Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo luật tố TụnG hình sự Việt Nam.LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.22 KB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ XUÂN HỒNG

XÐt xö vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
theo lt tè TơnG h×nh sù ViƯt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ XUÂN HỒNG

XÐt xö vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
theo lt tè TơnG h×nh sù ViƯt Nam

Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Xuân Hồng


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................... 7
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên ............... 7


1.2.

Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị
cáo là người chưa thành niên ............................................................ 12

1.2.1. Khái niệm ......................................................................................... 12
1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................... 18
1.3.

Ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử riêng đối với bị cáo là
người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam............. 23

1.4.

Khái quát lịch sử Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về thủ
tục xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên từ năm 1945
đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003......................... 26

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN CÓ BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG ........................................................................................ 32
2.1.

Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét
xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên ............................... 32


2.2.


Thực tiễn áp dụng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên .... 49

2.3.

Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của
bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có
bị cáo là người chưa thành niên và nguyên nhân của nó ................... 61

Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CĨ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ............................................. 84
3.1.

Nhu cầu hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................................... 84

3.2.

Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người
chưa thành niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................. 89

3.3.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị
cáo là người chưa thành niên .......................................................... 102

KẾT LUẬN ............................................................................................... 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 116


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ không viết tắt

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

NCTN

Người chưa thành niên

NCTNPT


Người chưa thành niên phạm tội

TNHS

Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung, đã có những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được
giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình tội phạm
nói chung và tội phạm do người chưa thành niên (NCTN) thực hiện vẫn chưa
có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp với tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội ngày càng cao. Đây là vấn đề khơng chỉ Đảng, chính quyền,
các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp quan tâm mà các ngành,
các cấp và toàn thể nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm. Quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm đối với NCTN là: "Vấn
đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó,
điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động
phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra",
quán triệt tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã dành
nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng
đối với NCTN. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN vi phạm pháp luật
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều
vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp

dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ
án mà bị can, bị cáo là NCTN, chúng tôi thấy, những người tiến hành tố tụng
không những phải nắm vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các
thủ tục tố tụng đặc biệt này mà cịn phải có kiến thức hiểu biết nhất định về
đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để đề ra đường lối xét xử

1


vừa thấu tình đạt lý, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương; song quan trọng
hơn giúp các em hiểu rõ các quy định của pháp luật tránh được các vi phạm
đáng tiếc xảy ra, giúp các em sửa chữa lỗi lầm trở thành các cơng dân có ích
cho gia đình và xã hội. Tồ án nhân dân cả nước đã có nhiều cố gắng thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao góp phần quan trọng trong cơng tác
đấu tranh phịng chống tội phạm, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Song so với yêu
cầu cải cách tư pháp công tác xét xử các vụ án hình sự của Tồ án nhân dân
các cấp vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhất là đối với loại tội phạm do
NCTN thực hiện: Tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra, bị cáo là
NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời luật sư bào chữa
nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ định luật sư bào chữa là chưa
bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo; trình độ của một số Thẩm phán
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; sự đánh giá, nhìn nhận đối với lứa
tuổi là người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) theo nhiều chiều khác
nhau dẫn đến đường lối xử lý chưa thống nhất còn mang nặng tính răn đe vì
vậy tác dụng giáo dục, phịng ngừa khơng cao chưa đáp ứng được u cầu đấu
tranh phòng chống đối với loại tội phạm do NCTN thực hiện và xu thế hội
nhập quốc tế. Chính vì vậy, trước những địi hỏi của cơng cuộc cải cách tư
pháp, việc nâng cao chất lượng xét xử những vụ án hình sự mà bị can, bị cáo
là NCTN trên phạm vi cả nước là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.

