Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Dao Nguyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.51 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Đào Nguyên, Thiên Thai "Rước ĐÀO (Câu. mừng, NGUYÊN 191,. "Xắn Rẽ (Câu. lạc 192.. đón lối Kiều. tay mây 391,. hỏi, mà. đâu mơ. mở tỏ Kim. trông 392.. dò đến. đây. thấy. Đạm. khoá ĐỘNG lối vào THIÊN Kiều tương. la ?" Tiên) ĐÀO THAỊ" ngộ). ĐÀO NGUYÊN có nghĩa là gốc đàọ Hai tiếng này cò có thể gọi là ĐỘNG ĐÀO hay ĐỘNG BÍCH; để chỉ nơi tiên cảnh, nơi mà con người có cuộc sống anh nhàn, thanh thản, không bị ràng buộc bởi những điều phiền nhiễu của cuộc đờị Truyện truyền kỳ Trung Quốc kể rằng vào đời nhà Tấn, ở huyện Vũ Lăng có một ông lão làm nghề chài lưới dọc theo khe núị Một hôm trong lúc hành nghề, ông lão trông thấy một đóa hoa đào trôi từ trên nguồn xuống. Ông lão nhủ thầm "Hoa đào trôi trên dòng nước chứng tỏ nơi phát nguyên dòng nước này phải có hàng xóm, nhà cửa của dân cư; và chắc chắn phải có nhiều loại hoa quý". Nghĩ. đến. thế,. ông. lão. cứ. chèo. thuyền. ngược. dòng. nước. để. tìm. cho. ra. chổ. đào. nguyên.. Thuyền đi mãi và cuối cùng ông lão cũng tìm thấy một xóm có dân cư đông đúc và có trồng rất nhiều loại hoa quý , nhất là hoa Đàọ Ngư ông cột thuyền và lên bờ đi vào xóm, trông thấy vườn đào san sát nhau; dân chúng thì ăn mặc y phục theo kiểu nước Tần thời Chiến Quốc. Ông lão lên tiếng hỏi thăm những người trong vùng Đào nguyên ấy thì được trả lời rằng những người cư ngụ ở đây vốn là gốc dân nước Tần trước kiạ Tổ tiên họ không chịu được sự hà khắc của vua Tần Thủy Hoàng và quan Tướng quốc Lý Tư nên phải di cư lên đây đã mấy đời rồị Dân chúng bây giờ là đám hậu duệ của những người di cư trước kiạ Ông lão chài lưới lưu lại chốn Đào nguyên chơi vài bốn hôm mới từ giã dân chúng ở đấy mà trở về. Khi về đến nhà, bà con làng xóm xúm lại hỏi ông đi đâu mất tích cả mấy hôm. Ông lão thuật lại cho mọi ngươì nghe chuyện ông lạc vào chốn Đào Nguyên. Ai nấy nghe nói thảy đều náo nức tỏ ý muốn đến chốn Đào Nguyên cho biết. Sau đó, ông lão chài lưới lại chèo thuyền lên chốn Đào Nguyên một lần nữạ Nhưng đến nơi ông chẳng thấy cảnh Đào Nguyên như lúc trước, mà chỉ còn lại là rừng núi thâm ụ Và người dân ở huyện Vũ Lăng cũng không thấy ông lão trở về nữạ Người ta bảo nhau rằng ông lão chài lưới đã lạc vào cảnh tiên rồi .... ===== Cũng thời nhà Tấn, nhà thơ Đào Tiềm (1) tức Đào Uyên Minh là một người không màng danh lợi, sẵn sàng rũ áo từ quan để đi tìm cảnh Đào Nguyên. Đào Uyền Minh tự là Nguyên Lượng làm quan Huyện lệnh đất Bành Tra.ch. Khi đi trấn nhậm, ông để con trai mình ở lại quê nhà rồi cho một người tớ cầm thư về dặn dò con rằng: "Con ở nhà sớm tối nhọc nhằn với chuyện ruộng nương vườn tược, ta cho con một người hầu về giúp đỡ con và có bạn. Con phải xem người hầu như người thân trong gia đình, chớ bạc đãi người ta mà trái đạo làm người". Đào Tiềm ra làm quan chẳng được bao lâu thì nước Tấn bị nước Tống đánh chiếm. Bao nhiêu quan lại của nước Tấn đều ra phò tân triềụ Riêng Đào Uyên Minh tự nghĩ: "Mình làm quan không đủ tài giúp nước để nước bị mất, thật là một.