Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) đổi mới phương pháp dạy học bài chiếu cầu hiền của ngô thì nhậm theo hướng tịch hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.08 KB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Quan điểm dạy học tích hợp là một định hướng trong đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, là một bước chuyển từ cách tiếp cận nội dung giáo dục sang
tiếp cận năng lực nhằm đào tạo con người có tri thức mới, năng động, sáng tạo
khi giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Hiện nay, xu hướng tích hợp
vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương
trình và SGK THPT. Chương trình THPT, mơn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ
GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để
tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp
giảng dạy.” (tr. 27) “Nguyên tắc tích hợp phải được qn triệt trong tồn bộ
mơn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của
quá trình dạy học; quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp
trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học
của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc
thêm, tham khảo.” (tr. 40). Đặc biệt, nghị quyết 29 - NQ/TWvề đổi mới căn bản
giáo dục và đào tạo cũng nêu rõ nội dung tích hợp liên mơn cũng nằm trong lộ
trình đổi mới tồn diện phương pháp dạy học và kiếm tra đánh giá ở các trường
phổ thông theo hướng phát triển năng lực người học.
Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây
dựng nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng
dạy môn Ngữ văn khơng đặt ra nữa. Bài tốn đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận
và phương pháp dạy học bộ mơn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy
họctích hợp vào dạy học Ngữ văn ở THPT nhằm hình thành và phát triển năng
lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
và đào tạo của bộ mơn. 
Do vậy, qua q trình giảng dạy, nghiên cứu học hỏi tôi đã chọn đề tài: Đổi
mới phương pháp dạy học bài “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm theo hướng
tích hợp. Từ đó, tơi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc giảng dạy văn
bản kịch nói chung và đoạn trích Hồn Trương Ba, dang hàng thịt nói riêng nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ


thơng hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng bài học “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm theo hướng tích
hợp nhằm tiếp cận nội dung kiến thức tốt hơn, phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh lớp 12, góp phần nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm
văn chương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Văn bản “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm theo hướng tích hợp bằng
việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: các tài liệu tham khảo, giáo trình
có nội dung liên quan.
1


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát, dự
giờ đồng nghiệp, tổng kết kinh nghiệm, tham khảo ý kiến chuyên gia…
- Nhóm phương pháp xử lý thơng tin: Thống kê, phân tích, tổng hợp…
1.5. Những điểm mới của SKKN
Lần này, người viết lựa chọn đề tài về một tác phẩm thuộc thể loại chiếu.
Hướng dẫn học sinh khai thác giá trị một văn bản trong chương trình Ngữ văn
THPT theo hướng tích hợp bằng việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trên thế giới, tư tưởng tích hợp giáo dục xuất hiện từ những năm 60 của
thế kỷ XX và đã được áp dụng rộng rãi. Ở Việt Nam, từ những năm 1987, việc
nghiên cứu xây dựng mơn tự nhiên-xã hội theo quan điểm tích hợp đã được thực
hiện và đã được thiết kế đưa vào dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình ở cấp
trung học chủ yếu thực hiện tích hợp ở mức thấp, chưa đặt nặng vấn đề dạy học
tích hợp ở trung học.

Thực tiễn trong những thập niên 90 cho đến nay, việc dạy học của chúng ta
vẫn mang tính “hàn lâm, lý thuyết”. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng việc truyền
thụ hệ thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình nhưng chưa
chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri
thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học trong chương
trình được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết; việc quản lý chất lượng
giáo dục chỉ tập trung vào “điều khiển đầu vào” là nội dung dạy học. Với quan
điểm như trên sẽ dần đến một hệ quả là tri thức của người học sẽ nhanh chóng bị
lạc hậu vì nội dung dạy học được quy định một cách chi tiết và cứng nhắc trong
chương trình. Đồng thời, việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra
khả năng tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả năng vận dụng tri thức
trong tình huống thực tiễn vì vậy sản phẩm đào tạo là những con người mang
tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động, sản phẩm của giáo dục
không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động.
Trong những năm gần đây, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại phát minh
ngày càng nhiều, kiến thức giữa các lĩnh vực có liên quan mật thiết với nhau.
Bên cạnh đó, do yêu cầu của xã hội, do nhu cầu thực tế đang đòi hỏi con người
phải giải quyết rất nhiều tình huống trong cuộc sống. Khi giải quyết các vấn đề
đó, kiến thức của một lĩnh vực chun mơn sẽ không thể thực hiện được mà cần
phải vận dụng kiến thức liên ngành một cách sáng tạo. Từ thực tế đó đã đặt ra
cho giáo dục và đào tạo một vấn đề là phải thay đổi quan điểm về giáo dục mà
dạy học tích hợp là một định hướng mang tính đột phát để đổi mới căn bản và
tồn diện về nội dung và phương pháp giáo dục.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, người nghiên cứu thấy rằng chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và đầy đủ về dạy học theo quan điểm
tích hợp ở cấp học trung học phổ thông. Với bài nghiên cứu này, chúng tôi mong
đưa đến một cách hiểu đúng và cụ thể về hoạt động dạy học theo quan điểm tích
hợp trong chương trình dạy học mơn Ngữ văn tại cấp học Trung học phổ thông.
2



2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay bộ môn Ngữ văn trong nhà trước nói chung và bài Chiếu cầu hiền
của Ngơ Thì Nhậm nói riêng cịn gặp nhiều khó khăn trong việc giảng dạy.
Thứ nhất, về nhu cầu thực tiễn, vài năm trở lại đây môn Ngữ văn trong nhà
trường không được học sinh xem là môn chủ đạo. Xuất phát từ nhu cầu về việc
làm và lựa chọn nghề nghiệp rất ít học sinh lựa chọn khối thi đại học có môn
văn. Môn văn là một trong ba môn thi bắt buộc trong kỳ thi THPT Quốc gia thì
tình trạng lười học, ngại học, học qua loa cho qua vẫn tồn tại.
Thứ hai, văn bản “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm đã được đưa vào
chương trình từ lâu nhưng thể loại chiếu không nhiều nên chưa được quan tâm
thỏa đáng. Việc tìm hiểu thể loại này theo hướng tích hợp còn nhiều lúng túng.
Thứ ba, nhiều giờ dạy, giáo viên chưa chú ý đến việc vận dụng phương pháp
dạy học tích hợp, dẫn đến việc khai thác bài dạy thiếu tính hệ thống, thiếu chiều
sâu, làm cho chất lượng bài dạy không đạt. Hay khi vận dụng phương pháp dạy
học tích hợp, giáo viên lại thiếu sự chuẩn bị kĩ càng, sử dụng tích hợp một cách
tùy hứng dẫn đến hiệu quả tích hợp khơng cao.
Do vậy, để giúp học sinh tìm hiểu văn bản vừa đảm bảo theo chuẩn kiến
thức kỹ năng, vừa phát huy năng lực học sinh là điều mà bản thân tôi cũng như
nhiều giáo viên trăn trở.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong đề tài này, chúng tôi xin đưa ra phương hướng dạy học cụ thể dựa
trên cơ sở tìm hiểu về dạy học tích hợp mơn Ngữ Văn và nghiên cứu văn bản
Chiếu cầu hiền – Ngơ Thì Nhậm trong chương trình Ngữ văn 11 (ban cơ bản).
2.3.1. Một số vấn đề chung về dạy học tích hợp
2.3.1.1 Quan điểm tích hợp trong dạy học nói chung
2.3.1.1.1. Khái niệm dạy học tích hợp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có

