Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 176 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH TÂN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH GẮN VỚI
ĐẢM BẢO AN NINH MƠI TRƯỜNG
Ở TỈNH NINH BÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2021


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH TÂN

PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH GẮN VỚI
ĐẢM BẢO AN NINH MƠI TRƯỜNG
Ở TỈNH NINH BÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 931 01 02

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. HỒNG THỊ BÍCH LOAN
2. GS,TS. CHU VĂN CẤP

HÀ NỘI - 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án có nguồn gốc rõ
ràng, trung thực, và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Tân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

6

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài

6

luận án
1.2. Đánh giá chung kết quả của các cơng trình đã công bố và những “khoảng

26

trống” cần tiếp tục nghiên cứu

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH

30

TẾ DU LỊCH GẮN VỚI ĐẢM BẢO AN NINH MÔI TRƯỜNG
2.1. Những vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch và đảm bảo an ninh

30

môi trường
2.2. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường

49

2.3. Kinh nghiệm quốc tế, trong nước về phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm

62

bảo an ninh môi trường và bài học rút ra cho tỉnh Ninh Bình
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH GẮN

74

VỚI ĐẢM BẢO AN NINH MƠI TRƯỜNG Ở TỈNH NINH
BÌNH GIAI ĐOẠN 2010-2019
3.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Ninh Bình

74

3.2. Phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh


81

mơi trường ở tỉnh Ninh Bình
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ

116

DU LỊCH GẮN VỚI ĐẢM BẢO AN NINH MƠI TRƯỜNG Ở
TỈNH NINH BÌNH ĐẾN NĂM 2030
4.1. Bối cảnh mới và định hướng phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo

116

an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030
4.2. Giải pháp phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh mơi trường

133

ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030
KẾT LUẬN

150

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐÈ TÀI LUẬN ÁN

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


153

PHỤ LỤC

165


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANMT

: An ninh mơi trường

BĐKH

: Biến đổi khí hậu

BVMT

: Bảo vệ mơi trường

DLST

: Du lịch sinh thái

ĐBANMT

: Đảm bảo an ninh môi trường

GDP


: Tổng sản phẩm quốc nội

KTDL

: Kinh tế du lịch

KT-XH

: Kinh tế -xã hội

NSNN

: Ngân sách nhà nước

Nxb

: Nhà xuất bản

ONMT

: Ơ nhiễm mơi trường

PTBV

: Phát triển bền vững

PTDL

: Phát triển du lịch


PTKT

: Phát triển kinh tế

PTKTDL

: Phát triển kinh tế du lịch

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1

: Cơ sở lưu trú du lịch của tỉnh Ninh Bình giai

83

đoạn 2010 - 2018
Bảng 3.2

: Tổng hợp một số khoản thuế, phí liên quan đến bảo

105

vệ mơi trường trên địa bản tỉnh Ninh Bình giai

đoạn 2010-2019
Bảng 3.3

: Kinh phí sự nghiệp mơi trường được phân bổ cho

109

ngành du lịch giai đoạn 2010 -2019
Bảng 3.4

: Thống kê số các cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ

115

bộ vào tỉnh Ninh Bình từ năm 2010 -2017

DANH MỤC CÁC BIỂU
Trang
Biểu đồ 3.1 : Doanh thu từ hoạt động du lịch của tỉnh Ninh

81

Bình giai đoạn 2010 - 2019
Biểu đồ 3.2 : Số lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn

82

2010 - 2019
Biểu đồ 3.3 : Số lượng khách du lịch đến Quần thể danh


83

thắng Tràng An giai đoạn từ năm 2014-2019
Biểu đồ 3.4 : Doanh thu từ hoạt động dịch vụ du lịch của tỉnh

84

Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2018
Biểu đồ 3.5 : Hiện trạng nguồn nhân lực du lịch tỉnh Ninh

103

Bình giai đoạn 2010 - 2017
Biểu đồ 3.6 : Vốn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường giai
đoạn 2010-2019

104


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp, tính liên ngành, liên vùng và xã
hội hóa cao. Ngồi việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách thì hoạt
động của ngành kinh tế này cịn đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu tại
chỗ các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã
coi kinh tế du lịch (KTDL) là ngành “cơng nghiệp khơng khói”, đóng góp to lớn
vào phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) của đất nước, tạo động lực cho các ngành
khác phát triển, góp phần quan trọng vào tạo việc làm và thu nhập, xóa đói giảm
nghèo, là phương tiện quảng bá hình ảnh đất nước, ...

Sau 60 năm hình thành và phát triển, du lịch Việt Nam ngày càng phát triển
và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Theo Tổng cục Du lịch, năm 2019
số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt. Khách nội địa đạt 85
triệu lượt. Tổng thu đạt 755.000 tỷ đồng (trong đó tổng thu từ khách quốc tế đạt
421.000 tỷ đồng và khách nội địa đạt 334.000 tỷ đồng); đóng góp 9,2% vào
GDP [127], giải quyết khoảng 1,3 triệu lao động phục vụ trong ngành du lịch
(chiếm 2,5% tổng số lao động cả nước) [138].
Tuy nhiên, trong bối cảnh đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
và biến đổi khí hậu (BĐKH) ngành du lịch đang phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, đó là: ô nhiễm môi trường (ONMT) gia tăng, suy giảm đa dạng sinh
học, thời tiết cực đoan ... Trong khi đó, các nguồn lực cần thiết cho hoạt động du
lịch, như: vốn đầu tư cho hoạt động du lịch, chất lượng nguồn nhân lực, khoa học
- công nghệ đang ở mức thấp... đã làm cho hoạt động du lịch chưa hiệu quả, chưa
tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Điều này đã hạn chế sự phát
triển của ngành du lịch và an ninh môi trường (ANMT). Nhằm khắc phục tình
trạng này, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh phát triển
ngành du lịch theo hướng bền vững.
Ninh Bình là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sơng Hồng có nhiều tiềm năng
để phát triển du lịch, tiêu biểu như: Quần thể danh thắng Tràng An - Di sản văn