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> sự. ô. nhục.. Nay. nếu. đem. thân. thờ. nước. khác. thì. còn. gì. là. thể. diện".. Nghĩ thế nên Đào Tiềm không hợp tác với tân triều, rũ bỏ công danh tìm nơi va9'ng vẻ ẩn dật, nuôi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình. Ông đã tìm được nơi vừa ý, hàng ngày chắm sóc hoa kiểng, chơi đàn không dây, câu cá bằng lưỡi câu ngay không móc mồi và làm thơ... Thơ của Đào Tiềm được người đời sau truyền tụng nhất là hai bài "Quy khứ lai từ" và "Đào Nguyên ký". Trong bài "Đào Nguyên ký" thi nhân tỏ ý mong được sống ở chốn Đào Nguyên, lánh xa những phiền nhiễu tục luy... ====== (1) Đào Tiềm (365-427) tên chữ Uyên Minh, tự Nguyên Lượng, hiệu là Ngũ Liêu tiên sinh. Ông sinh ra trong cảnh nhà nghèo và gặp thời loạn lạc. Lớn lên, ba lần làm quan đều chán cảnh luồn cuối nên từ quan. Đào Tiềm được người đời sau xưng tụng là một thi nhân vĩ đại cuối đời Đông Tấn và xứng đáng đứng đầu thời Lục Triềụ. ======== THIÊN THAI, tên một hòn núi ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Thiên Thai thường được dùng để chỉ cảnh tiên, cõi tiên. Theo truyền thuyết Trung Hoa, hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi hái thuốc núi bị lạc vào Thiên Thai, không biết đường về. Suốt mười ba ngày quan quẩn chung quanh núi Thiên Thai, hai chàng Lưu, Nguyễn chịu đói, chỉ uống nươ"c suối cầm hơị Nhưng may mắn thay, hai chàng chợt nhìn thấy một cây đào trên núi có trái chín, bèn gắng sức trèo lên hái mấy trái mà ăn. Ăn xong mấy trái đào, chẳng những không còn đói mà haì chàng còn cảm thấy sức lực mình được tăng thêm. Ăn xong lại mon men đến dòng suối uống nước. Lạ thay, trên dòng suối trong vắt Lưu và Nguyễn nhìn thấy các cành lá tưƠi thắm đang trôi; mà ở giữa lại có một chén cơm muối vừng. Hai chàng bảo nhau rằng có lẽ có người ở gần đâu đâỵ Cả hai cùng men theo dòng suối đi ngược lên. Đi được một lúc, Lưu, Nguyễn nhìn thấy bên bờ suối có hai cô gái tuyệt đẹp đang nhìn họ, vì trên tay một trong hai chàng còn đang cầm chiếc chén không (chén cơm muối vừng nhặt đưỢc và cả hai đã ăn hết). Hai -. Hai. cô chàng. gái Lưu,. đẹp Nguyễn,. hãy. đồng mang. thanh chén. lại. gọi: đâỵ. Hai chàng không khỏi sửng sốt nhưng chân vẫn cứ bước tới phía sau hai nàng. Hai cô gái đẹp vồn vã hỏi: Sao hai chàng đến muộn thế? Đoạn hai cô ngỏ ý mời hai chàng về nhà mình. Một cô dắt Lưu Thần đi về hướng Nam và một cô dẫn Nguyễn Triệu đi về hướng Đông; nhưng vẫn gần nhaụ Nhà các nàng đều màn che trướng rũ, trên vách treo các thứ trang trí bằng sừng tê, vàng bạc trong rất sang trọng, lộng lẫỵ Thị nữ trong