Vì lý do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến việc xét xử vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, để
tiếp tục góp phần hồn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng Luật
Tố tụng Hình sự, là việc rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận

2


lẫn thực tiễn. Vì vậy, tơi chọn đề tài "Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong cơng tác xét xử án hình sự, việc xét xử các vụ án hình sự mà bị
can, bị cáo là NCTN là một trong những nội dung quan trọng. Bởi vì ngồi
việc quyết định hình phạt đối với họ, Tịa án cịn phải thực hiện việc giáo dục
họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều
kiện giúp họ sớm hịa nhập cuộc sống bình thường. Trong thời gian qua có
nhiều cơng trình nghiên cứu như:
Dưới góc độ đề tài nghiên cứu có: “Những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng trẻ em phạm tội” của Nguyễn Minh Ngọc, Hà Nội năm 1992; “Về
tình trạng trẻ em lang thang phạm tội và một số kiến nghị” của Lê Thế Tiệm,
Hà Nội năm 1992; “Tài liệu tham khảo về công tác trẻ em làm trái pháp luật”
của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển,
Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp NCTN tại
Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000;
“Thanh thiếu niên phạm pháp - dự báo năm 2000” của Châu Diệu Ái; “Tổng
quan về những vấn đề xã hội của vị thành niên” của Viện Nghiên cứu thanh
niên và một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học; “Đấu tranh phịng,

chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố
Hà Nội” của tác giả Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội năm 2007;
Dưới góc độ luận văn có: "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị
cáo là NCTN và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội" của học viên
Nguyễn Trần Bích Phượng, Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2001; "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN -

3


một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của học viên Phạm Thị Khánh Toàn, Luận
văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003; "Thủ tục tố tụng
đối với bị can, bị cáo là NCTN trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" của
tác giả Đỗ Thị Phượng;
Dưới góc độ tài liệu là báo cáo, tạp chí có: “Tài liệu tham khảo về cơng
tác trẻ em làm trái pháp luật” của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ
chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển, Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng
lực hệ thống tư pháp NCTN tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học
pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000;...
Tài liệu nghiên cứu nước ngồi có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu
về tội phạm của NCTN, ví dụ như: Deliquent Boys của Cohen Albert, Towards
and Understanding of Juvenile Deliquency của Lander Ernarad; Juvenile
Deliquency của Josph G. Weis; Robert D. Crutchfield. George S. Bridges…
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến NCTN thực hiện
hành vi phạm tội trong một phạm vi và khoảng thời gian nhất định; có đề tài
nghiên cứu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm của toà án cấp huyện đối với
mọi đối tượng phạm tội. Nhưng chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học
nào nghiên cứu độc lập tồn diện về cơng tác xét xử vụ án có NCTN là bị cáo
trên phạm vi tồn quốc.

Chính vì lẽ trên, việc nghiên cứu đề tài: "Xét xử vụ án có bị cáo là
người chưa thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" càng trở lên
cần thiết và cấp bách nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực tiễn xét xử
các vụ án hình sự bị cáo là NCTN, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy

4


định của pháp luật tố tụng hình sự về việc giải quyết vụ án mà bị cáo là
NCTN để áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử nhằm đạt chất lượng và hiệu
quả cao nhất, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét
xử đối với các vụ án mà bị cáo là NCTN góp phần vào nâng cao chất lượng
xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao
chất lượng xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Trong đó tập trung
nghiên cứu các vấn đề: khái quát về NCTN; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của
NCTN; những quy định của pháp luật nói chung về NCTN; những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử đối với vụ án mà bị cáo là
NCTN; thực tiễn xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN. Thơng qua đó, luận
văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà
bị cáo là NCTN không những chỉ nhằm mục đích phịng chống tội phạm mà
cao hơn cải tạo giáo dục họ mau chóng nhận thức được lỗi lầm để trở thành
cơng dân có ích cho gia đình và xã hội.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ
đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án

mà bị cáo là NCTN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê tình hình thực tiễn xét xử tại
Tịa án. Qua đó rút ra những tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án mà bị
cáo là NCTN nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về thủ tục xét xử bị cáo là NCTN phạm tội từ trước đến nay, so
sánh với thủ tục tố tụng của một số nước khác trên thế giới.