2
hóa và thiên nhiên thế giới; Khu Tam Cốc - Bích Động; Vườn Quốc gia Cúc
Phương; Khu du lịch sinh thái (DLST) Thung Nham, ... Bên cạnh đó, Ninh Bình
cịn sở hữu nguồn tài nguyên du lịch lịch sử - văn hóa với 1.499 di tích lịch sử
văn hóa, trong đó phải kể đến một số di tích lịch sử văn hóa quan trọng, bao
gồm: Cố đơ Hoa Lư, Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, Đền thờ Vua Lê Đại Hành,
Đền Thái Vy, Đền Trương Hán Siêu, Chùa Bái Đính, Chùa Bích Động. Mặt
khác, với vị trí địa lý thuận tiện, giao thông đường bộ, đường sắt và đường biển
khá phát triển tạo điều kiện cho KTDL ở Ninh Bình phát huy được lợi thế, thu

hút khách du lịch.
Trong những năm qua, KTDL của tỉnh Ninh Bình đã có những bước phát
triển đáng khích lệ, tăng trưởng du lịch đã có những đóng góp lớn vào phát triển
KT-XH của đất nước nói chung và của tỉnh nói riêng. Theo số liệu thống kê của
Sở Du lịch, năm 2019 ngành du lịch đạt doanh thu 3.600 tỷ, tạo việc làm cho
21.500 lao động tại địa phương [73, tr.60-61]. Từng bước gắn bảo tồn cảnh quan
thiên nhiên và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, góp phần
thúc đẩy phát triển bền vững (PTBV). Tuy nhiên, sự phát triển hiện nay của
ngành du lịch Ninh Bình chưa thật sự gắn với bảo vệ môi trường (BVMT) nên
cũng đã gây ra những tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái, như: làm
suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự xuống cấp của môi trường; gây sức ép
lên hệ sinh thái, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; phá vỡ cảnh quan
thiên nhiên và di tích lịch sử, v.v...
Để góp phần giải quyết vấn đề này, cần có những nghiên cứu cơ bản về lý
luận, thực tiễn và có phải có những phân tích, đánh giá thực trạng, từ đó tìm ra
ngun nhân và đề ra giải pháp để ngành du lịch Ninh Bình PTBV. Với ý nghĩa
đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an
ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình” làm luận án tiến sĩ kinh tế, ngành kinh tế
chính trị.
Nghiên cứu đề tài này nhằm trả lời các câu hỏi:
- Phát triển kinh tế du lịch (PTKTDL) gắn với đảm bảo an ninh môi trường
(ĐBANMT) là như thế nào?


3
- Thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình ra sao?
- Giải pháp nào để PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình trong
thời kỳ phát triển mới đến 2030?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai
đoạn 2010-2019 và đề xuất giải pháp nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh
Ninh Bình đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về PTKTDL gắn với ĐBANMT;
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia, địa phương có những nét tương
đồng với Ninh Bình trong PTKTDL gắn với ĐBANMT, từ đó rút ra bài học cho
tỉnh Ninh Bình;
- Phân tích, đánh giá thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh
Bình giai đoạn 2010-2019 trên cơ sở khung lý thuyết đã xây dựng ở chương 2.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh
Ninh Bình đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là PTKTDL gắn với ĐBANMT
dưới góc độ kinh tế chính trị. Tuy nhiên, đề tài luận án chỉ tập trung nghiên cứu
PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn cấp tỉnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa PTKTDL và ĐBANMT; Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
PTKTDL gắn với ĐBANMT. Về môi trường, luận án tập trung nghiên cứu
ĐBANMT tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn chỉ được đề cập trong trường
hợp cần thiết.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu PTKTDL gắn với ĐBANMT trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình.


4
- Về thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu thực trạng PTKTDL gắn với
ĐBANMT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019, đề xuất giải pháp

PTKTDL gắn với ĐBANMT của tỉnh đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về PTKTDL gắn
với ĐBANMT. Đồng thời, luận án kế thừa một cách có chọn lọc các cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến PTKTDL, mơi trường, ĐBANMT và PTKTDL gắn
với ĐBANMT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Là phương pháp nghiên cứu
đặc thù của khoa học kinh tế chính trị. Phương pháp này cho phép gạt bỏ
những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong quá trình và những hiện tượng được
nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện
tượng và q trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng,
hình thành những phạm trù, những quy luật phản ánh bản chất đó.
- Phương pháp lơgic với lịch sử: Luận án sử dụng biện pháp nghiên cứu
này, bởi cùng một đối tượng nghiên cứu, nhưng trong những hoàn cảnh lịch sử
khác nhau ở các quốc gia khác nhau thì sẽ có sự khác nhau. Việc nghiên cứu
PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn tỉnh phải có tính động, gắn với q
trình phát triển qua các thời kỳ khác nhau, vừa tuân thủ những vấn đề lý luận
chung, vừa phải tính đến tác động của yếu tố lịch sử cụ thể của Ninh Bình trong
giai đoạn hiện nay, từ đó có những đề xuất phù hợp và khả thi.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Luận án sử dụng phương pháp này
trong tồn bộ q trình nghiên cứu của mình, trước hết là phân tích rõ nội dung
PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn cấp tỉnh. Phân tích kinh nghiệm của
một số quốc gia và địa phương trong PTKTDL gắn với ĐBANMT để tổng hợp
thành các bài học đối với tỉnh Ninh Bình. Luận án phân tích thực trạng PTKTDL



