Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Nhan Cach Va Su Giao Duc cua Duc Phat phan 3doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.94 KB, 57 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Nhân Cách Và Sự Giáo Dục của Đức Phật Thích Hải Tín chuyển ngữ. PHẦN III NHỮNG ÐẶC SẮC VỀ GIÁO DỤC CỦA ÐỨC PHẬT PHẦN 3: Những đặc sắc về giáo dục của Đức Phật I.. Nội hàm phong phú. II.. Nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và điểm xuất phát hoàn thiện. III.. Đối tượng giáo dục phổ biến. IV.. Mục tiêu giáo dục cao thượng. V.. Nội dung giáo dục thực dụng và nghiệm chứng. VI.. Nội dung giáo tài chân thật. VII.. Nội dung giáo dục chính xác. VIII. Phương pháp, tài liệu giảng dạy và khóa trình môn học viên dung IX.. Nội dung giáo dục. X.. Hoàn cảnh giáo dục và phương pháp giáo dục. XI.. Hiệu quả giáo dục nổi bậc. XII. Nội dung giáo dục cứu cánh nhất. I. NỘI HÀM PHONG PHÚ Nội dung giảng dạy của Ðức Phật, nói chung bao gồm bao nhiêu môn học? Ðây là một vấn đề rất thú vị. Theo kinh điển, chân tướng cuối cùng của vạn sự vạn vật vốn chỉ có một, Ðức Phật đã giúp cho tất cả chúng sanh căn cơ không giống nhau đều hiểu rõ chân tướng này. Do đó tùy người, tùy lúc, tùy nơi… Ðức Phật khéo dùng phương tiện giảng thuyết vô số pháp môn và đạo lý [29]. Theo kinh Phật ghi rằng, đạo lý nhiều vô hạn này có thể quy nạp lại là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì số trang của sách có giới hạn, nên không tiện nói nhiều, bây giờ chỉ kể ra những gì tương tự với các khoa mục của nền giáo dục hiện đại ngày nay. 1. SINH LÝ HỌC Tri thức sinh lý của các nước phương tây phần lớn là giải phẫu những xác chết và quan sát những xác chết từ phòng thực nghiệm mà có. Tri thức sinh lý phương đông là sau khi quan.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> sát bản thân mình trong tĩnh lặng hoặc trong thiền định mới nhận biết được. Tri thức sinh lý phương tây quan sát hướng ngoại, nghiêng về trạng thái tĩnh; tri thức sinh lý phương đông là nội tỉnh, nghiêng về trạng thái động. Tri thức sinh lý phương tây có được là do giải phẫu người đã chết, sau đó suy luận đến thân người còn sống, do đó thuộc về sinh lý học gián tiếp. Tri thức sinh lý phương đông có được là do quan sát người còn sống một cách sinh động, do đó tương đối trực tiếp và đáng tin cậy. Vì kết cấu sinh lý người chết suy cho cùng không thể hoàn toàn giống với kết cấu sinh lý người sống được. Ví dụ, người sống máu huyết tuần hoàn, nhiệt độ thân thể ấm, nội phân tiết v.v… Người chết thì không như vậy. Do nguyên nhân này, cho nên người phương đông phát hiện ra hiện tượng kỳ diệu như châm cứu, kỳ kinh bát mạch v.v… Ðiều này cũng đơn giản, vì một người ở trạng thái tĩnh, cảm giác của ông ấy nhạy bén hơn lúc bình thường nhiều. Ví dụ như