5


Nghiên cứu thực trạng xét xử NCTN thông qua các phiên tòa của Tòa
án nhân dân trong những năm gần đây.
6. Điểm mới của luận văn
Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy
định pháp luật tố tụng về thủ tục xét xử vụ án và thực tiễn áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự đối với các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Từ việc nghiên
cứu thực tiễn trong việc xét xử vụ án có bị cáo là NCTN, luận văn đã nêu lên
những bất hợp lý và những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự trong thực tiễn xét xử các vụ án về NCTN; những tồn tại
trong công tác tổ chức của Tồ án. Từ đó đưa ra những đề xuất hướng giải
quyết sao cho phù hợp với thực tế, hoà nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới; đồng thời hạn chế phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Góp phần đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động xét xử vụ án có bị cáo là
người chưa thành niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ
tục xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và thực
tiến áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử chất
các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nguyên
nhân của nó.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên
Thuật ngữ “hệ thống tư pháp người chưa thành niên” mới được nhắc
đến nhiều ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo quan niệm thơng dụng
quốc tế thì thuật ngữ này được dùng với nghĩa chỉ tất cả các quá trình và thủ
tục xử lý các hành vi vi phạm pháp luật (cả hành chính và hình sự) do những
người dưới 18 tuổi thực hiện. Với ý nghĩa đó, khái niệm này bao trùm rất
nhiều giai đoạn từ ngăn ngừa, giáo dục đến xử lý hành chính, xử lý hình sự và
tái hoà nhập cộng đồng cho người vi phạm chưa thành niên, sau khi họ đã
chấp hành đầy đủ hình phạt và các biện pháp giáo dục. Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn coi người chưa thành niên [33], đặc biệt là những người dưới
16 tuổi, là những người chưa trưởng thành do họ còn non nớt về thể chất và

trí tuệ. Do đó, họ cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã
thành niên và cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc
biệt. Quan điểm, chính sách cơ bản này đã được thể hiện trong Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như trong một số luật quan
trọng ở cả hệ thống hành chính và hình sự. Bên cạnh các điều khoản quy định
riêng trong Hiến pháp về người chưa thành niên, Nhà nước còn ban hành
riêng một văn bản luật quy định một cách tồn diện về bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Các văn bản luật quy định về các loại trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi vi phạm pháp luật đều có chương riêng hoặc một số điều khoản
riêng quy định áp dụng đối với người chưa thành niên [43].

7


Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990
[21, tr.12] trẻ em là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn. Bên cạnh Cơng ước về quyền trẻ
em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật
đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) [3] do Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng nêu rõ người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi như là một sự kế thừa của Công ước về quyền trẻ em. Quy
tắc Riyath về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên được Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 14.12.1990 [22, tr.20] mặc dù không đưa ra một cách cụ
thể về khái niệm người chưa thành niên song thông qua các quy định cũng giúp
chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự
phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở
các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Cơng ước
về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về
độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn
bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này.

NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng
hình sự. Được coi là bị can khi họ có quyết định khởi tố đối với một người đã
thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để áp
dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết và tiến hành các biện pháp điều tra
đối với người đó. Khái niệm bị can được tồn tại suốt cả quá trình tiến hành tố
tụng từ khi điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử. Như vậy người thực hiện hành vi
phạm tội trong quá trình tố tụng này chưa đủ 18 tuổi là bị can NCTN kể từ
thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tồ án đã thụ lý vụ án khi đó
bị can chính thức trở thành bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở
pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả
hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị

8


Viện kiểm sát truy tố và Tồ án có quyết định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo là NCTN.
Như vậy: Người chưa thành niên phạm tội là người chưa tròn 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội
phạm. Tuy nhiên, không phải người chưa thành niên phạm tội nào cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc tìm hiểu đặc điểm bị cáo là người chưa thành niên là không thể
thiếu đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong xét
xử vụ án hình sự có người chưa thành niên là bị cáo.
NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng
hình sự. NCTN được coi là bị cáo kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra
xét xử của Toà án đã thụ lý vụ án khi đó bị can chính thức trở thành bị cáo.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để
đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ
hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị Viện kiểm sát truy tố và Tồ án có quyết

định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo NCTN.
Điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do
vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức
được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản
được quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự (BLHS) như sau: trong trường hợp
điều tra, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về hành vi
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội
phạm. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội khơng nghiêm trọng hoặc ít nghiêm
trọng, gây hại khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ
quan, tổ chức nhận giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa

9


thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt với họ chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào đặc điểm nhân
thân về nhân thân và yêu cầu của việc phịng ngừa tội phạm.
Khi xét xử nếu thấy khơng cần thiết áp dụng hình phạt thì tịa án có thể
áp dụng một trong các biện pháp tư pháp thay thế là giáo dục tại xã phường,
thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đặc biệt, Bộ luật hình sự Việt Nam
khơng quy định áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, tịa án cho bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội hưởng mức án tù nhẹ hơn mức án tù áp dụng
đối với người đã thành niên phạm tội tương đương; không áp dụng hình phạt
bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với người từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi khơng áp dụng hình phạt tiền và án đã tun đối với người chưa
thành niên phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm.

Xuất phát từ những đặc điểm khác biệt về thể chất và tinh thần của
NCTN so với người trưởng thành mà pháp luật có quy định chính sách hình
sự riêng đối với NCTN phạm tội, đồng thời cũng quy định thủ tục tố tụng cần
thiết đối với đối tượng này. Trước hết, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với NCTN phạm tội, nhất là biện pháp bắt tạm giữ, tạm giam phải cân
nhắc, thận trọng. Bộ luật TTHS cũng quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán tiến hành tố tụng với người chưa thành niên phạm tội phải là
người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng như hoạt
động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN. Bởi những người tiến hành
tố tụng am hiểu về những vấn đề, đặc điểm riêng, tính cách của NCTN thì
mới có thể đánh giá, nhận xét được một cách xác đáng về tính chất, mức độ
của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ mục đích
phạm tội cũng như nhân thân của người phạm tội, từ đó có thể áp dụng biện
pháp xử lý thích hợp.

10


Khi xét xử Sơ thẩm hay Phúc thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN
ngồi những vấn đề bắt buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 63 Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) (có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay khơng có lỗi, lỗi do cố ý hay vơ ý, có năng
lực trách nhiệm hình sự (TNHS) hay khơng, mục đích động cơ phạm tội;
những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo và những đặc
điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra), thì theo quy định tại khoản 2 Điều 302 của BLTTHS Tòa án cần
phải xác định rõ các vấn đề sau đây:
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của NCTN.

Việc xác định tuổi của bị cáo là NCTN đặc biệt quan trọng vì đây là căn
cứ để truy cứu TNHS của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ phát
triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội giúp cho
người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội
do hành vi phạm tội của NCTN gây ra để có thể áp dụng biện pháp tư pháp hay
hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Điều kiện sinh sống và giáo dục
Hành vi phạm tội của NCTN thường bắt nguồn từ điều kiện sống và
giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố này
cũng xác định khả năng cải tạo và giáo dục NCTN phạm tội, đồng thời cũng
có thể giúp cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể
đưa ra các biện pháp phịng ngừa thích hợp đối với người phạm tội nói chung
và NCTNPT nói riêng.
Khoa học đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua lại
của môi trường xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình

11


thành, nó phát sinh khơng phải từ chính mơi trường, chính bản thân người đó
mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường và cá nhân con người đó. Đối
với NCTN ảnh hưởng của mơi trường xung quanh càng thể hiện rõ hơn, đó là:
điều kiện sinh sống của gia đình, thái độ, cách ứng xử của cha mẹ, những
người thân trong gia đình; điều kiện học tập và sinh hoạt của họ ở nhà trường,
đoàn thể, nơi cư trú.
Có hay khơng có người đã thành niên xúi giục.
Việc xác định có hay khơng có người thành niên xúi giục cũng như
nguyên nhân và điều kiện phạm tội là những vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho
việc đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà NCTN
đã thực hiện, từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tái phạm.