5
gắn với ĐBANMT, từ đó tổng hợp, đánh giá những thành tựu, hạn chế làm căn
cứ cho việc đề xuất giải pháp nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT của tỉnh Ninh
Bình đến năm 2030.
- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở các thông tin thu thập được, tác giả
luận án phân tích, xử lý thơng tin, so sánh thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT
ở tỉnh Ninh Bình với những yêu cầu mang tính lý thuyết, tham khảo kinh
nghiệm, so sánh thực trạng hiện nay với các giai đoạn trước đây … từ đó có
những đề xuất phù hợp với lý luận, với thực tiễn tỉnh Ninh Bình, kế thừa được
thành tựu của các quốc gia, tỉnh đã tham khảo kinh nghiệm.
* Nguồn tài liệu nghiên cứu: Nguồn tài liệu thứ cấp được sử dụng, tổng
hợp, phân tích trong luận án chủ yếu là các tài liệu đã được công bố trên sách,
báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước; tài liệu của các cơ
quan quản lý tỉnh Ninh Bình, như: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Kế
hoạch và Đầu tư,…. Sau khi thu thập số liệu từ các nguồn, để đưa vào các bảng,
biểu đồ minh họa cho các luận giải, phân tích trong luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
- Đưa ra cơ sở lý luận về PTKTDL gắn với ĐBANMT ở địa bàn cấp tỉnh,
với 3 nội dung quan trọng: Khái niệm và sự cần thiết phải PTKTDL gắn với
ĐBANMT; Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến PTKTDL gắn với ĐBANMT.
- Đánh giá một cách khách quan, trung thực thực trạng PTKTDL gắn với
ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019. Từ đó rút ra những kết quả,
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất những giải pháp mang tính tồn diện, khả thi nhằm PTKTDL
gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.



6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Cho đến nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước
được cơng bố liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án. Các cơng trình đã
đạt được những kết quả nhất định, là cơ sở để định hướng cho nghiên cứu tiếp
theo của luận án.
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGỒI
NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu lý luận về phát triển kinh tế du lịch
gắn với đảm bảo an ninh môi trường
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch
Những cơng trình nghiên cứu lý luận về PTKTDL của các tác giả trong và
ngoài nước đã hướng vào các vấn đề giải thích phạm trù phản ánh hoạt động liên
quan đến kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch, các hình thức dịch vụ du lịch, cơ
chế vận hành hoạt động kinh doanh du lịch,… trong đó, tiêu biểu phải kể đến
các cơng trình sau:
Theo tác giả William Theobald trong cuốn“Global Tourism - The next
decade” (Du lịch toàn cầu - Thập kỷ tới) [157]. Nội dung cuốn sách giới thiệu
khái niệm và phân loại du lịch; xác định những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
của du lịch; định hướng và kế hoạch PTDL.
Trong cuốn“Leisure and Tourism” (Giải trí và Du lịch) của các tác giả
John Ward, Phil Higson và William Campbell [147]. Nội dung cuốn sách đi sâu
nghiên cứu về ngành cơng nghiệp du lịch và giải trí được thực hiện thơng qua
việc phân tích các hình mẫu và xu hướng, các sản phẩm và dịch vụ trong ngành
du lịch và giải trí cũng như các tác động của nó đến kinh tế, xã hội, văn hóa hay
mơi trường. Ngồi ra, nội dung nghiên cứu cịn đề cập đến vấn đề tiếp thị, cung
cấp các dịch vụ thông tin quản lý, việc lên kế hoạch và đánh giá các sự kiện
cũng như các nguồn cơ sở hạ tầng cho các dự án du lịch và giải trí.

Tác giả Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hịa (2006) trong cuốn
“Giáo trình kinh tế du lịch” [39] đã đưa ra một số khái niệm như: du lịch,


7
khách du lịch, sản phẩm du lịch và tính đặc thù của du lịch; lịch sử hình thành,
xu hướng phát triển và tác động của du lịch đến KT-XH, khái quát về lịch sử
hình thành và phát triển của du lịch thế giới; hệ thống hóa những xu hướng phát
triển cơ bản của cầu và cung du lịch trên thế giới và phân tích các tác động về
KT-XH của du lịch đối với một địa bàn PTDL (dưới góc độ một quốc gia). Cung
cấp một số kiến thức về: cầu du lịch, loại hình du lịch và các lĩnh vực kinh
doanh du lịch; điều kiện để PTDL; tính thời vụ trong du lịch; lao động trong du
lịch; cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch; chất lượng dịch vụ du lịch; hiệu quả
KTDL; quy hoạch PTDL; tổ chức và quản lý ngành du lịch.
Đặc biệt các tác giả đã đưa ra một số khái niệm liên quan đến KTDL như:
Kinh doanh lữ hành, bao gồm: Kinh doanh lữ hành và kinh doanh đại lý lữ hành.
Kinh doanh khách sạn; Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; Kinh doanh các
dịch vụ khác.
Ngoài ra, các tác giả nêu ra khái niệm hiệu quả KTDL, theo đó:
Hiệu quả kinh tế du lịch thể hiện mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất
và tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng lớn nhất
các dịch vụ và hàng hóa có chất lượng cao nhất trong một khoảng thời
gian nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch với chi phí
nhỏ nhất đạt doanh thu cao nhất và thu lợi nhuận tối đa. Nói cách
khác, hiệu quả kinh tế du lịch phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực
sẵn có để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh cao nhất với chi phí
thấp nhất [39, tr.262].
Và đưa ra một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả KTDL như: Nhóm chỉ tiêu
hiệu quả kinh tế đánh giá sự đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh tế quốc
dân, bao gồm: Tổng doanh thu xã hội từ du lịch; tổng doanh thu thuần túy bản

thân ngành du lịch; tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch trong GDP của nền kinh
tế quốc dân; doanh thu bình quân đầu người của ngành du lịch; Nhóm chỉ tiêu
hiệu quả kinh tế của các lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch như: kinh
doanh lữ hành; kinh doanh lưu trú; kinh doanh ăn uống; kinh doanh vận tải du
lịch; các ngành dịch vụ du lịch khác [39, tr.266-267].
Trong cuốn “Kinh tế du lịch và du lịch học” của hai tác giả Trung Quốc là
Đổng Ngọc Minh, Vương Lơi Đình [74]. Nội dung cuốn sách đề cập đến một số