chúng ta sống trong khu vực uyên náo ồn ào, thông thường chúng ta không nghe được tiếng tích tắc của đồng hồ, nhưng trong rừng núi yên tĩnh hoặc trong đêm, chúng ta có thể nghe được rất rõ ràng. Cũng vậy, sau khi một người nhập vào định rồi, người ấy có thể hiểu rõ đến chân tơ kẽ tóc mà còn cảm giác rất rõ nét những hiện tượng sinh lý và sự lưu chuyển của máu huyết trên thân mình. Theo kinh Phật ghi rằng, đối với từng bắp thịt, từng giọt máu, từng đốt xương, tủy xương… và những thành phần của nó, Ðức Phật hiểu biết rất rõ. Mỗi người có bao nhiêu sợi lông, tóc, mỗi người có bao nhiêu bắp thịt, bao nhiêu khúc xương, Ðức Phật biết rõ như lòng bàn tay. Không những như vậy, đối với sự hình thành và phát triển của một thai nhi từ khi mới thụ tinh trong bụng mẹ đến khi sinh ra, Ngài biết rất rõ. Sau đây chúng ta cử ra hai điểm trong kinh để nói. Trong kinh Niết Bàn quyển 24, thân người đại khái chia làm 36 phần. 1. Phần ngoài cơ thể có 12 loại: Tóc, lông, móng, răng, dử mắt, nước mắt, nước dãi, nước miếng, phân, nước tiểu, cáu bẩn (đất, hờm), mồ hôi. 2. Phần thân thể có 12 loại: Da ngoài, da trong, máu, thịt, gân, xương, mạch, tủy, mỡ, tinh, não, màng mỏng. 3. Phần nội hàm có 12: Gan, mật, ruột, bao tử, lá lách, thận, tim, phổi, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng. (Xem thêm Ðại Sớ Diễn Nghĩa Sao, quyển 30) Trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, từ quyển 64 đến quyển 69, Ðức Phật đều giải thích rõ ràng cho đệ tử về mồ hôi, nước tiểu, nước miếng, tủy, mỡ, số lượng tinh, các bộ xương trong toàn thân, vị trí của các loại tế bào, cho đến nguyên nhân và quá trình của các loại bệnh, thông thường vì sao con người lại mệt mỏi, vì sao cần phải ngủ, vì sao có một số người ốm o vàng vọt, hoặc tiểu tiện ra máu v.v… Ví dụ như, trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển 64, Phật nêu ra 13 loại mạch. Quyển 65 nêu ra hai vai có 4 đốt xương, xương trán có 2 đốt, xương mũi có 1 đốt, xương má có 1 đốt, xương răng có 32 đốt (32 cái răng), hàm trên có 1 đốt, răng cấm có 2 đốt, cổ có 15 đốt, hai cánh tay có 2 đốt, hai khuỷu tay có 2 đốt, xương sống có 45 đốt, xương ngực có 14 đốt, xương hai bên sườn trái phải có 12 đốt, hai đầu xương sườn bám vào xương sống mỗi đầu có 24 đốt, xương cùng một đốt, xương chậu 2 đốt, thân căn 1 đốt, hai đùi 2 đốt, hai đầu gối hai đốt, hai mắt cá 2 đốt, yết hầu 2 đốt, gót chân 2 đốt, cổ chân 2 đốt, hai bàn tay hai bàn chân hợp lại có 60 đốt, móng hai bàn tay hai bàn chân hợp lại có 20 đốt… Chỉ riêng hai bên sườn trái phải, bỏ hết da thịt sẽ có 100 sợi gân nhỏ… Từ vai đến tủy, mỗi bên có 12 thớ thịt nhỏ… Trong quyển 66 và 67 của kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Ðức Phật nói rõ đầu, yết hầu, ngực, âm hoàng, thịt, tủy xương, máu, nước tiểu trong thân thể con người có 80 loại vi khuẩn và Phật nói tỉ mỉ tình hình của chúng. Ví dụ như, trong tủy xương có 14 loại vi khuẩn như: khuẩn.