. - Để làm tốt một bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, người viết phải nắm được các vấn đề cơ bản sau:.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> + Nắm được những nét cơ bản về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm. + Tóm tắt được truyện hoặc đoạn trích và nắm được chủ đề, tình huống truyện. + Thuộc lòng những câu văn, đoạn văn quan trọng để làm luận cứ trong quá trình triển khai luận điểm. 5. Một số đề nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. Đề 1. Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 2. Ấn tượng của em về nhân vật Nguyễn Huệ trong hồi thứ 14 trích “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái. Đề 3. Vẻ đẹp nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”. Đề 4. Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều qua đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Đề 5. Vẻ đẹp của Lục Vân Tiên qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”. Đề 6. Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà Văn Kim Lân. Đề 7. Vẻ đẹp của anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. Đề 8. Chất trữ tình trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. Đề 9. Suy nghĩ về tình cảm cha con trong truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đề 10. Phân tích nhân vật bé Thu. Đề 11. Phân tích nhân vật ông Sáu. Đề 12. Suy nghĩ về thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mĩ qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Đề 13. Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Phương Định. Đề 14. Nhân vật Nhĩ trong truyện “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu. 6. Một số bài tập ngắn liên quan đến tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. Bài tập 1. Ý nghĩa của chi tiết “Cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Bài tập 2. Vai trò các yếu tố hoang đường trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. Bài tập 3. Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí vốn thân Lê, chịu ơn sâu nặng của vua Lê nhưng tại sao lại viết về Nguyễn Huệ hay và đẹp như vậy? Bài tập 4. Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua các đoạn trích đã học. Bài tập 5. Nêu tình huống truyện “Làng” và cho biết tác dụng. Bài tập 6. Vai trò của nhân vật hoạ sĩ già trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”..

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Bài tập 7. Nêu và cho biết tác dụng của tình huống truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Bài tập 8. Tình huống và tác dụng của tình huống trong truyện “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu. Bài tập 9. Truyện “Bến quê” có nhiều chi tiết mang tính biểu tượng. Hãy chỉ ra một số chi tiết đó. Bài tập 10. Nhan đề truyện “Lặng lẽ Sa Pa”. Bài tập 11. Nhan đề truyện “Chiếc lược ngà” Bài tập 12. Nhan đề truyện “Những ngôi sao xa xôi”. Bài tập 13. Nhan đề truyện “Bến quê”. E. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. 1. Khái niệm. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là trình bày những đánh giá, nhận xét của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy. 2. Yêu cầu về nội dung. Bài viết cần phân tích ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu... để có những nhận xét, đánh giá cụ thẻ, thoả đáng. 3. Yêu cầu về hình thức. Bài viết cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng; lời văn gợi cảm, thể hiện những rung động chân thành của người viết. 4. Dàn bài chung. a. Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của mình. b. Thân bài. Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ. c. Kết bài. Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ. * Lưu ý. Bài viết cần nêu được các nhận xét, đánh giá và cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc của bài thơ, đoạn thơ. 5. Cách làm bài văn ngắn nghị luận về một đoạn thơ. a. Mở bài. Giới thiệu đoạn thơ, bước đầu khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. b. Thân bài. Trình bày những suy nghĩ, nhận xét, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> c. Kết bài. Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ. 6. Một số đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Đề 1. Vẻ đẹp bức tranh mùa xuân trong bốn câu thơ sau: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Gợi ý. - Khung cảnh mùa xuân trong 4 câu thơ trên thật mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Ngày xuân thấm thoắt trôi nhanh như thoi đưa dệt cửi, tiết trời đã bước sang tháng thứ ba. Những cánh én chao nghiêng rộn ràng dưới ánh nắng tươi sáng. Bức tranh xuân càng trở nên tuyệt đẹp khi xuất hiện thảm cỏ xanh mướt trải dài đến tận chân trời xa tít. Trên nền màu xanh thơm mát ấy, nhà thơ tô điểm thêm một vài bông hoa lê trắng ngần khiến cho màu sắc trở nên hài hoà đến mức tuyệt diệu. Chữ “điểm” trở thành nhãn tự của khổ thơ làm cho bức hoạ thêm thanh tao, trang nhã. - Hai câu thơ sau, tác giả lấy ý từ câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích- Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng ông đã sáng tạo chuyển từ trời xanh thành cỏ xanh, thêm chữ điểm và màu trắng để tạo một bức tranh động, gần gũi mang đậm sắc thái Việt Nam. - Với bút pháp gợi tả kết hợp việc sử dụng từ ngữ đắt, Nguyễn Du đẫ mang đến bao thế hệ bạn đọc một bức tranh tuyệt tác về mùa xuân. Đề 2. Phân tích giá trị của việc sử dụng từ láy trong đoạn thơ sau: Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước lần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang Sè sè nắm đất bên đàng Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Gợi ý. - Các từ láy được sử dụng trong đoạn thơ trên là: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> - Tác dụng: + Dùng để tả cảnh buổi chiều tà sau lễ hội , cảnh vẫn mang nét thanh tao, trong trẻo của mùa xuân nhưng nhẹ nhàng và tĩnh lặng không còn không khí rộn ràng, tấp nập. + Đồng thời bộc lộ tâm trạng con người. Các từ : thơ thẩn, nao nao gợi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng, luyến tiếc vì buổi du xuân đã hết, nó còn linh cảm về một điều gì đó sắp xảy ra. Từ láy: sè sè, rầu rầu thể hiện cảnh sắc thay đổi nhuốm màu u ám, thê lương. Nó gợi tả được nấm mồ lẻ loi, đơn độc lạc lõng giữa ngày tảo mộthật đáng thương khiên Kiều động lòng và chuẩn bị cho sự xuất hiện hàng loạt những hình ảnh của âm khí trong những câu thơ tiếp theo. - Đoạn thơ là sự hoà quyện giữa cảnh và tình đến mức tuyệt diệu qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du. Đề 3. Cảm nhận về đoạn thơ sau: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Gợi ý. - Tám câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động diễn tả tâm trạng buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. - Đoạn thơ sử dụng điệp ngữ buồn trông mở đầu mỗi cảnh vật qua cái nhìn của Kiều để nhấn mạnh nỗi buồn dâng ngập trong lòng nàng. - Ở đây mỗi cảnh chiều tà bên bờ biển là một ẩn dụ về tâm trạng và số phận nàng Kiều. Những cánh buồm thấp thoáng xa xa nơi cửa bể chiều hôm gợi nỗi nhứ nhà khô xiết ; ngọn nước mới sa, những cánh hoa trôi man mác gợi thân phận lênh đênh, vô định ; nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất gợi một cảnh đời tương lai mờ mịt làm cho nỗi buồn càng mênh mang, da diết trong lan toả vào không gian ; để rồi nỗi buồn đó bỗng dội lên thành nỗi kinh hoàng lo sợ khi Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tiếng sóng biển cũng chính là tiếng sóng của cuộc đời đầy ngang trái đang đổ ập xuống thân phận bé nhỏ. Nó như một lời dự báo tai hoạ đang ập xuống đời nàng về mười lăm năm lưu lạc mà Kiều phải trải qua. Nó là nốt nhấn kinh hoàng để khép lại.