8
vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và KTDL: khái niệm về du lịch, khái quát về
KTDL, sản phẩm du lịch, thị trường du lịch, vai trò của KTDL, quy hoạch xây
dựng khu du lịch, v.v...
Trong cuốn “Kinh tế du lịch” của tác giả Robert Lanquar [88], đã khẳng
định: KTDL là ngành cơng nghiệp, vì nó là tồn bộ những hoạt động nhằm khai
thác các của cải du lịch, nhằm biến các tài nguyên nhân lực, tư bản và nguyên
liệu thành dịch vụ và sản phẩm. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra những ảnh hưởng
của du lịch đến nền kinh tế. Yêu cầu về du lịch, sự tiêu dùng của du lịch, sản
xuất cho du lịch, đầu tư du lịch. Những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế
học du lịch và kinh doanh du lịch.
Trong cuốn “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động
của nó tới quốc phịng - an ninh” của tác giả Nguyễn Đình Sơn, thì
Kinh tế du lịch là một phạm trù phản ánh bước tiến mới của lực lượng
sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của
đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và
ngồi nước, tổ chức bn bán xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ
thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế- xã hội
phát triển [100, tr.23].
1.1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu về đảm bảo an ninh môi trường

Trong cuốn “Giáo trình mơi trường đại cương” của tác giả ThS Nguyễn
Thị Phương Thảo [107] đã chỉ ra môi trường sống của con người theo chức
năng, được chia thành 3 loại: Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và nhân
văn và môi trường nhân tạo. Và cho rằng trên thực tế, ba loại môi trường này đều
cùng tồn tại, xen kẽ, tương tác lẫn nhau rất chặt chẽ.
Trong cuốn “Tài nguyên thiên nhiên môi trường với sự tăng trưởng bền
vững ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Chử [26] và Trần Thị Thanh Huyền
trong bài “Chức năng cơ bản của mơi trường” [59] đã chỉ ra mơi trường có 5
chức năng cơ bản: Là không gian sống của con người và các lồi sinh vật; Mơi
trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống cũng như
sản xuất của con người; Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải do con người


9
tạo ra trong quá trình sống và lao động sản xuất; Mơi trường cịn có chức năng
lưu trữ và cung cấp nguồn thơng tin cho con người; Mơi trường chính là nơi bảo
vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài.
Năm 1972, lần đầu tiên vấn đề ANMT được đưa vào Chương trình Nghị
sự quốc tế tại Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và con người ở Stốckhôm
Thụy Điển. Nhưng phải đến năm 1987, tại Đại hội Liên hợp quốc lần đầu tiên
trong văn bản chính thức đề cập đến khái niệm về ANMT: “Quản lý nguồn tài
ngun khơng hợp lý, lãng phí đều uy hiếp đối với an ninh. Sự biến đổi tiêu cực
của môi trường đang uy hiếp đối với sự phát triển ... trở thành nguyên nhân của
các căng thẳng và tiêu cực xã hội, ảnh hưởng đến nhân loại như đói nghèo, mù
chữ, dịch bệnh ...) [111].
Theo Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc ANMT được hiểu là “sự khan hiếm
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái và ô nhiễm môi trường và những
hiểm họa (môi trường) có thể gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia
tăng bất ổn chính tri, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột và chiến
tranh” [49, tr.27].

Theo Báo cáo Thiên niên kỷ của Hội đồng Châu Mỹ của Liên hiệp quốc,
có thể hiểu, ANMT là trạng thái hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường (đất,
nước, khơng khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác)
cân bằng để đảm bảo điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các
lồi sinh vật trong hệ thống đó. Giữ gìn ANMT là BVMT sống, môi trường tồn
tại của con người và xã hội lồi người. An ninh mơi trường khơng được đảm bảo
thì xã hội khơng có sản xuất vật chất, khơng có đời sống tinh thần, khơng có sự
tồn tại và phát triển.
Dự án Thiên niên kỷ của Hội đồng Châu Mỹ của Liên hợp quốc xác
định “ANMT là việc đảm bảo an toàn trước các mối nguy hiểm môi trường sinh
ra do sự yếu kém trong quản lý hoặc thiết kế và có nguyên nhân trong nước hay
xuyên quốc gia” [49, tr.27].
Theo Luật BVMT năm 2014, theo đó “An ninh mơi trường là việc bảo đảm
khơng có tác động lớn của mơi trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát
triển kinh tế của quốc gia” [85, tr.11].


10
Cuốn sách “Đảm bảo an ninh môi trường cho phát triển bền vững” do
Nguyễn Đình Hịe và Nguyễn Ngọc Sinh biên soạn [48] đã cung cấp cho người
đọc những khái niệm mới và và kiến thức hữu ích về vấn đề sống cịn của mơi
trường trong sự PTBV. Trọng tâm của cuốn sách trình bày về vấn đề tranh chấp
quốc gia và liên quan tới tài nguyên; nguy cơ mất an ninh do thảm họa thiên tai,
sự cố môi trường. Đặc biệt, vấn đề ONMT xuyên quốc gia, tệ nạn môi trường,
nhiễm loạn sinh thái ... đề xuất giải pháp ứng phó với các vấn đề ANMT nói
chung và đối với từng vấn đề cụ thể đã từng xẩy ra tại Việt Nam nói riêng.
Trong cuốn sách “An ninh mơi trường” của tác giả Nguyễn Đức Khiển và
Nguyễn Kim Hoàng [61], nội dung cuốn sách được kết cấu thành 7 chương, đề
cập đến: An ninh môi trường; mất ANMT; những thách thức về môi trường trên
thế giới; Hậu quả của sự cố và ONMT đến an ninh xã hội và sức khỏe cộng

đồng; xóa đói giảm nghèo, biện pháp hữu hiệu để BVMT và PTBV và hậu quả
của sự cố và ONMT đến an ninh xã hội và sức khỏe cộng đồng.
1.1.1.3. Những cơng trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch gắn
với đảm bảo an ninh môi trường
Các cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Khi bàn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên C.Mác quan niệm:
Giới tự nhiên cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó
khơng phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con
người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự
nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở
lại trong q trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời
sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói
như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân
tự nhiên, vì con người là một bộ phận của tự nhiên” [70, tr.135].
và “Công nhân không thể tạo ra cái gì khác nếu khơng có giới tự nhiên, nếu
khơng có thế giới hữu hình bên ngồi. Đó là vật liệu, trong đó lao động của anh ta
triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm” [70, tr.130].