1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà
bị cáo là người chưa thành niên
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật nói chung và Pháp luật hình sự nói riêng ln ln coi trẻ em
là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày
mà ngay cả khi các em là chủ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải truy cứu TNHS. Luật hình sự bảo vệ NCTN bị coi là tội phạm và cũng
quy định một chế tài riêng để xử lý, thì thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với
lứa tuổi NCTN nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. BLTTHS năm 2003 [40] đã có một chương
riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là NCTN.
Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng "Thủ tục đối với
NCTN", nhà làm luật Việt Nam không ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục
đối với NCTN", “thủ tục xét xử đối với NCTN” là gì? Qua nghiên cứu các
quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN trong chương này, chúng ta có thể
hiểu: Các quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN có những đặc trưng so với

12


thủ tục xét xử được áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này
thể hiện ở phạm vi áp dụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, về việc
tham gia của luật sư bào chữa, việc giám sát NCTN, việc tham gia của gia
đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử.
Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là NCTN theo Pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam là: tổng hợp các quy định chung về thủ tục xét xử vụ án hình sự và
các quy định về thủ tục đặc thù mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là
NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của bi can, bị cáo trong hoạt động xét xử.

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia
tố tụng cũng tương tự như việc nghiên cứu các vụ án hình sự khác. Tuy nhiên
do pháp luật hình sự có những quy định riêng trong trình tự, thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can nên khi nghiên cứu hồ
sơ, Thẩm phán phải đặc biệt chú ý đến việc chấp hành các thủ tục, trình tự tố
tụng này của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Trường hợp nếu phát hiện thấy có vi
phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng tức là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, khơng đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, xâm hại
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói
chung và của người chưa thành niên nói riêng hoặc ảnh hưởng đến việc xác
định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Các vi phạm nghiêm trọng
trong thủ tục tố tụng được hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư liên tịch số
01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/08/2010 của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (sau đây xin được
viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2010). Theo hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư
liên tịch số 01/2010 thì việc khơng u cầu cử người bào chữa cho bị can, bị

13


cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, chưa điều tra, lập lý lịch của
bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người
có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo); khởi tố vụ án hình
sự nhưng khơng có u cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS,...
Đối với các vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng,
thì Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ về độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất,
tinh thần, khả năng nhận thức về hành vi phạm tội; có người xúi giục khơng;
ngun nhân, điều kiện phạm tội; hồn cảnh, động cơ, mục đích của người

phạm tội. Ngồi ra cần nghiên cứu để xác định rõ tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết quan trọng khác có ảnh hưởng đến
quyết định hình phạt như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; có hay
khơng có người bảo lãnh… Từ các căn cứ trên, Thẩm phán có thể đề xuất
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Chỉ có thể quyết định
tạm giam bị cáo chưa thành niên để chuẩn bị xét xử trong những trường hợp
quy định tại Điều 303 BLTTHS. Nếu không phải áp dụng biện pháp ngăn
chặn nghiêm khắc này thì giao bị cáo cho người đại diện hợp pháp hoặc người
đỡ đầu giám sát.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải kiểm tra xem bị cáo,
người đại diện hợp pháp của bị cáo có u cầu Luật sư khơng; người bị hại
có mời người bào chữa hay khơng. Trong trường hợp bị cáo, người đại diện
hợp pháp của bị cáo chưa thành niên khơng mời nhưng có u cầu Luật sư
bào chữa thì Thẩm phán phải u cầu Đồn Luật sư phân cơng văn phịng
Luật sư cử Luật sư bào chữa cho bị cáo. Thẩm phán phải xử lý các tình huống
mà bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối
người bào chữa theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS để
chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì u cầu Đồn Luật sư cử

14


người khác, nếu khơng chấp nhận thì thơng báo bằng văn bản cho người có
yêu cầu thay đổi biết. Nếu từ chối người bào chữa thì Tịa án vẫn triệu tập
người bào chữa. Tại phiên tòa nếu họ tiếp tục từ chối người bào chữa thì Hội
đồng xem xét, quyết định. Việc tiếp tục từ chối người bào chữa và quyết định
của Hội đồng xét xử được ghi trong biên bản phiên tòa.
Việc thành lập Hội đồng xét xử cần phải chú ý thành phần của Hội
đồng xét xử, phải có Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đồn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Điều 307 BLTTHS).Theo quy định tại Điều 16