nghĩa là sự thống nhất, sự hịa hợp, sự kết hợp”. Theo từ điển Giáo dục học:
“Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập
của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy
học”. Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa “whole” hay “tồn bộ, tồn thể”, là sự phối hợp các hoạt động
khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự hài hòa
chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy. Trong dạy học các bộ mơn,
tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực
học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ trước tới nay) thành một
“môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn
có của mơn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD mơi trường, GD an
tồn giao thơng trong các mơn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã
hội… xây dựng mơn học tích hợp từ các mơn học truyền thống.
Dạy học tích hợp (hay dạy học theo chủ đề) là cách tiếp cận giảng dạy liên
ngành theo đó các nội dung giảng dạy được trình bày theo các đề tài hoặc chủ
đề. Mỗi đề tài hoặc chủ đề được trình bày thành nhiều bài học nhỏ để người học
3


có thể có thời gian hiểu rõ và phát triển các mối liên hệ với những gì mà người
học đã biết. Cách tiếp cận này tích hợp kiến thức từ nhiều ngành học và khuyến
khích người học tìm hiểu sâu về các chủ đề, tìm đọc tài liệu từ nhiều nguồn và
tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau.
Dạy học tích hợp khơng chỉ là sự kết hợp đơn thuần giữa lý thuyết và thực
hành trong một tiết/buổi dạy. Chúng ta cần phải hiểu rằng, phía sau quan điểm
đó là một triết lý giáo dục, nó phản ánh mục tiêu của việc học. Theo quan điểm
truyền thống thì mục tiêu của dạy học là cung cấp một hệ thống các kiến thức
hoặc kỹ năng riêng lẻ cho người học để sau đó người học muốn làm bất kì việc
gì với những kiến thức và kỹ năng đó. Cịn theo quan điểm dạy học tích hợp thì
mục tiêu của dạy học là hướng đến việc đào tạo ra những con người với những

năng lực cụ thể để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống một cách
sáng tạo. Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hồ nhập, sự kết
hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự
hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống
nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải
là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như
vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn
nhau, là tính liên kết và tính tồn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể tồn
vẹn, khơng cịn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính tồn vẹn dựa
trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các
thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng
chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với
nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Trong lí
luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở
những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau
hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở
các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc
các hợp phần của bộ mơn đó.
Trong Chương trình THPT, mơn Ngữ văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái
niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ
mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối
hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.” (tr.
27). Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT
chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập
trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri
thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hố nghệ thuật... mà cịn xuất phát từ
địi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín,
tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức
và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình
huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi,

đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân mơn”, biệt lập các bộ phận Văn
học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ
năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng
4


góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và
vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề
thuộc từng phân môn. Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là
cách thức để khắc phục, hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng
những kiến thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi HS khả năng
huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những
tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một
tình huống chưa từng gặp. Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ
năng trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi
môn học hay phân môn riêng rẽ khơng có được. Dạy học Ngữ văn theo định
hướng tích hợp vẫn theo đuổi quan điểm “lấy HS làm trung tâm”, tích cực hố
hoạt động học tập của HS trong mọi mặt, mọi khâu của quá trình dạy học; tìm
mọi cách phát huy năng lực tự học, năng lực sáng tạo của HS.
2.3.1.1.2. Các hình thức tích hợp
a. Tích hợp ngang
Tích hợp ngang là “tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập,
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau” xung quanh một chủ đề. Mơ
hình này địi hỏi nội dung học tập được thiết kế thành một chuỗi vấn đề, muốn giải
quyết phải huy động tổng hợp kiến thức kĩ năng của những mơn học khác nhau.
Trong mơn Ngữ văn, tích hợp ngang là kiểu tích hợp giữa ba phân mơn Văn
Tiếng Việt - Làm văn. Điều này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa ba
phân mơn một cách đồng bộ và sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ
nhau, bổ sung làm nổi bật cho nhau. Phân mơn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại
kiến thức cho phân môn khác. Những kiến thức của ba phân môn Văn - Tiếng

Việt - Làm văn tách rời độc lập nhưng khi vận dụng quan điểm tích hợp vào làm
cho ba phân mơn này có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau dựa vào nhau
và làm sáng tỏ cho nhau.
b. Tích hợp dọc
Tích hợp dọc là cách vận dụng quan điểm tích hợp trong cùng một phân
môn với nhau tức là giữa Văn bản với Văn bản, giữa tiếng Việt với tiếng Việt ,
giữa làm văn với làm văn trong cùng một khối (lớp) hoặc khác khối (lớp) theo
chiều dọc từ trên xuống. Thực chất, tích hợp theo chiều dọc là hệ thống hóa các
kiến thức có liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho học sinh có
thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức
được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu nội dung
bài học.
c. Tích hợp liên mơn
Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học Ngữ văn với
các kiến thức của các bộ môn Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội, các ngành
khoa học, nghệ thuật khác với các kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được
từ cuộc sống cộng đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân
cách cho học sinh.
2.3.1.1.3. Mục đích của dạy học tích hợp
5


Cùng với xu thế đổi mới về giáo dục tại Việt Nam, thì chương trình dạy
nghề trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp được thiết kế theo quan điểm kết hợp
môn học và mô đun kỹ năng hành nghề. Các mô đun được xây dựng theo quan
điểm hướng đến năng lực thực hiện. Mô đun là một đơn vị học tập có tính trọn
vẹn, tích hợp giữa lý thuyết và thực hành để người học sau khi học xong có năng
lực thực hiện được công việc cụ thể của nghề nghiệp. Như vậy dạy học các mô
đun thực chất là dạy học tích hợp nội dung để nhằm hướng đến mục đích sau:
- Gắn kết đào tạo với lao động.

- Học đi đôi với hành, chú trong năng lực hoạt động.
- Dạy học hướng đến hình thành các năng lực nghề nghiệp, đặc biệt năng
lực hoạt động nghề.
- Khuyến kích người học học một cách tồn diện hơn (Khơng chỉ là kiến
thức chun mơn mà cịn học năng lực từ ứng dụng các kiến thức đó).
- Nội dung dạy học có tính động hơn là dự trữ.
- Người học tích cực, chủ động, độc lập hơn...
2.3.1.1.4. Đặc điểm của dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp có các đặc điểm sau:
a. Lấy người học làm trung tâm
Dạy học lấy người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt
động học, họ phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của
chính mình, người học khơng chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong
bài giảng của giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn,
cụ thể và sinh động của nghề nghiệp rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần
khám phá học để hành, hành để học, tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân.
Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện
mình, phát triển năng lực làm việc nhóm,hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc
theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các
thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào gỉai quyết vấn đề.
Dạy học tích hợp biểu hiện cách tiếp cận lấy người học là trung tâm, đây là
xu hướng chung có nhiều ưu thế so với dạy học truyền thống.
b. Định hướng đầu ra
Đặc điểm cơ bản nhất, có ý nghĩa trung tâm của đào tạo nghề theo năng lực
thực hiện là định hướng chú ý vào kết quả đầu ra của quá trình đào tạo xem
người học có thể làm được cái gì vào những công việc thực tiễn để đạt tiêu
chuẩn đầu ra. Như vậy, người học để làm được cái gì đó địi hỏi có liên quan
đến chương trình, cịn để làm tốt cơng việc gì đó trong thực tiễn như mong đợi
thì liên quan đến việc đánh giá kết quả học tập. Người học đạt được những địi
hỏi đó cịn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người. Trong đào tạo, việc định