11
Với quan niệm “Giới tự nhiên … là thân thể vô cơ của con người”, C.Mác
đã chỉ cho chúng ta thấy rằng: con người chỉ là một bộ phận trên cơ thể của giới
tự nhiên mà thôi, giống như một bộ phận mắt, tai, mũi... trên cơ thể của con
người. Vì vậy, con người khơng bao giờ có thể sống, tồn tại và phát triển khi bị
tách khỏi giới tự nhiên, khỏi mơi trường sống của mình, chừng nào mà con người
cịn tồn tại thì cịn phải dựa vào giới tự nhiên, dựa vào môi trường.
Khi cho rằng: “... con người là một bộ phận của giới tự nhiên”, C.Mác
một lần nữa đã khẳng định con người có nguồn gốc từ giới tự nhiên, từ mơi
trường. Nói cách khác, mơi trường tự nhiên là cái có trước con người và xã hội
loài người.

Con người sống và tồn tại được là do quá trình lao động của con người kết
hợp với môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên đã cung cấp cho con người
những thứ thiết yếu của cuộc sống (như khơng khí, ánh sáng, nước, khơng gian
sống...) và những nguyên vật liệu cần thiết cho quá trình lao động.
- Trong chương “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ
vượn thành người” [70, tr.641] trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” được
Ph.Ăngghen viết vào những năm 1873-1883, Ơng đã nói rất rõ về mối quan hệ
giữa con người - mơi trường và tính tất yếu phải BVMT của loài người. Theo
Ph.Ăngghen, con người là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh
ra được” [70, tr.475], là sản phẩm cao nhất của sự tiến hóa trong nhiều triệu năm
của vật chất. Và “bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản vật đã
phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với mơi trường đó” [70, tr.55].
Để tiến hành lao động, con người không thể không nhờ đến môi trường tự
nhiên “Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ” [70, tr.648]. Công cụ
đầu tiên là công cụ săn bắt, đánh cá đến những công cụ hiện đại sau này cũng từ
giới tự nhiên. Từ đó, con người ngày càng thống trị giới tự nhiên và “bắt giới tự
nhiên phải phục vụ những mục đích của mình”[70, tr.654] Ph.Ăngghen cho rằng
việc cải tạo tự nhiên để phục vụ con người là một tiến bộ xã hội nhưng nếu
khơng theo quy luật thì sẽ bị tự nhiên trả thù, gây những tác dụng phá hủy tất cả
những kết quả ban đầu.
Điều này cho thấy, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều có mối quan
hệ biện chứng thống nhất với nhau “trong giới tự nhiên, khơng có cái gì xảy ra


12
một cách đơn độc cả. Hiện tượng này tác động đến hiện tượng khác và ngược
lại” [70, tr.652]. Trong quá trình lao động sản xuất, con người tác động vào môi
trường tự nhiên, làm thay đổi các yếu tố cấu thành mơi trường, đáp ứng nhu cầu
trước mắt của mình, thì sớm hay muộn sẽ ảnh hưởng tới mơi trường sống. Bởi,
khơng phải chỉ có con người tác động, cải biến môi trường tự nhiên mà môi

trường tự nhiên cũng tác động ngược trở lại một cách mạnh mẽ đối với con
người. Sự tác động ngược trở lại này lại “khơng lường trước được”, nó có thể
“phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên” mà con người đạt được như Ph.Ăngghen
cảnh báo:
chúng ta cũng không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta
đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là
mỗi lần giới tự nhiên trả thù chúng ta. Thật thế, mỗi một thắng lợi,
trước hết là đem lại cho chúng ta kết quả mà chúng ta hằng mong
muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác
dụng hồn tồn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng
thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên của đó [70, tr.654].
Và vì thế, chúng ta hồn tồn khơng thể thống trị được giới tự nhiên như
một kẻ xâm lược thống trị dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự
nhiên, mà trái lại chúng ta phải nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có
thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác.
Bên cạnh, việc chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên,
Ph.Ăngghen còn chỉ ra mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên được bắt nguồn
từ mâu thuẫn trong quan hệ xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này, trước hết giải
quyết xung đột giữa con người với con người để giải quyết xung đột giữa con
người với tự nhiên và nhờ đó thực hiện hài hịa giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với con người. Theo Ông, “muốn tiến hành sự điều tiết ấy cho
được tốt mà chỉ đơn thuần dựa vào nhận thức thơi thì chưa đủ. Cần phải có sự
chuyển biến hoàn toàn trong phương thức sản xuất đã tồn tại cho đến nay, và
đồng thời, trong chế độ xã hội hiện tại” [70, tr.657]. Bởi, tất cả các phương thức
sản xuất cũ chỉ nhằm đạt được những hiệu quả có ích gần nhất và trực tiếp nhất
mà không chú ý đến những hậu quả xa, sau này mới xuất hiện. Điển hình là các


13
nhà tư bản riêng lẻ sản xuất và trao đổi chỉ để thu lợi nhuận trước mắt đã dẫn