Thông tư liên tịch số 01/2011 thì ngay cả các vụ án có người bị hại là người
chưa thành niên thì Tịa án cần phải tạo điều kiện để thành phần Hội đồng xét
xử có Hội thẩm nhân dân đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên như
trong trường hợp xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên.
Cũng rất cần chú ý việc triệu tập những người tham gia tố tụng khác là
người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ.
Nếu xét thấy cần thiết, để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của dư luận xã hội
đối với người chưa thành niên là bị cáo hoặc là người bị hại, đồng thời để tạo
điều kiện cho người chưa thành niên bình tĩnh, khai báo khách quan, trung
thực thì Tịa án có thể quyết định xử kín. Việc quyết định xử kín phải được
nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi kiểm tra căn cước của bị cáo,
người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên thì
Chủ tọa phiên tòa cần hết sức chú ý đến việc xác định ngày, tháng, năm sinh
của họ. Trường hợp có việc không thống nhất về xác định tuổi của những
người tham gia tố tụng này thì Hội đồng xét xử phải quyết định hỗn phiên
tịa để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo hướng dẫn tại điểm k Điều 1 Thông tư
liên tịch số 01/2010. Các vấn đề khác như xác định về đặc điểm nhân thân, lý
lịch tư pháp về năng lực TNHS, về tiền án, tiền sự…nếu không thể làm rõ

15


được trong phần thủ tục bắt đầu phiên tịa thì Hội đồng xét xử cũng phải hỗn
phiên tịa để căn cứ vào các hướng dẫn tại Điều 1 Thông tư liên tịch số
01/2010 để trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ngoài việc tuân thủ các quy định của BLTTHS về việc xét hỏi, trong vụ
án có người chưa thành niên tham gia tố tụng cần chú ý một số vấn đề sau đây:
+ Việc đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải ngắn gọn, rõ
ràng, đơn giản và rất từ tốn, không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp cho

người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách
quan. Nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và có thể giải thích câu
hỏi cho rõ hơn.
+ Trường hợp bị cáo do quá sợ hãi, không trả lời được câu hỏi hoặc
mất bình tĩnh khơng trình bày được thì có thể động viên, giúp bị cáo trấn tĩnh
(cho ngồi xuống, cách ly người lớn…), cũng có thể chuyển sang xét hỏi bị
cáo khác, hỏi người bị hại… để bị cáo trấn tĩnh.
+ Việc hỏi đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức là rất cần thiết nhằm
xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hồn cảnh
phạm tội, từ đó Hội đồng xét xử có thể định hướng về biện pháp xử lý hình sự
đối với bị cáo là người chưa thành niên.
Hội đồng xét xử cần chú ý xem xét các chứng cứ, các yêu cầu của đại
diện gia đình, nhà trường. Nếu họ có yêu cầu hỏi bị cáo thì Hội đồng xem xét
quyết định (tinh thần là Chủ tọa phiên tòa nên chấp nhận yêu cầu này của đại
diện gia đình, nhà trường).
- Đối với người tham gia tố tụng là người bị hại, người làm chứng là
người chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em,
mua bán trẻ em thì Tịa án có thể quyết định xử kín và hạn chế tối đa việc để
họ phải đối mặt với bị cáo, người nhà bị cáo tại phiên tịa. Có thể cho phép họ
đứng sau màn chắn hoặc tại một phịng khác thơng qua kết nối hệ thống
camera ( xem Điều 16 Thông tư liên tịch số 01/2011).

16


Ngồi bài bào chữa của người bào chữa thì đại diện hợp pháp của bị
cáo, người bị hại chưa thành niên, người giám hộ của người có quyền, nghĩa
vụ liên quan là người chưa thành niên, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức
xã hội cũng có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa. Nếu người đại diện
hợp pháp của những người tham gia tố tụng là người chưa thành niên tham