nhà dọn tiệc, đầy đủ cao lương mỹ vị nhưng vẫn có món muối vừng. Lưu Thần và Nguyễn Triệu tuy ở hai nhà riêng của hai nàng nhưng đều đưỢc tiếp đãi giống nhau như thế. Trong bữa cơm không thiếu rượu ngon. Yến tiệc xong thị nữ dâng đào nói là để mừng chàng rể cô dâụ Nhã nhạc tấu đến đêm. Về khuya, cả Lưu Thần, Nguyễn Triệu đều được hai cô gái đẹp ấy đưa vào phòng, hoan lạc tuyệt thú. Ở nơi thiên thai được mười ngày, cả Lưu và Nguyễn đều ngỏ ý cáo từ hai người đẹp để trở về nhà. Hai nàng cố năn nỉ họ hở lạị Lưu, Nguyễn xiêu lòng đành ở lạị Ở Thiên Thai, khí hậu không bao giờ thay đổi, cây cỏ luôn luôn xanh mướt tốt tươi và chim chóc hót véo von hết ngày này sang ngày khác. Thật là một cảnh lúc nào cũng xuân. Lưu Thần và Nguyễn Triệu ở đó thêm nửa năm nữa thì cảm thấy nhớ nhà quá, không còn chịu nổi; bèn nằng nặc đòi được trở về. Hai người vợ ở chốn Thien Thai biết không thể cầm hai chàng ở lại được nữa, đành phải đưa ra tiễn hai chàng xuống núi và chỉ đường cho về. Hai chàng Lưu, Nguyễn trở về quê cũ thì thấy cảnh vật hoàn toàn khác lạ và cũng chẳng tìm được một người quen cũ.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> nào, vì nửa năm hai chàng ở chốn Thiên Thai thì dưới quê hương họ đã trải qua mấy đời rồị Hai chàng tìm những người cao tuổi nhất trong làng để hỏi thăm về gia đình của mình trước kia thì chẳng ai biết gì cả. May thay có một cụ già đầu tóc bạc nói rằng: - Cách đây mấy mươi năm, hồi lão còn nhỏ có nghe ông của lão kể rằng trong dòng họ có một người lên núi hái thuốc bị mất tích, không thấy trở về. Năm nay lão đã hơn tám mươi tuổi rồi nhưng cũng chẳng biết rõ người trong dòng họ của đời trước ấy là aị Lưu Thần và Nguyễn Triệu quá bỡ ngỡ với cảnh và người lạ ở chốn quê hương mình, bèn tìm đường trở lại Thiên Thaị Nhưng than ôi, đường lên Thiên Thai đã mất rồi, còn đâu nữa mà trở lại chốn non tiên... ==== Ở nước ta cũng có chuyện người trần lạc non tiên và lấy vợ tiện Đó là chuyện Từ Thức trong sách "Truyền Kỳ Mạc Lục" của Nguyễn Dữ (1). Từ Thức người đất Hoá Châu, năm Quang Thái đời Trần Thuận Tông được bổ làm Tri huyện Tiên Dụ Bên cạnh huyện đường có một ngôi chùa danh tiếng trồng rất nhiều hoa mẫu đơn. Cứ mỗi lần hoa nở thì dân chúng kéo đến xem đông lắm. Tháng hai năm Bính Tý niên hiệu Quan Thái thứ 9, hoa mầu đơn rộ nở. Trong đám ngu8ời đi xem hoa nơ/ có một cô gái tuổi đổ đôi tám, má hồng phơn phớt, lỡ tay làm gãy một cành hoa nên bị người của nhà chùa giữ lạị Ngày gần hết mà cô gái không có người nhà đến nhận. Từ Thức cũng có mặt trong lúc ấy động lòng thương nên cởi áo lông cừu trắng chuộc tội cho cô gái . Mọi người đêu khen quan huyện là người hiền đức. Từ Thức vốn tính tình phóng dật, thích rượu thơ hơn là việc quan trường nên thường ỏ bê công việc ở huyện đường. Có lần quan trên quở trách, Từ bèn cởi áo từ quan, về huyện Tống Sơn cất nhà sát bên