đến hậu quả làm cạn kiệt tài nguyên, khủng hoảng kinh tế sau này.
Qua nghiên cứu quan điểm của C.Mác và PhĂngghen về mối quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên, giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ và tồn
diện về mối quan hệ này, từ đó gợi mở những cách thức giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế nói chung và PTKTDL gắn với ĐBANMT nói riêng:
Một là, KTDL có vị trí, vai trị quan trọng trong phát triển KT-XH, là
ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Doanh thu từ hoạt động du lịch có
thể ngày một tăng nếu biết PTKTDL hài hịa với ĐBANMT.
Hai là, con người là một thực thể của tự nhiên và giới tự nhiên là thành
phần của môi trường đặc biệt quan trọng trong đời sống con người, nó bao
quanh con người. Vì thế, chúng ta khơng nên đối lập giữa con người và môi
trường tự nhiên.
Ba là, trong quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, con người cần nắm
vững quy luật tự nhiên để chinh phục nó một cách hài hịa nhất, đừng tác động
vào tự nhiên một cách thô bạo. Con người phải biết bảo vệ giới tự nhiên; khơng
vì lợi ích trước mắt mà tác động xấu đến giới tự nhiên, tất yếu sẽ bị giới tự nhiên
tác động ngược trở lại, phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ sự “trả thù” của mơi
trường tự nhiên.
Các cơng trình nghiên cứu về cơ sở phát triển kinh tế du lịch gắn với
đảm bảo an ninh mơi trường
Cơng trình “The Economics of Leisure and Tourism” (Kinh tế học về Giải
trí và Du lịch) của tác giả John Tribe [148]. Nội dung cơng trình tâp trung vào
một số vấn đề về: Tổ chức và quảng bá hoạt động Giải trí và Du lịch; Giải trí và
Du lịch tương quan với môi trường quốc tế; Tác động của Giải trí và Du lịch đối
với nền kinh tế quốc gia; Giải trí và Du lịch với các vấn đề về mơi trường, sự
đầu tư về Giải trí và Du lịch. Trong tiểu mục: Sự đầu tư về Giải trí, tác giả đề
cập đến các nhân tố tác động đến sự đầu tư các dự án: lợi nhuận, doanh thu, chi
phí vận hành v.v…
Tác giả Nguyễn Thế Chinh trong “Giáo trình Kinh tế và quản lý mơi
trường” [25], đã phân tích mối quan hệ giữa mơi trường và phát triển, những



14
vấn đề cơ bản về chất lượng môi trường, đánh giá tác động mơi trường và phân
tích kinh tế của những tác động môi trường, những vấn đề liên quan giữa khan
hiếm tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường và những nội dung cơ bản của
quản lý môi trường phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và xu hướng
biến đổi mơi trường tồn cầu.
Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de
Janeiro (Braxin, năm 1992), đã đưa ra quan điểm: PTBV là trách nhiệm chung
của các quốc gia và toàn nhân loại, với nguyên tắc cơ bản bao trùm và chủ yếu
là: kết hợp hài hòa các yếu tố tiến bộ xã hội; đáp ứng nhu cầu của mọi người
dân; BVMT sinh thái và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên; tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV tại Jo Hannesburrg (Cộng hòa
Nam Phi, năm 2002) đã khẳng định: PTBV là q trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý, hài hòa 3 mặt của sự phát triển là phát triển kinh tế (PTKT), phát
triển xã hội và BVMT nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống con người trong hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai.
Theo Điều 3, khoản 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam, năm 2017, "Phát
triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về
kinh tế - xã hội và mơi trường, bảo đảm hài hịa lợi ích của các chủ thể tham gia
hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch
trong tương lai" [87, tr.8].
Theo Tổ chức Du lịch thế giới, PTBV trong du lịch là sự phát triển có thể
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Sự phát triển này quan tâm đến
lợi ích kinh tế, xã hội, mang tính lâu dài trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho
bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự tồn vẹn về văn hóa để
phát triển hoạt động du lịch trong tương lai; cho công tác BVMT và góp phần

nâng cao mức sống cộng đồng địa phương.
- Trong cuốn “Nhà nước Việt Nam với vấn đề bảo vệ mơi trường trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nơng thơn” của Lê Thị Thanh Hà, tác
giả đã chỉ ra vai trò của nhà nước trong việc BVMT: BVMT là nhiệm vụ tất yếu
của mọi nhà nước; Những biểu hiện cụ thể về vai trò của nhà nước hiện đại đối


15
với việc BVMT: Nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch BVMT gắn với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thôn; Nhà nước xây dựng công cụ pháp lý để BVMT; Nhà nước tổ chức bộ
máy, xây dựng đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ BVMT; Nhà nước huy động cộng
đồng dân cư tự giác tham gia vào việc BVMT và tổ chức giáo dục nâng cao ý
thức BVMT trong xã hội [45, tr.tr.40-72].
Cuốn “Một số vấn đề bảo vệ tài ngun và mơi trường trong bối cảnh
biến đổi khí hậu ở nước ta” của tác giả Nguyễn Danh Sơn [98], đã chỉ ra một số
nhận thức mới về BVMT như: tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, xã hội cacbon
thấp, ANMT, an ninh sinh thái; ... định nghĩa về vốn tự nhiên như: đất đai,
khơng khí, nước, các sinh vật sống trong sinh quyển cung cấp cho con người các
hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái cần thiết để tồn tại và khẳng định phát triển với
tính chất xanh không thế cho PTBV mà là một cách thức thực hiện PTBV trong
đó nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh tài nguyên và môi trường.
Theo tác giả Trần Văn Chử trong cuốn “Tài nguyên thiên nhiên môi
trường với tăng trưởng và phát triển bền vững ở Việt Nam” [26] nội dung cuốn
sách tập trung vào trình bày: Mối quan hệ mơi trường tự nhiên, con người và
quá trình sản xuất xã hội; Nêu một số điều kiện khai thác, sử dụng tài ngun
thiên nhiên, mơi trường với PTBV, đó là: sự nhận thức của nhà nước và cư dân,
hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước; Nguyên tắc kết hợp khai thác, sử
dụng tài nguyên, môi trường và PTBV như: tôn trọng và quan tâm đến cuộc
sống cộng đồng, cải thiện chất lượng cuộc sống, quản lý chặt chẽ nguồn tài

ngun khơng tái tạo.
Các cơng trình nghiên cứu về nội dung PTKTDL gắn với ĐBANMT
Theo Inskeep E, “Tourism planning: An Integrated and Sustaible
Development Approach” - Xây dựng kế hoạch du lịch: Cách tiếp cận dưới góc
độ phát triển tồn diện và bền vững [145] tác giả cho rằng, để PTDL bền vững
cần phải: Tối ưu hóa các lợi ích KT-XH; Bảo tồn mơi trường và tài ngun thiên
nhiên, văn hóa, xã hội và khai thác tốt các giá trị này; Bảo đảm chia sẻ lợi ích
kinh tế một cách cơng bằng cho cộng đồng dân cư và sự tham gia của cộng đồng
địa phương trong hoạt động du lịch.