hướng kết quả đầu ra nhằm đảm bảo chất lượng trong quá trình đào tạo, cho
phép người sử dụng sản phẩm đào tạo tin tưởng và sử dụng trong một thời gian
dài, đồng thời cịn góp phần tạo niềm tin cho khách hàng.
Dạy học tích hợp chú ý đến kết quả học tập của người học để vận dụng vào
cơng việc tương lai nghề nghiệp sau này, địi hỏi quá trình học tập phải đảm bảo
chất lượng và hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ. Từ những kết quả đầu ra đi đến
6


xác định vai trị của người có trách nhiệm tạo ra kết quả đầu ra này, một vai trò
tập hợp các hành vi được mong đợi theo nhiệm vụ, công việc mà người đó sẽ
thực hiện thật sự. Do đó, đòi hỏi người dạy phải dạy được cả lý thuyết chun
mơn nghề nghiệp vừa phải hướng dẫn quy trình cơng nghệ, thao tác nghề nghiệp
chuẩn xác, phổ biến được kinh nghiệm, nêu được các dạng sai lầm, hư hỏng,
nguyên nhân và biện pháp khắc phục, biết cách tổ chức hướng dẫn luyện tập.
c. Dạy và học các năng lực thực hiện
Dạy học tích hợp do định hướng kết quả đầu ra nên phải xác định được các
năng lực mà người học cần nắm vững, sự nắm vững này được thể hiện ở các
công việc nghề nghiệp theo tiêu chuẩn đặt ra và đã được xác định trong việc
phân tích nghề khi xây dựng chương trình. Xu thế hiện nay của các chương trình
dạy nghề đều được xây dựng trên cơ sở tổ hợp các năng lực cần có của người
lao động trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Phương pháp được dùng phổ biến
để xây dựng chương trình là phương pháp phân tích nghề (DACUM) hoặc phân
tích chức năng của từng nghề cụ thể. Theo các phương pháp này, các chương
trình đào tạo nghề thường được kết cấu theo các mô đun năng lực thực hiện.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nội dung giảng dạy trong mô đun phải
được xây dựng theo hướng “tiếp cận theo kỹ năng”.
Dạy học tích hợp có thể hiểu là một hình thức dạy học kết hợp giữa dạy lý
thuyết và dạy thực hành, qua đó ở người học hình thành một năng lực nào đó
hay kỹ năng hành nghề nhằm đáp ứng được mục tiêu của mô đun. Dạy học phải

làm cho người học có các năng lực tương ứng với chương trình. Do đó, việc dạy
kiến thức lý thuyết khơng phải ở mức độ hàn lâm mà chỉ ở mức độ cần thiết
nhằm hỗ trợ cho sự phát triển các năng lực thực hành ở mỗi người học. Trong
dạy học tích hợp, lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học chuyên ngành về những
vấn đề cơ bản, về những quy luật chung của lĩnh vực chuyên ngành đó. Hơn
nữa, việc dạy lý thuyết thuần túy sẽ dẫn đến tình trạng lý thuyết suông, kiến thức
sách vở không mang lại lợi ích thực tiễn. Do đó, cần gắn lý thuyết với thực hành
trong quá trình dạy học. Thực hành là hình thức luyện tập để trau dồi kỹ năng,
kỹ xảo hoạt động giúp cho người học hiểu rõ và nắm vững kiến thức lý thuyết.
Đây là khâu cơ bản để thực hiện nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, lý luận
gắn với thực tiễn.
Trong dạy học tích hợp, người học được đặt vào những tình huống của đời
sống thực tế, họ phải trực tiếp quan sát, thảo luận, làm bài tập, giải quyết nhiệm
vụ đặt ra theo cách nghĩ của mình, tự lực tìm kiếm nhằm khám phá những điều
mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên
sắp xếp. Người học cần phải tiếp nhận đối tượng qua các phương tiện nghe,
nhìn,...và phân tích đối tượng nhằm làm bộc lộ và phát hiện ra các mối quan hệ
bản chất, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Từ đó, người học vừa nắm được kiến
thức vừa nắm được phương pháp thực hành. Như vậy, người dạy không chỉ đơn
thuần truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn các thao tác thực hành.
Hoạt động nào cũng cần có kiểm sốt, trong dạy học cũng vậy, người dạy
cũng cần có sự kiểm sốt, củng cố những nhận thức đúng, uốn nắn những nhận
thức chưa đúng. Việc kiểm sốt sự thực hiện qua thơng tin, tự đánh giá, điều
7


chỉnh. Việc đánh giá và xác định các năng lực phải theo các quan điểm là người
học phải thực hành được các công việc giống như người công nhân thực hiện
trong thực tế. Việc đánh giá riêng từng người khi họ hồn thành cơng việc, đánh
giá khơng phải là đem so sánh người học này với người học khác mà đánh giá

dựa trên tiêu chuẩn nghề.
2.3.1.2. Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn
Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp khơng chỉ chú trọng
nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm,
thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để
chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát
triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học
Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp địi
hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp,
chứ khơng phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung
riêng rẽ thuộc “nội bộ phân mơn”.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng
hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy
học tích hợp địi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học sinh
cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho học sinh cách thức hành
động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc
học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi
đó cũng là một hoạt động đọc hiểutrong suốt quá trình học tập ở nhà trường.
Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không
coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối
quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển
năng lực, tiềm lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri
thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri
thức hàn lâm thuần tuý đã đành, mà còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện
kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn
bản, vào những tình huống có ý nghĩa đối với học sinh, coi nhẹ kiến thức, nhất
là kiến thức phương pháp. 
Tóm lại, “Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán
triệt trong tồn bộ mơn học: từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt

trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động
học tập; tích hợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo khoa, tích hợp
trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập
của học sinh; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy học
sinh làm trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc tích cực hố hoạt động học tập của
học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngồi giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự
học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho HS thì các
em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vậy đào tạo mới
có kết quả.” (Chương trình THPT mơn Ngữ văn - Bộ GD&ĐT, năm 2002).
8


2.3.2. Dạy học bài “Chiếu cầu hiền” – Ngơ Thì Nhậm theo hướng tích
hợp
“Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm nghị luận chính trị - xã hội độc đáo, có ý
nghĩa chính trị, có sức lay động ý chí, chuyển tâm ý của hiền tài trong thiên hạ;
có đóng góp đáng kể trong quá trình thuyết phục, sử dụng người hiền tài góp sức
lực, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước thời vua Quang Trung. Sức thuyết
phục của nó đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời đại lịch sử, đến hơm nay, tác
phẩm vẫn cịn mang giá trị văn hố – giáo dục. Nó trở thành kim chỉ nam trong
nghệ thuật thu phục, sử dụng, dùng những biện pháp thiết thực để hiền tài sớm
chung tay gánh vác việc nước cùng các nhà lãnh đạo.
Nhận thức được điều đó, chúng tơi cho rằng, văn bản này có nhiều khả năng
tích hợp được kiến thức của các bộ môn Lịch sử, Giáo dục công dân, đồng thời
giáo viên có thể tích hợp giáo dục kĩ năng sống, nâng cao nhận thức chính trị của
học sinh, góp phần giúp học sinh nắm vững kiến thức, có năng lực vận dụng
những kiến thức của các môn học trên đề giải quyết các vấn đề đặt ra trong bài
học, gắn liền với thực tiễn, hòa nhập việc học với cách ứng xử, hồn thiện nhân
cách trong cuộc sống.
Chúng tơi xin đề xuất một số hoạt động dạy học chúng tơi đã áp dụng trong