hang động mà ở. Thường ngày cắp một cây đàn, một bầu rượu và một túi thơ, dắt theo một đứa tiểu đồng ngao du đây đó. Một hôm Từ đến Thần Phù, nhìn xa ra khơi mấy mươi dặp thấy có một đám mây ngũ sắc, kết lại giống một đóa hoa sen lớn. Từ ngạc nhiên cho cheò thuyền ra thì nhận rõ là một trái núi nổi lên trên mặt biển rất đẹp. Từ cho buộc thuyền và bước lên. Thấy vách đá cao nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, bèn ngẫu hứng đề vào vách một bài thơ: "Thiên chương bích thụ quái triêu đôn Hoa tháo nghênh nhân nhập động môn Nhiễu gián dĩ vô tăng thái dược Duyên lưu thặng hữu khách tầm ngươm Lữ du tư vị cầm tam mộng Điếu đính sinh nhai tứu nhất tôn Nghi hướng Võ lăng ngư tử vấn Tiền lai viễn cận chúng đào thôn". (Triêu Hoa Hái Tìm Lang Trôi Bến Thôn. dương có thuốc nguồn thang nổi Võ đào. bóng cười nào duy đất thuyền chàng chi. trái tươi đâu có lạ câu ngư hộ. khắp đón sư khách đàn rượu tìm loanh. lối. ngày rước kẽ bên ba một thử quanh.). xanh mình suối ghềnh khúc bình hỏi (2). Từ Thức đề thơ xong, thẫn thờ ngắm cảnh vật. Bỗng chàng nhìn thấy một cửa hang nên không ngần ngại vén áo bước vàọ Đi được non một dặm thì cảm thấy đường đi dốc ngược lên và càng lên cao càng thấy rộng rãị Từ Thức lên đến đỉnh núi thì thấy trời quan đãng, chung quanh toàn những lkâu đài nguy ngạ Bỗng Rồi -. có. hai Phu. hai Lang. người. nàng nhân. con gái quân tiến. áo. xanh nhà. đến của. xuất. bên ta. hiện, ta Từ. mời. bảo. Thức, chàng. với đã. nhau. nói vào. rằng: đến. rằng: chơị.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Từ Thức theo hai người con gái áo xanh đi vòng qua một bức tường gấm rồi bước vào một toà cung điện bằng bạc . Trước cửa đie6.n có bản đề ba chữ "Điện Quỳnh Hư", bên trên là bảng đề "Gác Dao Quang". Từ Thức vào điện thấy có một vị phu nhân mặc áo trắng ngồi trên giường thất bảọ Bên cạn h còn có một cái giường nhỏ bằng gỗ đàn hương. Vị phu nhân chỉ chiếc giường nhỏ mời Từ Thứ ngồi rồi nói rằng: - Có lẽ tiên sinh cũng được thoả nguyện bình sinh với chuyến đi chơi này ? Nhưng còn mối duyên kỳ ngộ, tiên sinh có nhớ chăng ? Từ Thức thưa: - Tại hạ là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. với chiếc thuyền nan và cánh buồm gió rong chơi giang hồ, đâu biết rằng nơi đa có Tử phủ Thanh độ Nay tại hạ đê;'n được đây, chẳng khác nào mọc cánh mà bay đến chốn non tiên vậỵ Song lòng trần còn mờ tối, chưa biết tiền đồ ra sao, dám xin phu nhân chỉ bảo chọ Phu nhân áo trắng nói: - Đây là núi Phù Lai, động tiên thứ sáu trong ba mươi sáu đô.ng. Còn tôi đây là Ngụy phu nhân, địa tiên ở Nam Nhạc. Vì thấy tiên sinh là ngươì cao nghĩ, sẵn lòng cứu giúp người nguy khốn nên làm phiền mời tiên sinh đến đâỵ Đoạn Ngụy phu nhân ra hiệu cho một a hoàn đứng hầu một bên. A hoàn vào trong dắt ra một ngươiù con gáị Từ Thức nhìn lên, nhận ra người con gái ấy chính là cô gái làm gãy cành