16
Theo tác giả Bùi Thị Hải Yến trong cuốn “Quy hoạch du lịch” [143], đã
làm rõ các dẫn luận quy hoạch du lịch, như: lịch sử phát triển, khái niệm, nguyên
tắc, tiềm năng và các điều kiện quy hoạch. Thực trạng kinh doanh du lịch và cơ
sở khoa học của việc xây dựng bản đồ trong quy hoạch du lịch. Dự báo nhu cầu
PTDL và các định hướng chiến lược PTDL. Tổ chức thực hiện và đánh giá tác
động từ các dự án quy hoạch PTDL đến tài nguyên và môi trường. Kinh nghiệm
của thế giới về quy hoạch ở vùng biển, vùng núi, các vùng nông thôn và ven đơ.
Bên cạnh đó, tác giả cịn đưa ra những khuyến nghị về quy hoạch du lịch
vùng nông thôn và ven đô ở Việt Nam, khẳng định PTDL gắn với việc bảo vệ,
tôn tạo tài nguyên môi trường đảm bảo sự PTBV; cần có kế hoạch và cơ chế
quản lý phù hợp để khai thác có hiệu quả các lợi thế về vị trí, tiềm năng, đẩy
mạnh PTDL góp phần vào phát triển KT-XH mà vẫn bảo tồn được giá trị về tự
nhiên, văn hóa, xã hội.
Bàn về nguyên tắc PTBV đã được một số cơng trình đi sâu phân tích:
[51], [33] và cho rằng nguyên tắc đó là: Khai thác, sử dụng tài nguyên hạn chế
sử dụng tài nguyên và giảm thiểu chất thải ra môi trường; Phát triển gắn liền với
nỗ lực bảo đảm tính dạng sinh thái; PTDL phù hợp với quy hoạch chiến lược đề
ra; Đảm bảo việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương; Khuyến khích sự

tham gia của cộng đồng địa phương, thường xuyên tham khảo ý kiến cộng đồng
địa phương, nâng cao nhận thức cộng đồng về BVMT trong PTDL; Tăng cường
trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến quảng cáo.
Còn theo Hens L, Tourism and Environment - Du lịch và môi trường
[144]; Mowforth M and I.Munt, Tourism and Sustainability: New Tourism in the
Third World - Du lịch và bền vững: Du lịch mới trong thế giới thứ ba [150];
Inskeep E, National and Regional Tourism planning: Metholodogies and Case
Studies - Xây dựng kế hoạch quốc gia và khu vực: các phương pháp luận và
nghiên cứu tình huống [146]; cùng chỉ ra nguyên tắc PTDL bền vững thường
được dùng trong du lịch gồm: bền vững sinh thái, bền vững văn hóa, bền vững
kinh tế, có tính giáo dục, sự tham gia của cộng đồng.
Theo TS Đồn Mạnh Cương trong bài “Bảo vệ mơi trường dưới góc nhìn
sức chứa điểm đến du lịch - Bài học từ một số điểm đến du lịch” [27], tác giả đã
đề cập đến bốn nội dung: Đưa ra quan niệm về sức chứa của điểm đến: Sức chứa


17
điểm đến du lịch có thể được hiểu là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả nhất
nhu cầu tối đa của một lượng khách tham quan nhất định, trong giới hạn nguồn
tài nguyên và dịch vụ cho phép tại nơi khách đến; Sức chứa điểm đến du lịch và
mối quan hệ với môi trường sinh thái: Sức chứa tối đa là số lượng du khách cho
phép đến các khu du lịch, điểm đến du lịch trong một thời gian, khơng gian nhất
định, được bao nhiêu thì sẽ khơng ảnh hưởng đến cảnh quan, các cơ sở hạ tầng
du lịch không bị quá tải. Nếu mỗi địa điểm du lịch vượt qua sức chứa tối đa sẽ
dẫn đến các mâu thuẫn, xung đột, điển hình như hệ thống xử lý nước thải, rác
thải tại chỗ sẽ không xử lý kịp, ảnh hưởng đến mơi trường. Do đó, khi xây dựng
quy hoạch PTDL đều phải tính đến sức chứa tối đa trong các đề án, dự án quy
hoạch PTDL. Đặc biệt, vấn đề này càng có ý nghĩa hơn đối với những quốc gia
điểm đến có ngành du lịch ở giai đoạn đầu hay đang trên đà PTDL. Quản trị tốt
vấn đề sức chứa, sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các nhà quản lý điểm

đến và các cơ sở dịch vụ du lịch từ khâu định hình được hướng phát triển một
cách phù hợp ngay từ ban đầu, cho tới việc lập và triển khai hiệu quả quy hoạch,
xây dựng, vận hành, quảng bá xúc tiến...; từ đó phát huy được tối đa những lợi
ích kinh tế, xã hội do hoạt động du lịch mang lại, đồng thời tránh và giảm thiểu
các tác động tiêu cực trong sản xuất kinh doanh. Với nguyên lý cơ bản mang
tính định hướng trên, vận dụng tốt, chắc chắn sẽ là cơ sở quan trọng để góp phần
thúc đẩy ngành du lịch phát triển chất lượng, bền vững, có trách nhiệm; Chỉ ra
phát triển DLST - xu hướng tất yếu để BVM; Bài học từ một số điểm đến du lịch.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu thực tiễn về phát triển kinh tế du
lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường
1.1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển kinh tế du
lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường
Ở hướng nghiên cứu này, từ thực tiễn PTKTDL gắn với ĐBANMT của
một số nước trên thế giới và của Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra,
PTKTDL gắn với ĐBANMT cần phải PTDL xanh, tiết kiệm năng lượng, .... tiêu
biểu cho hướng nghiên cứu này, có thể kể đến như:
Khi nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore, tác giả Duy An trong bài viết
“Khách sạn xanh hơn để hút khách” [2] đã chỉ ra cách thức để làm cho khách