gia phiên tòa và thực hiện việc bào chữa và nếu khơng có u cầu Luật sư thì
họ được bào chữa, tranh luận (Tịa án khơng cần thiết phải chỉ định Luật sư
hoặc người bào chữa cho bị cáo).
Việc nghị án phải tuân thủ quy định tại Điều 222 BLTTHS. Tuy nhiên,
trong khi nghị án, Hội đồng xét xử cần phải chú ý đặc biệt đến chính sách
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS.
+ Bị cáo phạm tội khi bao nhiêu tuổi và theo quy định của pháp luật về
độ tuổi chịu TNHS thì bị cáo có phải chịu TNHS khơng?
+ Bị cáo có tội khơng? Tội phạm quy định tại điểm, khoản, Điều nào
của BLHS?
+ Bị cáo có đủ điều kiện để miễn TNHS theo khoản 2 Điều 69
BLHS khơng?
+ Có cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo khơng? Có điều kiện
để áp dụng các biện pháp tư pháp theo quy định tại Điều 70 BLHS khơng?
+ Khi cần thiết phải áp dụng hình phạt thì cần chú ý việc lựa chọn hình
phạt. Nếu phải áp dụng hình phạt tù thì phải chú ý đến quy định về mức phạt
tù tối đa đối với người chưa thành niên ( Điều 74 BLHS) và cách tính mức
hình phạt đối với người chưa thành niên theo hướng dẫn tại Điều 11 Nghị
quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS.
+ Không xử phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên
phạm tội.

17


+ Khơng áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ở độ tuổi từ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Khơng áp dụng hình phạt bổ sung với người chưa thành niên phạm tội.
+ Không coi các bản án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16

tuổi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
+ Khi áp dụng mức phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời
hạn thì người chưa thành niên được hưởng mức nhẹ hơn mức áp dụng với
người đã thành niên phạm tội tương ứng.
+ Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ quy định tại Điều 75 BLHS.
+ Chú ý cân nhắc để có thể áp dụng việc miễn hình phạt, áp dụng hình
phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với những trường hợp có thể áp dụng.
1.2.2. Đặc điểm
Người chưa thành niên (NCTN) là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự
tăng trưởng, phát triển từ độtuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi
trưởng thành - là giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và
ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội
tiết đãthúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự
nhất định.Đây là giai đoạn “quá độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn
cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý học xác định quá trình hình
thành và phát triển của NCTN phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý, tùy thuộc
độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu tâm sinh lý
rất khác nhau ở mỗi giới tính; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính
cách khác nhau khi bị tác động bởi những mơi trường, điều kiện, hồn cảnh
khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên
khi NCTN thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ nhiều yếu
tố khác nhau và do đó, vi phạm pháp luật của NCTN có các đặc điểm, cơ chế
khác với hành vi vi phạm pháp luật của người đã thành niên.

18


Đối với những NCTN có điều kiện, mức sống bình thường thì hoạt
động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà

trường. Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày càng
gắn bó, mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí là
nghe theo lời bạn nhiều hơn nghe lời khun can của cha mẹ, gia đình. Tính
cách của các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ “đã” là
người lớn và mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp
sai lầm trong khi muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng
tỏ sự trưởng thành của mình. Nhiều trường hợp NCTN ở giai đoạn này đã tỏ
ra khó chịu, tự ái, thậm chí trở nên hung dữ khi bị coi là cịn con nít hoặc bị
người lớn gọi là “chú bé”, “cô bé”. Sự tự trọng thái quá trở thành tự tôn hay
tự ti, mặc cảm và khi bị xúc phạm, dễ có tâm lý tiêu cực, mà hệ quả thơng
thường là phản ứng bằng những hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp
luật. Những NCTN này thường thiếu tự chủ, ln hướng tới sự ham thích mới
lạ, hiếu động, bồng bột và dễ sa ngã. Nhiều em dễ bị kích động, dễ bị lơi kéo
vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, muốn trở thành “người hùng” để
bạn bè khâm phục. Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị thầy
cơ, gia đình khiển trách, bạn bè chế giễu... cũng dễ có hành vi sai trái hoặc
hành vi vi phạm pháp luật. Khác với người thành niên khi vi phạm pháp luật
ln có động cơ, mục đích cụ thể, những NCTN thường vi phạm pháp luật
với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên nhân hiếu thắng, không tự
chủ mà họ đã gây ra nhiều vụ vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng
và họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự công
cộng, cố ý gây thương tích...
Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của NCTN hầu
hết là do tác động của mơi trường,điều này cũng giải thích vì sao động cơ,
mục đích vi phạm pháp luật của NCTN thường là bột phát, nhất thời và không

19



×