q trình dạy học văn bản này như sau:
2.3.2.1. Tích hợp ngang
a. Tích hợp với phân mơn Làm văn
Vì nghệ thuật đặc sắc nhất của các văn bản nghị luận chính là hệ thống luận
điểm, luận cứ rõ ràng, mạch lạc và cách lập luận chặt chẽ nên khi dạy đọc - hiểu
các văn bản nghị luận trung đại, tôi đặc biệt chú trọng tới việc tích hợp với phân
mơn Làm văn. Từ đó nhằm củng cố, rèn luyện và nâng cao khả năng lập luận
trong văn nghị luận của học sinh.
Với văn bản này, chúng tơi thiết kế tích hợp với phân mơn Làm văn thể
hiện ở bước hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết văn bản.
Giáo viên đặt một số câu hỏi:
(1) Luận đề của bài chiếu này là gì? Tác giả đã triển khai luận đề trên bằng
cách nào? Cách lập luận ra sao?
(2) Em học được điều gì bổ ích khi áp dụng viết phần mở đầu cho nghị luận
của mình?
(3) Khi Quang Trung ra Bắc diệt Trịnh, sĩ phu Bắc Hà có cách ứng xử như
thế nào trong đối với ông và triều đại mới do ông đứng đầu?
(4) Nhận xét của em về cách diễn đạt của tác giả? Cách đặt câu hỏi nhằm
mục đích gì?
(5) Trước những cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà, em thấy vua Quang Trung
có những băn khoăn, trăn trở gì?
(6) Em hãy nhận xét về thái độ cầu hiền của vua Quang Trung
Qua việc sử dụng các câu hỏi trên khi dạy đọc hiểu văn bản “Chiếu cầu
hiền”, ta thấy:
Đặt câu hỏi tích hợp ở cả bốn câu: 1,2,3,4 khơng chỉ giúp cho học sinh đọc hiểu được nội dung văn bản mà còn giúp các em thấy được nghệ thuật lập luận
9


chặt chẽ, logic của tác giả Ngơ Thì Nhậm. HS vận dụng kiến thức, kĩ năng bài
“Tìm ý và lập dàn ý cho bài văn nghị luận, Lập luận trong văn nghị luận, Các thao

tác lập luận trong văn nghị luận, Luyện tập kết hợp các thao tác lập luận”... đã học
để trình bày, qua đó các em sẽ học tập được cách lập luận trong văn nghị luận.
Đặt câu hỏi tích hợp ở hai câu: 5, 6, đã tích hợp được với bài: “Yếu tố biểu
cảm, tự sự trong văn nghị luận” mà các em đã được học ở THCS. Việc tích hợp
như vậy sẽ giúp các em hiểu được: Kết hợp nghị luận với biểu cảm, tự sự, làm
bài chiếu có tính thuyết phục cao, tác động sâu sắc đến người đọc.
Cuối cùng việc tích hợp với phân mơn Làm văn cịn được thể hiện ở phần
củng cố bài học. Sau khi dạy xong các bài văn nghị luận trung đại, chúng tôi cho
học sinh vẽ sơ đồ hệ thống lập luận hoặc viết lại dàn ý của bài Chiếu.
b. Tích hợp với phân mơn Tiếng Việt
Một trong những đặc điểm của văn học trung đại nói chung và văn nghị
luận trung đại nói riêng là dùng cách nói uyển ngữ, cách nói hình ảnh với nhiều
điển tích, điển cố. Vì vậy khi dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại, giáo viên
cần phải giúp học sinh thấy rõ được điều này.
- Dạy bài “Chiếu cầu hiền” ta có thể tích hợp với bài Tiếng Việt học trước
đó: “Thực hành về thành ngữ, điển cố”.
VD: Trong đoạn đầu của văn bản “Chiếu cầu hiền” tác giả Ngô Thì Nhậm
đã sử dụng mấy điển tích, điển cố? Đó là những điển tích, điển cố nào? Ý nghĩa
của việc sử dụng đó?
Hỏi như vậy chắc chắn học sinh sẽ phát hiện và cảm nhận được: Chỉ trong
một đoạn văn ngắn, tác giả đó sử dụng 9 điển tích, điển cố được rút ra từ sách vở
cổ xưa, hàm ý chỉ những người ẩn dật uổng phí tài năng, hoặc những người làm
quan nhưng còn nghi ngại, kiêng dè, giữ mình mà khơng dám nói thẳng.
- Tích hợp với Tiếng Việt để giúp học sinh thấy được việc sử dụng từ ngữ
chính xác, giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của văn bản nghị luận trung đại.
VD: Phân tích ý nghĩa nhan đề “Chiếu cầu hiền”, cần làm nổi bật tác dụng
biểu đạt, biểu cảm của từ “cầu”: Tại sao tác giả lại sử dụng từ “cầu” chứ không
phải là từ “mời” hoặc “gọi”?
Câu hỏi này giúp học sinh thấy được giá trị biểu đạt của từ ngữ: “Cầu” thể
hiện sự mong mỏi đồng thời là thái độ trân trọng và đề cao đối tượng mà vua

Quang Trung muốn hướng tới, cịn “mời” hay “gọi” mang sắc thái tình cảm bình
thường.
Hơn nữa, tác phẩm cịn sử dụng đắc địa hai câu hỏi tu từ vừa thể hiện sự
thành tâm, khiêm nhường, vừa hướng tới các sĩ phu Bắc Hà để họ tự nhận ra
những cách ứng xử chưa hợp lý của mình đồng thời cũng chỉ ra con đường để
thay đổi cho họ là đem tài năng, đức độ ra phục vụ triều đại mới. Qua tác phẩm,
học sinh cũng được củng cố thêm tri thức về câu hỏi tu từ và rèn luyện được kĩ
năng khái quát hiệu quả của biện pháp tu từ đó.
Mặt khác, tác phẩm “Chiếu cầu hiền” sử dụng rất nhiều từ Hán Việt. Giáo
viên có thể tích hợp với tiết dạy tiếng Việt bài: “Khái quát lịch sử tiếng Việt” để
học sinh có thể nắm vững được lịch sử tiếng Việt trong thời kì sau Bắc thuộc,
độc lập tự chủ. Học sinh có thể khám phá hệ thống chữ viết thời vua Quang
10


Trung, chọn lọc được các từ Hán Việt, phân tích được từ đó nghĩa là gì, phân
tích được cách vay mượn từ chính xác nhất ( Vay mượn trọn vẹn, rút gọn hay
đổi yếu tố, thu hẹp nghĩa hay mở rộng nghĩa... ).
Khơng chỉ tích hợp được với bài “Khái quát lịch sử Tiếng Việt”, các từ
Hán Việt trong tác phẩm “Chiếu cầu hiền” cịn có thể tích hợp với bài: “Những
yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt”. Thực trạng đáng báo động của xã hội hiện nay
đó là giới trẻ có vốn từ vựng yếu kém, bí từ, thậm chí dùng từ khơng đúng với
những u cầu về ngữ âm, chữ viết, từ ngữ, ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ. Có
trường hợp khơng biết dùng từ “Nhậm chức” đúng hay “nhận chức” đúng, “ xán
lạn hay sáng lạng ?”; có trường hợp sử dụng từ Hán Việt khơng đúng theo
phong cách ngơn ngữ.
Từ đó, khi tích hợp “Chiếu cầu hiền” với những bài học Tiếng Việt trên
phần nào bồi dưỡng cho các em học sinh kiến thức lịch sử tiếng dân tộc, lòng
yêu mến, biết cách sử dụng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
c. Tích hợp kiến thức Văn học