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> bản nhạc buồn ở lầu Ngưng Bích và mở ra một chặng đời đầy phong ba bão táp. - Tám câu thơ tuyệt bút đã đưa nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao hiếm có. Đó là nhờ tài năng của nhà thơ, nhưng trước hết là xuất phát từ cái tình lớn của ông đối với nhân vật, đối với cuộc đời. Đề 4. Cảm nhận về cuộc sống ông ngư qua những câu thơ sau : Rày doi mai vịnh vui vầy Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng Một mình thong thả làm ăn Khoẻ quơ chài kéo mệt quăng câu dầm Nghêu ngao nay chích mai đầm Một bầu trời đất vui thầm ai hay Kinh luân đã sẵn trong tay Ung dung dưới thế vui say trong trời Thuyền nan một chiếc ở đời Tắm mưa chải gió trông vời hàn giang. (Lục Vân Tiên- Nguyễn đình Chiểu) Gợi ý. - Đoạn thơ miêu tả cuộc sống thanh sạch và phóng khoáng giữa trời đất sông nước của ông ngư. Đó là cuộc sống thoát ra ngoài vòng danh lợi, đắm mình giữa thiên nhiên. Một cuộc sống tự do, tự tại tràn đầy chất thơ. Đó không phải là cuộc sống của những ẩn sĩ mà là cuộc sống của những người lao động nghèo trên sông nước. Họ gắn bó say mê và tìm thấy niềm vui. - Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả cuộc sống ông ngư bằng cảm hứng ngợi ca với niềm tin yêu cuộc sống. Những từ: doi, vịnh, hứng gió, chơi trăng, nghêu ngao, vui say, tắm mưa, chải gió..cho thấy giữa con người với thiên nhiên giao hoà trong niềm vui say thoát khỏi những tính toán bon chen ích kỉ, mưu danh trục lợi. Để rồi từ cuộc sống đó quy tụ lại hình ảnh một chiếc thuyền nan đắm mình giữa thiên nhiên tự do tự tại. - Tấm lòng đã đẹp, cuộc sống càng đẹp hơn, điều đó cho thấy cái đẹp vẫn tồn tại vững bền nơi những người lao động chân chính. Đó là niềm tin vào nhân dân, là quan niệm về nhân dân rất tiến bộ của Đồ Chiểu. Đề 5. Cảm nhận về tình đồng chí qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Gợi ý. - Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm. Đề 6. Cảm nhận về đoạn thơ sau: Đêm nay rừng hoang sương muối.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. (Đồng chí- Chính Hữu). Đề 7. Hình ảnh người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Đề 8. Cảm nhận về những câu thơ sau: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. (Phạm Tiến Duật). Đề 9. Phân tích cái hay của việc sử dụng điệp từ “nhìn” trong đoạn thơ sau: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái. (Phạm Tiến Duật). Đề 10. Cảm nhận về cái “bắt tay” trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính và cái “nắm lấy bàn tay” trong bài thơ Đồng chí. Đề 11. Cảm nhận về “miệng cười buốt giá” trong bài thơ Đồng chí và tiếng “cười ha ha” trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Đề 12. Chép và cảm nhận về khổ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá “ của Huy Cận. Đề 13. Chép và cảm nhận khổ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Đề 14. Cảm nhận về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đề 15. Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Đề 16. Hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa”. Đề 17. Cảm nhận về đoạn thơ sau: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi, kì lạ và thiêng liêng- Bếp lửa! (Bằng Việt). Đề 18. Cảm nhận về bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đề 19. Hình ảnh người mẹ Tà Ôi qua bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Đề 20. Suy nghĩ của em khi đọc bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên. Đề 21. Cảm nhận về vẻ đẹp bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Đề 22. Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. Đề 23. Cảm nhận về bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Đề 24. Cảm nhận về bài thơ “Nói với con” của Y Phương. 7. Một số bài tập liên quan đến bài thơ, đoạn thơ. Bài tập 1. Nêu vài nét về nhà thơ Chính Hữu và giải thích nhan đề bài thơ Đồng chí. Bài tập 2. Nêu vài nét về Phạm Tiến Duật và hoàn cảnh ra đời Bài thơ về tiểu đội xe không kính? Em hiểu gì về nhan đề bài thơ. Bài tập 3. Trình bày vài nét về tác giả Bằng Việt. Nhan đề bài thơ “Bếp lửa”. Bài tập 4. Em hiểu gì về nhan đề “Ánh trăng”? Bài tập 5. Em hiểu gì về nhan đề bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên. Bài tập 6. Hãy giải thích nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”..

<span class='text_page_counter'>(77)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×