mẫu đơn được chàng chuộc bằng chiếc áo hồ cừu ngày trước. Ngụy phu nhân lên tiếng: - Con gái tôi đây tên gọi Giáng Hương, ngày trước mắc nạn trong lúc xem hoa, được tiên sinh cứu giúp. Nay tôi xin cho nó kết duyên cùng tiên sinh để đền ơn khi trước. Ngay đêm ấy Từ Thức và giáng Hương làm lễ giao bái động phòng. Ngày hôm sau có quần tiên đến dự tiệc chúc mừng cho họ Từ Thức kết duyên cùng Giáng Hương đã được một năm, bỗng chạnh lòng nhớ đến quê hương, làm xóm. Một hôm trong ra bể thấy một chiếc thuyền buồm dong về phương Nam, Từ chỉ cho vợ xem và nói: - Nhà tôi ở về hướng chiếc thuyền đang đi ấy, nhưng trời nước bao la, nào có biết đâu là đâu... Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, dám xin nàng thể tình cho tôi tạm về thăm quê hương. Nhân thể thu xếp việc nhà cho yên ổn rồi sẽ trở lại đây cùng nàng tháng ngày yên hưởng cảnh làng mây bến nước. Giáng Hương sa nước mắt nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà cản trở lòng nhớ quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi nay chàng về chỉ e cảnh cũ người xưa không còn nữa... Rồi -. Giáng Không. Hương ngờ Từ. thưa lang. với còn. phu nặng. nhân. lòng. Phu trần. nhân đến. nói: vậỵ. Phu nhân ban cho Từ một cỗ xe Cẫm Vân để trở về trần thế. Giáng Hương trao cho chàng một bức thư viết lên khăn lụa, nói: Hai. Ngày. khác người. trông. thấy bịn. vật. này, rịn. xin. đừng chia. quên. mối tay. tình. cũ. nhaụ. Từ Thức về đến quê cũ thì thấy quả thật là vật đổi sao dờị Thành quách, nhân gian đều không còn như xưa nữạ Chỉ có cảnh núi khe, hang động không thay đổi mà thôị Từ nói họ tên mình ra với những người già cả trong làng để hỏi thăm về gia đình thì một cụ già trả lời rằng: - Thưở tôi còn bé có nghe ông cụ tam đại nhà tôi cũng có tên giống như ông, đi vào núi mất tích đến nay đã hơn tám mươi năm rồị Từ Thức ngậm ngùi, muốn lên xe mây trở lại non tiên thì xe mây đã hoá thành con chim phượng bay mất rồị Chàng mở thư của Giáng Hương ra xem thấy vỏn vẹn một câu: "Kết lứa phượng trong mây duyên xưa đã hết, tìm non tiên trên bể dịp khác còn đâu"..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Từ Thức buồn quá, bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nói lá ngắn mà đi vào núi Hoành Sơn; rồi về sau không biết đi đâu mất biệt ==================== (1) NGUYỄn DỮ người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Hưng. Ông thuộc dòng dõi khoa bảng, có đi thi nhưng bất mãn thời cuộc không ra làm quan, ẩn cư nơi núi rừng vùng Thanh Hóạ Không có tài liệu nào cho biết Nguyễn Dữ sinh và mất năm nàọ Tuy nhiên, ngưỜi ta biết rõ ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn đồng song là Phùng Khắc Khoan; tức vào khỏang thế kỷ thứ XVI (2) Ý nói đến ông lão đánh cá đời Tấn ở Võ Lăng, đến Đào Nguyên..

<span class='text_page_counter'>(6)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×