- Với văn bản này, giáo viên có thể tích hợp theo cụm thể loại giúp học
sinh hình thành được tri thức về thể loại và vận dụng được những tri thức đọc
hiểu về thể loại đó.
VD: Dạy bài “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm, nên yêu cầu học sinh về
nhà xem trước lại bài : “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đã được học ở Lớp 8.
Khi dạy ở trên lớp, ngay từ phần khởi động đốn ơ chữ, ta có thể đặt câu hỏi:
Câu 1: Tên một tác phẩm chiếu của Lý Công Uẩn ?
Câu 2: Qua bài “Chiếu dời đô” đã được học ở Lớp 8, em hiểu như thế nào
là thể chiếu?
- Giáo viên cũng có thể giúp học sinh vận dụng tri thức đã học vào đọc –
hiểu văn bản:
VD: Người hiền (còn gọi hiền tài) là người như thế nào? Nêu vai trị và vị
trí của người hiền đối với một quốc gia, dân tộc?
HS nhắc lại vai trò của người hiền tài đã học ở lớp 10: “Hiền tài là ngun
khí của quốc gia, ngun khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí
suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp” (Thân Nhân Trung).
- Chúng ta cũng có thể tích hợp kiến thức văn học trong hoạt động vận
dụng, liên hệ thực tiễn của học sinh.
VD: Viết bài làm văn nghị luận xã hội: Sau khi học “Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia” – Thân Nhân Trung và “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm theo
em, hiền tài có vị trí, vai trị quan trọng như thế nào trong công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay? Ngay từ bây giờ và mai sau bản thân em sẽ làm những
gì để thực sự là người “tận tụy, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng
sự nhân dân”?
d. Tích hợp với kiến thức lí luận văn học
Thơng qua việc bình giảng, phân tích nội dung tư tưởng tác phẩm “Chiếu
cầu hiền”, giáo viên có thể linh hoạt lồng ghép để chứng minh cho học sinh
những kiến thức lý luận về chức năng, đặc trưng của văn học với đời sống chẳng
hạn: “Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật.
11



Đối tượng của văn học là con người – con người trong học tập, lao động, chiến
đấu, con người trong tình yêu và những mối quan hệ xã hội khác, con người
trong không gian thời gian với thiên nhiên, vũ trụ. Nói văn học là nhân học,
đúng thế. Văn học khơng chỉ phản ánh đời sống con người mà cịn phải nhận
thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát vọng, những
tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự đa dạng, phong
phú. Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học thể hiện
được sự khám phá và sáng tạo, có những kiến giải hay và đẹp về con người và
đời sống con người.”
Hay là vấn đề tư tưởng của nhà văn với một tác phẩm nghệ thuật: Văn học
là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm và
lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn,
mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ đều thể hiện
lịng yêu, sự ghét của tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái
ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới sự hướng thiện, cái cao cả, cái đẹp của thiên
nhiên và con người.”.
2.3.2.2. Tích hợp dọc
Như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận, tích hợp theo chiều dọc là hệ thống
hóa các kiến thức có liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho
học sinh có thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc,
các kiến thức được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ
lâu nội dung bài học. Khi chúng tôi thực hiện tiết dạy “Chiếu cầu hiền”, chúng
tơi có thể kết nối kiến thức về vai trị và tầm quan trọng của người hiền tài với
sự hưng vượng của quốc gia thông qua hai bài học “Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia” ở lớp 10 và “Chiếu cầu hiền” ở lớp 11.
Về phân môn Tiếng Việt, chúng tơi có thể kết nối các kiến thức thực hành về
từ Hán Việt học sinh học ở cấp 2, ẩn dụ học sinh được học ở lớp 10, “Khái quát
về lịch sử Tiếng Việt” lớp 10, “Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt” lớp 10.

Lên đến lớp 11, nếu lấy văn bản “Chiếu cầu hiền” làm ví dụ minh họa, học sinh
có thể nhận biết được “Đặc điểm loại hình Tiếng Việt” và phong cách ngơn ngữ
của tác phẩm (Phong cách ngơn ngữ chính luận ). Chương trình văn lớp 12 sẽ có
một bài “Tổng kết phần Tiếng Việt: lịch sử, đặc điểm loại hình và các phong cách
ngôn ngữ”, học sinh sẽ được ôn tập tổng hợp theo hệ thống như trên, giúp học
sinh ghi nhớ tốt hơn và kết nối kiến thức Tiếng Việt THPT theo một hệ thống.
Nói tóm lại, giả sử gọi chương trình Ngữ Văn là một đường tròn đồng tâm,
lấy tác phẩm “Chiếu cầu hiền” làm tâm thì sẽ có sự kết nối kiến thức xuyên suốt
chương trình Ngữ Văn THPT, giúp hệ thống kiến thức được xâu chuỗi, học sinh
khắc sâu, nhớ lâu nội dung bài học.
2.3.2.3. Tích hợp liên mơn
a. Tích hợp kiến thức lịch sử
Là một trong những tác phẩm thuộc thời kì văn học trung đại, lại liên quan
đến nhiều sự kiện lịch sử thời đại, và là tác phẩm mới được đưa vào chương trình
cải cách sách giáo khoa mấy năm gần đây, "Chiếu Cầu hiền" của Ngơ Thì Nhậm
12


là một trong nhiều tác phẩm hay đòi hỏi người đọc - hiểu cần phải có lượng kiến
thức về lịch sử, xã hội sâu rộng mới có thể thẩm thấu giá trị của văn bản.
Chúng tôi mạnh dạn đề xuất dạy học văn bản này tích hợp với kiến thức
lịch sử: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước bảo vệ Tổ quốc
cuối thế kỉ XVIII” (Bài 23 – “Lịch sử lớp 10”). Việc hiểu kiến thức lịch sử là rất
quan trọng, nó là một cánh cửa khám phá nội dung văn bản. Cụ thể:
Trước tiết học GV tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm ngồi giờ học (4
nhóm) với đề tài “Vai trị của vua Quang Trung trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
và triều đại Tây Sơn”, thời gian chuẩn bị cho đề tài là 1 tuần. Đến tiết học văn
bản “Chiếu cầu hiền”, 2 nhóm sẽ cử đại diện lên thuyết trình ngắn gọn về đề tài,
các nhóm cịn lại sẽ nhận xét, bổ sung.
Mục đích của việc thuyết trình là tăng tính tích cực, chủ động của học sinh;