18
sạn xanh nhằm thu hút du khách như: Trồng cây trên sân thượng khách sạn; Sử
dụng công nghệ Cobiax (hệ thống hạn chế dùng bê tông và thay thế bằng nhựa
tái chế; Cải thiện nguồn thực phẩm.
Với Thái Lan, khi viết về kinh nghiệm PTDL xanh được tác giả Chiến
Thắng đưa ra trong bài “Nghiên cứu trao đổi về du lịch xanh tại Việt Nam hiện
nay - Bài học kinh nghiệm của Thái Lan và triển vọng trong tương lại” [108],
dựa trên 7 khái niệm: Tâm xanh; Vận chuyển xanh; Điểm đến xanh; Cộng đồng
xanh; Hoạt động xanh; Dịch vụ xanh; Phương pháp tiếp cận xanh vượt trội. Bên
cạnh đó, sự thành cơng trong việc xây dựng mơ hình du lịch cộng đồng cũng đã

được tác giả Chiến Thắng nêu ra trong bài viết “Kinh nghiệm quốc tế trong phát
triển du lịch cộng đồng hướng tới phát triển du lịch bền vững - Bài học cho
vùng tây Bắc mở rộng” [109]. Tác giả chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự thành cơng
của các mơ hình du lịch cộng đồng được dựa trên tiêu chí cùng sáng lập, phương
pháp tiếp cận có sự tham gia, và tiếp cận từ dưới lên.
Trong bài viết của tác giả Thế Anh “Huế: Tiếp nhận 20 thùng rác thơng
minh , biết nói lời “cảm ơn” [5]. Với tỉnh Thừa Thiên Huế, để PTKTDL gắn với
ĐBANMT, việc đầu tiên được địa phương phải nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cơ quan, người dân và doanh nghiệp trong công tác BVMT,
thông qua các phong trào “Ngày Chủ nhật xanh”, “Nói khơng với túi ni lơng và
sản phẩm nhựa sử dụng một lần”, “Nhặt một cọng rác bạn đã làm Huế sạch
hơn". Ứng dụng khoa học công nghệ làm sạch môi trường tại các điểm, khu du
lịch và PTDL theo hướng bền vững - tập trung bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa trong mối quan hệ hài hịa với quy hoạch phát triển đơ thị gắn với cảnh
quan thiên nhiên, các danh lam thắng cảnh.
Tác giả Đình Tăng trong bài viết “Quản lý bảo tồn và khai thác di sản câu
chuyện từ Hội An” [103], đã nêu ra một số giải pháp của tỉnh Quảng Nam áp
dụng nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến môi trường,
như: Phân loại và tái chế rác thải từ nguồn; Tăng cường công tác quản lý, bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản; Thực hiện đến 06 quy chế quy định từng lĩnh
vực liên quan đến hoạt động du lịch như: Quy chế về quản lý, tu bổ, sử dụng khu
phố cổ; Quy chế về trật tự kinh doanh; Quy chế về biển hiệu quảng cáo; Quy chế


19
về tham quan, du lịch; Quy chế về hoạt động du lịch trên sông; Quy chế về các
cơ chế phối hợp quản lý di sản. Bên cạnh đó, để góp phần vào thành công của
việc PTKTDL gắn với ĐBANMT là phải chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, được tác
giả Quang Định đề cập trong bài viết “Phát triển nóng và “chảy máu " di sản ở
Hội An" [39].

Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh đã được tác giả Thu Nguyên nêu trong
bài viết “Phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường” [79], để du lịch PTBV,
phát triển thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh, Quảng Ninh cần tăng cường hơn
nữa công tác bảo tồn di sản, BVMT sinh thái, coi trọng phát huy các giá trị văn
hoá bản địa để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc, tăng sự trải nghiệm cho
du khách, xây dựng quy hoạch hạ tầng giao thông đồng bộ, đẩy mạnh việc sử
dụng công nghệ thông tin, internet để quảng bá du lịch, giáo dục nâng cao nhận
thức của người dân và cộng đồng tham gia PTDL. PTDL vì chất lượng cuộc
sống, du lịch phải gìn giữ được cảnh quan mơi trường và mang lại lợi ích cho
người dân, cho cộng đồng là những biện pháp mạnh nhằm xây dựng Quảng
Ninh trở thành tỉnh du lịch.
1.1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về giải pháp phát triển kinh tế du
lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường
Liên quan đến hướng nghiên cứu này, có nhiều cơng trình trên cơ sở
nghiên cứu thực trạng PTKTDL trong bối cảnh, điều kiện khác nhau như: sự tác
động của chính sách, của BĐKH ... đã đưa ra hệ thống các giải pháp. Có thể kể
ra một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Cơng trình, Managing Tourism - Quản lý Du lịch của giáo sư S.
Medlik [152], nội dung cuốn sách tập trung nghiên cứu ba nội dung chính: Tương
lai- Phân tích- Kế hoạch, trong đó tác giả đã: Phân tích và trả lời các câu hỏi về
khả năng đóng góp của các nghiên cứu tương lai đối với chính sách về du lịch,
vịng đời của khu vực du lịch liệu có thể được kiểm sốt?; Cho rằng trong du lịch,
các chính sách đưa ra phải dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của kinh tế, chính trị, xã
hội và các đối tượng về khơng gian. Những đối tượng này phải được đặt vào một
khuôn khổ mang tính quyết định mà chức năng chính của nó là việc đạt được mục
tiêu với những ý nghĩa cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định; Việc thiết lập


×