giúp học sinh hiểu được tư tưởng, tài năng và tấm lòng của một vị vua sáng.
Trong quá trình tìm tư liệu thì học sinh sẽ nắm được hoàn cảnh ra đời của
“Chiếu cầu hiền” để hiểu được vì sao vua Quang Trung lại quan tâm tới vấn đề
cầu hiền, tầm quan trọng và ý nghĩa của việc cầu hiền tại thời điểm bàn luận.
Học sinh có thể lí giải hiện tượng đặc biệt của lịch sử là Ngơ Thì Nhậm và dịng
họ Ngơ gia văn phái.
Ngoài ra nắm chắc kiến thức lịch sử, học sinh có điều kiện hiểu sâu sắc hơn
nội dung liên quan trong văn bản đó là tâm lý sĩ phu Bắc Hà (cho rằng Nguyễn Huệ
lại xuất thân từ tầng lớp bình dân, coi thường Nguyễn Huệ ít hiểu biết về lễ nghi
cũng như chữ thánh hiền); tác giả đặt câu hỏi thế nước đơi: Hay trẫm ít đức khơng
đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng
học sinh sẽ hiểu ngay tình hình lịch sử thực tế lúc đó khơng phải như thế.
Sau khi học sinh thuyết trình, giáo viên chốt lại vấn đề thật ngắn gọn. Để
tạo hứng thú đồng thời củng cố, chốt lại kiến thức lịch sử, giáo viên cho học
sinh xem đoạn video về Quang Trung – Nguyễn Huệ.
b. Tích hợp kiến thức giáo dục cơng dân
Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã từng căn dặn thế hệ thanh niên học sinh: “Non sơng
Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em”. Vậy học sinh là những công dân
trẻ tuổi của đất nước cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống yêu
nước của dân tộc góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước? Giáo viên
hồn tồn có thể tích hợp nội dung này vào trong bài học Chiếu cầu hiền. Như
vậy, chúng ta hồn tồn có thể lồng ghép được một phần bài học giáo dục công
dân vào dạy học tác phẩm này đó là bài 14: “Cơng dân với cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” (Lớp 10). Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh
thảo luận nhóm sau khi đã học sinh bài học: Qua bài vừa học, em rút ra bài học
gì cho HS và cho bản thân trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay? Thanh
niên HS cần làm gì để thực hiện trách nhiệm xây dựng Tổ quốc?

Với câu hỏi như thế, ít nhiều học sinh cũng sẽ trả lời được một số nội dung
cơ bản như tích cực học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức… Giáo viên có thể gợi
13


ý thêm để cuối cùng học sinh rút ra được những bài học cho học sinh thanh niên
trong sự nghiệp xây dựng đất nước hơm nay.
c. Tích hợp với kĩ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh theo
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết - Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ
thơng mới (GDPT) đã cơng bố chương trình giáo dục phổ thông mới trong cuộc
họp báo ngày 27/12/2018 như sau: “Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, thực hiện
yêu cầu của các Nghị quyết về đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục, chương trình
thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số môn học
trong chương trình hiện hành để tạo thành mơn học tích hợp, thực hiện tinh giản,
tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lí số mơn học; đồng thời thiết kế
một số môn học theo các chủ đề, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những chủ
đề phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân. Trong giai đoạn giáo dục định
hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc,
học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên đề học tập phù hợp với sở
thích, năng lực và định hướng nghề nghiệp của mình. Trong Chương trình
GDPT hiện hành, sự kết nối giữa chương trình các cấp học trong một mơn học
và giữa chương trình các mơn học chưa chặt chẽ; một số nội dung giáo dục bị
trùng lặp, chồng chéo hoặc chưa thật sự cần thiết đối với học sinh phổ thơng.
Chương trình GDPT mới chú ý hơn đến tính kết nối giữa chương trình của
các lớp học, cấp học trong từng mơn học và giữa chương trình của các môn học
trong từng lớp học, cấp học. Việc xây dựng chương trình tổng thể, lần đầu tiên
được thực hiện tại Việt Nam, đặt cơ sở cho sự kết nối này”.
Như vậy, theo tinh thần của chương trình GDPT mới, chúng tôi thấy rằng
việc khơi gợi ở học sinh đam mê môn học, bồi dưỡng nhân cách và thắp lên ở

học sinh lý tưởng, hoài bão, ước mơ là vấn đề vô cùng cấp bách ở thời đại công
nghệ 4.0. Chúng tôi thiết nghĩ rằng, sau khi học sinh thấy rõ vai trò trụ cột của
người hiền tài với quốc gia dân tộc cũng như những chính sách “chiêu hiền đãi
sĩ” của Đảng và Nhà nước, học sinh sẽ có động lực học tập, rèn luyện đạo đức,
muốn trở thành một ai đó trong cuộc đời, sống cuộc đời “nguyên bản” do chính
mình xây dựng. Khi các em học sinh có đam mê, nếu có bản lĩnh và ý chí, các
em sẽ tự biết cách xây dựng khung kế hoạch cho cuộc đời mình, biết nắm mọi
cơ hội để “đi tắt đón đầu thành cơng”, trở thành một cơng dân có ích cho xã hội.
Đây mới chính là thành cơng nhất trong mọi thành công của ngành nghề giáo
dục cao q chúng ta!
d. Tích hợp với bộ mơn ngoại ngữ
Cũng theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thơng mới, ngồi các
mơn học bắt buộc, học sinh cịn học thêm các môn tự chọn như: Tiếng dân tộc
thiểu số, ngoại ngữ 2. Văn bản “Chiếu cần hiền” nguyên tác được viết bằng chữ
Hán. Trong quá trình dạy, hầu hết giáo viên đều trình chiếu phần nguyên tác cho
học sinh xem. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để học sinh có thể
tiếp xúc và tim hiểu về ngôn ngữ tiếng Trung.
Giáo viên môn Văn cấp trung học phổ thông trong bốn năm rèn luyện tại
trường đại học sư phạm được học bộ mơn “Hán Nơm”, lại có trường đại học sư
14


phạm ngồi dạy ngoại ngữ Tiếng Anh cịn dạy ngoại ngữ Tiếng Trung hiện đại.
Đây chính là một lợi thế không nhỏ với giáo viên bộ môn Văn. Giáo viên có thể
viết thử cho các em xem vài chữ trong bài Chiếu, giới thiệu các nét, các bộ chữ,
ý nghĩa của các chữ tượng hình trong khả năng của minh. Chúng tôi đã từng áp
dụng thử ở những lớp được phân công giảng dạy. Kết quả là học sinh rất tị mị
và thích thú với những chữ và ý nghĩa các chữ Hán chúng tơi lấy ví dụ.
Hiện nay, thời đại mở cửa, con người biết càng nhiều thứ tiếng càng năng
động và thành quả thu được tỉ lệ thuận với cố gắng của mỗi người. Trung Quốc

và Việt Nam là hai nước láng giềng, hoạt động ngoại giao, giao lưu nông
nghiệp, công thương nghiệp được đẩy mạnh. Thế hệ trẻ tương lai thơng thạo
nhiều thứ tiếng nước ngồi là một lợi thế cho bản thân và cho xã hội. Các em sẽ
tìm được nhiều cơng việc phù hợp với đam mê và năng lực của mình như : kinh
doanh buôn bán, phiên dịch viên, dịch thuật, diễn viên, ca sĩ…vv
e. Tích hợp kĩ năng sống
Hiện nay, nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được nhiều quốc gia đưa vào
dạy cho học sinh ở các trường phổ thông dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở
Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ vừa có đức vừa
có tài, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học,
giáo dục phổ thông đã và đang đổi mới mạnh mẽ địi hỏi người giáo viên khơng
chỉ “dạy chữ” mà cịn phải “dạy người”. Cho nên trong quá trình giảng dạy
người giáo viên phải biết lồng ghép về giáo dục kỹ năng sống cho các em học
sinh, việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào quá trình giảng dạy là rất quan
trọng và cần thiết.
Với văn bản “Chiếu cầu hiền”, nội dung trọng tâm và cũng là một trong
những thành cơng của văn bản chính là sức thuyết phục của nó. Văn bản có sức
thuyết phục thấu tình đạt lí, đó là nghệ thuật viết chiếu với hệ thống lập luận
chặt chẽ, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh độc đáo và đặc biệt là thái độ cầu hiền
chân thành tha thiết, rất đỗi khiêm nhường của vua Quang Trung. Bởi vậy, khi
dạy học văn bản này, giáo viên hoàn tồn có thể tích hợp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh: kĩ năng thuyết phục trong cuộc sống.
Sau bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh củng cố, cho học sinh chỉ ra sức
thuyết phục của bài chiếu, hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ hệ thống lập luận của
văn bản. Từ đây, giáo viên đặt câu hỏi với học sinh “Bài học mà chúng ta rút ra
được từ nghệ thuật ứng xử của vua Quang Trung và Ngô Thì Nhậm là gì?”. Giáo
viên sẽ giúp các em nhận ra bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục
chí, lấy tâm để thuyết phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân,
đây cũng là nghệ thuật ứng xử của con người trong mọi thời đại. Bạo lực chỉ là
sức mạnh của kẻ yếu!

g. Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đề cao vai trị của nhân tài, tích cực tìm kiếm và trọng dụng nhân tài là một
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nội dung bài chiếu một lần nữa
khẳng định, nhấn mạnh vai trò, sứ mệnh của người hiền tài; đồng thời đưa ra
đường lối cầu hiền của vua Quang Trung. Không phải đến ngày nay chúng ta
mới lại quan tâm tới việc bồi dưỡng và trọng đãi người tài mà đã từ lâu Đảng và
15


Nhà nước ta đã có nhiều chính sách quan tâm, đãi ngộ. Một trong những người
quan tâm và ý thức được vai trò quan trọng của nhân tài đối với đất nước từ rất
sớm là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác ln ln coi trọng, có ý thức tìm kiếm,
trọng dụng người tài “kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì
nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Đồng thời, Người cũng
khẳng định rằng một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một
khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây
dựng và kiến thiết.
Với hướng suy nghĩ như trên, chúng tôi cho rằng, dạy học bài chiếu này là
một cơ hội để học sinh ý thức hơn về vai trò của người hiền tài trong xã hội hiện
nay; đồng thời giáo viên có thể giới thiệu về một vài chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước trong việc trọng dụng và tìm kiếm người hiền tài. Bên cạnh
đó, bài học tích hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức của học sinh mà không hề khô
cứng, gượng ép bằng cách giáo viên kể cho học sinh nghe câu chuyện về tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm và trọng dụng người hiền tài –
câu chuyện Bác Hồ và Giáo sư - Viện sĩ Tôn Thất Tùng chẳng hạn.
Giáo viên nêu vấn đề: Từ nội dung bài “Chiếu cầu hiền”, em có suy nghĩ gì
về vai trò của nhân tài trong xã hội hiện nay? Đảng và Nhà nước ta đã và đang
có những chính sách gì để trọng dụng nhân tài?
Giáo viên đưa ra câu hỏi tình huống để học sinh tự do trả lời, từ đó dẫn dắt

tới chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay trong việc tìm kiếm,
trọng dụng hiền tài mà không hề gượng ép: Hiện nay, đất nước ta đang có tình
trạng “chảy máu chất xám”, có rất nhiều nhân tài sau khi đi du học ở nước ngoài
đã sinh sống, làm việc và cống hiến ở nước ngồi. Nếu em là người quản lí một
đất nước tốt, em sẽ có những cách tiến cử và đãi ngộ người hiền như thế nào?
h. Ứng dụng công nghệ thông tin trong môn học
Công nghệ thông tin không chỉ giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu
quả hơn mà cịn tham gia tích cực, trực tiếp trong việc tạo ra những con người
năng lực hơn. Loài người thuở xưa đã dùng que gậy, rồi dùng đồ đá, đồ đồng,
rồi tiến lên dùng đồ sắt; từ công cụ thủ công tới cơ giới, cơ giới tự động, rồi điện
tử, rồi vi tính. Mỗi bước tiến như vậy về công cụ lao động kéo theo những bước
phát triển nhảy vọt của các nền văn minh. Công nghệ thông tin ra đời, phát triển
là sự tích hợp đồng thời các tiến bộ về công nghệ và về tổ chức thơng tin. Đó là
bước tiến vĩ đại của nhân loại. Nhưng đồng thời, cịn vĩ đại hơn nữa, là cơng
nghệ thông tin tham gia trực tiếp việc tạo ra những con người năng lực hơn theo
một phương thức hiện đại. Có thể nói rằng, cơng nghệ thơng tin vừa là kỹ thuật,
kinh tế, vừa là văn hóa.
Cơng nghệ thơng tin thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp mọi người tiếp
cận rất nhiều thông tin, thông tin nhiều chiều, rất nhanh, rút ngắn mọi khoảng
cách, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm “chưa từng có” về thời gian; từ đó, con
người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức, trí tuệ và tư duy. Do thơng
tin nhiều chiều nên hoạt động giáo dục tất yếu phải dân chủ hơn, hạn chế áp đặt
16


một chiều, tự do tư tưởng tốt hơn đối với người học, nhờ vậy, tư duy độc lập
phát triển, dẫn đến năng lực phát triển.
Với phương pháp dạy học theo dự án, giáo viên có thể giao các cơng việc
tìm hiểu bài trước khi đến lớp, thuyết trình nhóm cũng như khả năng thao tác
trên Word, Powerpoint, tìm kiếm thơng tin trên Internet của học sinh nhuần

nhuyễn, thành thục, năng động hơn và mở mang vốn kiến thức của bản thân về
thế giới bên ngoài. Đây là một trong những lợi thế ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường của các em học sinh, tránh được trường hợp yếu kém về kiến thức xã hội
hay năng lực tin học hành chính – văn phịng sau khi các em đi làm tại các cơ
quan, công ty.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau khi tiến hành dạy học theo hai cách khác nhau ở hai lớp: 11B2 (theo
phương pháp dạy học cũ) và 11B5 (theo phương pháp dạy học tích hợp) học
sinh có sự tương đồng về lứa tuổi, trình độ, tâm lí, đề kiểm tra phù hợp và bám
sát nội dung, tơi nhận thấy kết quả có sự khác biệt như sau:
Lớp
Lớp 11B2
Lớp 11B5
(Theo phương pháp dạy cũ)
(Theo phương pháp dạy tích hợp)
Số HS
42
43
Điểm
Khá giỏi Trung bình Yếu Khá giỏi Trung bình Yếu kém
kém
Số lượng
14
18
10
19
20
2
%

33%
43%
24%
44%
47%
9%
Việc dạy học đạt được kết quả khả quan. Học sinh thu nhận được một
lượng kiến thức lớn các môn để làm phong phú kiến thức bài “Chiếu cầu hiền”
(Ngơ Thì Nhậm). Học sinh hiểu sâu sắc hơn môn Ngữ văn, nhận thức được
những vấn đề lịch sử trong văn học. Qua đó, học sinh cịn được cập nhật tình
hình thời sự, tăng thêm hiểu biết hiểu biết về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mở rộng tư duy và cách ứng xử
đúng đắn với những sự việc trong xã hội.
Kết quả học tập đã chứng minh q trình dạy học liên mơn tích hợp là một
phương pháp rất hiệu quả để tác động đến q trình nhận thức tích cực của học
sinh. Học theo hướng tích hợp giúp các em vừa dễ dàng tiếp cận với kiến thức
một tác phẩm chính luận trung đại, vừa hình thành tư duy rộng lớn hơn, trau dồi
năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Từ đó, học sinh có thể học kiến thức
các mơn xã hội được liên hệ chặt chẽ với nhau mà không bó hẹp trong phạm vi
mơn học, giúp các em có thể vững vàng trên con đường học tập cũng như trong
thực tế cuộc sống.
Nhìn chung, sáng kiến kinh nghiệm đã được tiến hành, thử nghiệm đúng
quy trình tại nơi tơi cơng tác, có sự quan tâm góp ý của đồng nghiệp. Do đó,
bước đầu tơi đánh giá là thành cơng. Một là tạo ra được phong trào thi đua vận
dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề, tích hợp được nội dung kiến
thức. Hai là tạo ra khơng khí sơi nổi trong sinh hoạt tổ nhóm chun mơn, góp
phần tự bồi dưỡng cho mỗi giáo viên bộ mơn. Ba là học sinh tích cực, chủ động
17



bước đầu sáng tạo và có thói quen họctập chủ động. Bốn là sáng kiến kinh
nghiệm tạo cái nhìn mới, cách nghĩ mới trong việc làm thế nào để nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung, giúp học sinh yêu thích và hứng thú với mơn học nói
riêng. Đơn giản khóa được khâu thiết kế bài giảng, chủ động trong chọn phương
pháp, phương tiện dạy học. Và quan trọng nhất là làm cho các tác phẩm văn học
trung đại vốn triết lí, khó hiểu trở lên gần gũi, hấp dẫn hơn với cả người dạy và
người học.
Sáng kiến kinh nghiệm áp dụng tốt cho các văn bản văn học trung đại và
với các tác phẩm văn học thời kì khác cần bổ sung tri thức theo tiến trình lịch sử,
sự thay đổi hệ tư tưởng, thẩm mĩ của xã hội. SKKN áp dụng cho phần Tiếng
Việt, phần Làm văn và các môn học khác muốn lấy dẫn chứng để làm phong
phú hơn cho bài học.
Nó rất dễ dàng áp dụng bởi khơng địi hỏi cao cơ sở vật chất, phương tiện
hiện đại hay kinh phí. Tuy nhiên, khó khăn là giáo viên cần đầu tư, nghiên cứu
tương đối sâu hơn về các kiến thức và bộ môn liên quan.
Sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng đại trà trong mọi giáo viên dạy văn,
mọi nhà trường trong tỉnh. Nếu được đầu tư sâu hơn, nó có thể áp dụng cho mơn
ngữ văn tồn quốc theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thơng mới.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Việc áp dụng kiến thức liên môn là một nội dung phong phú, để sử dụng
được phương pháp này cho phù hợp với đặc điểm từng mơn học địi hỏi người
giáo viên cần có kiến thức và thời gian nghiên của bài dạy để phù hợp với nội
dung của bài.
Với học sinh, các kiến thức liên môn áp dụng trong bài học sẽ tạo hứng thú
cho các em để các em vừa hiểu được nội dung bài học lại vừa hiểu thêm những
kiến thức của các môn học khác, đồng thời có thể vận dụng các kiến thức đó để
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, từ đó các em phát triển toàn diện hơn về mọi
mặt: đức- trí- thể- mĩ. Phương pháp dạy học tích hợp liên môn không phải là mới,
nhưng nếu biết vận dụng hợp lý, người giáo viên sẽ làm cho bài giảng thêm sinh

động, có tính hấp dẫn với học sinh. Qua kết quả thực nghiệm của bản thân, tôi
thấy vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học Ngữ văn theo phương pháp tích
hợp đã kích thích hứng thú học tập trong học sinh, giúp các em lĩnh hội bài tốt
nhằm nâng cao hiệu quả của bài học. Việc vận dụng phương pháp trên kết hợp
với các hình thức dạy học tích cực khác sẽ làm học sinh thêm u thích mơn Ngữ
văn, truyền cho các em lòng yêu nước, tự hào với truyền thống dân tộc, từ đó có ý
thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên:
- Vai trò người giáo viên cực kì quan trọng trong việc lựa chọn phương
pháp thích hợp để giảng dạy. Tùy vào nội dung luận bàn và hình thức thể hiện
của văn bản, đặc điểm tiếp nhận của học sinh, thời gian tiếp nhận mà giáo viên
vận dụng cách phân tích văn bản kết hợp với phương pháp dạy học nêu vấn đề,
thảo luận nhóm
18


- Đối với những tình huống có vấn đề, học sinh dựa trên kiến thức bài học
và kiến thức của bản thân để tìm những giải pháp. Giáo viên khơng nên có kết
luận cứng nhắc với tình huống. Kết luận nên ở dạng là một gợi ý có thể bao quát
được những hướng giải quyết mà học sinh đưa ra. Từ đó, học sinh có thể tranh
luận với nhau về những khả năng cũng như tính khả thi của những phương án có
thể lựa chọn.
- Giáo viên cần gợi ý cho học sinh về những tư liệu cần hoặc những địa chỉ
website để các em có nguồn tư liệu chuẩn xác.
- Giáo viên tích lũy vốn tri thức về tác phẩm, về lịch sử, các vấn đề thời sự, xã
hội có liên quan để giúp các em nhận diện được vấn đề nghị luận cũng như hệ
thống lập luận của văn bản.
* Đối với học sinh:
-  Có nhu cầu bộc lộ suy nghĩ cá nhân trước tập thể. Nên chủ động tham gia

thảo luận nhóm ngồi giờ học để có những hiểu biết về tác giả, bối cảnh văn
học, hoàn cảnh lịch sử - thời đại ra đời tác phẩm.
- Cần đọc – hiểu văn bản trước khi tiến hành tìm hiểu ở lớp nhằm khám
phá văn bản bằng cả lí trí, tâm hồn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Quế

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10- 11 - 12, Sách giáo viên Ngữ văn 11 (tập 1) Nhiều tác giả - NXB Giáo dục, 2009.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn 11.
3. Sách giáo khoa Lịch sử 10, Sách giáo viên Lịch sử 10, NXB Giáo dục, 2009.
4. Sách giáo khoa Giáo dục công dân 10, Sách giáo viên Giáo dục công dân 10,
NXB Giáo dục, 2009.
5. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2010), Giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh
trung học phổ thông, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Kim Phong (Chủ biên) (2007), Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn
11, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1999); Từ điển
thuật ngữ Văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) –
NXB Đại học Quốc gia.

7. Đỗ Ngọc Thống ( 2005), Vẻ đẹp của văn nghị luận, Văn học và Tuổi trẻ số 4.
8. Phan Thị Thanh Vân, Những lưu ý khi đọc văn nghị luận.
9. Phan Quốc Thanh, Phương pháp dạy tích hợp chùm văn bản nghị luận thời
trung đại ở chương trình Ngữ văn lớp 11.
10. Bùi Thị Vui, Một vài suy nghĩ về việc dạy văn nghị luận.
11. Các nguồn tư liệu về Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ trên các báo điện tử.
13. Một số sáng kiến kinh nghiệm dạy học tích hợp Ngữ Văn.
14. Một số vấn đề về phương pháp dạy - học Văn trong nhà trường, NXBGD,
2001.
15. Một số tư liệu trên Interner về phương pháp dạy học tích hợp.

20



×