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> mao, khuẩn hắc khẩu, khuẩn mất lực, khuẩn đau đớn, khuẩn buồn phiền, khuẩn màu lửa, khuẩn hạ lưu, khuẩn khởi thân, khuẩn nhớ nghĩ, khuẩn hoan hỷ. Trong máu có 10 loại khuẩn như: khuẩn thực mao, khuẩn khổng hành, khuẩn thiền đô, khuẩn đỏ, khuẩn giun đũa, khuẩn mao đăng, khuẩn tóc, khuẩn sân huyết, khuẩn trừu chứng, khuẩn thố. Trong thịt có khuẩn lở loét, khuẩn châm biếm, chuẩn bế cân, khuẩn động mạch, khuẩn da, khuẩn động chi, khuẩn hòa tập, khuẩn thối… Ðức Phật còn nói rõ con người sau khi chết 80 loại vi khuẩn này phân giải như thế nào… Trong quyển 1 kinh Tu Hành Ðạo Ðịa, tiến thêm một bước nữa, Phật chỉ ra vị trí nơi ở chính xác của 80 loại vi khuẩn. Như là, Ngài nói ở tóc có 2 loại vi khuẩn, não có 2 loại vi khuẩn, trán có 2 loại vi khuẩn, mắt có 2 loại vi khuẩn, lỗ tai có 2 loại vi khuẩn, mũi có 2 loại vi khuẩn, trong miệng có 2 loại vi khuẩn, trong răng có 2 loại vi khuẩn, chân răng có 2 loại vi khuẩn, lưỡi có 1 loại vi khuẩn, lợi răng có 1 loại vi khuẩn, yết hầu có một loại vi khuẩn, con ngươi có 2 loại vi khuẩn, phần vai có 2 loại vi khuẩn, cánh tay có 1 loại vi khuẩn, phần ngực có 2 loại vi khuẩn, phần vú có 1 loại vi khuẩn, phần sườn có 2 loại vi khuẩn, phần cột sống có 2 loại vi khuẩn, giữa lưng và ngực có một loại vi khuẩn, trong da có 1 loại vi khuẩn, trong thịt có 2 loại vi khuẩn, trong xương có 4 loại vi khuẩn, trong tủy có 5 loại vi khuẩn, trong ruột già và ruột non có 2 loại vi khuẩn, trong gan, sanh tạng, thục tạng, cốc đạo mỗi phần có 1 loại vi khuẩn, trong phân có 3 loại vi khuẩn, trong tử cung và mông đít có 2 loại vi khuẩn, lá lách, đầu gối, mắt cá, bàn chân và lòng bàn chân mỗi phần có một loại vi khuẩn.. Thú vị hơn nữa là, trong quyển 1 của kinh Tu Hành Ðạo Ðịa, có ghi rõ quá trình phát triển của thai nhi như sau: Trong tuần lễ đầu tiên, mới thụ tinh không có gì thay đổi. Tuần lễ thứ 2 (tức ngày thứ 14), thai nhi lớn lên một chút như màng sữa đặc. Tuần lễ thứ 3 (tức ngày thứ 21), giống như giọt sữa tươi. Tuần lễ thứ 4 (tức ngày thứ 28, tháng thứ nhất), đông lại như giọt sữa chín. Tuần lễ thứ 5 (tức ngày thứ 35), giống như bơ sống. Tuần lễ thứ 6 (tức ngày thứ 42), giống như cục thịt dư nhỏ xíu. Tuần lễ thứ 7 (tức ngày thứ 49), giống như cục thịt nhỏ xíu khỏe mạnh. Tuần lễ thứ 8 (tức ngày thứ 56), khỏe mạnh như phôi. Tuần lễ thứ 9 (tức ngày thứ 63, tháng thứ 2), thai nhi phát triển thành năm nhục bào, có hình dáng hai khuỷu tay, hai đùi và cổ. Tuần lễ thứ 10 (tức ngày thứ 70), thai nhi tiếp tục phát triển rõ rệt hơn, gồm hai tay, hai chân va phần đầu. Tuần lễ thứ 11 (tức ngày thứ 77), thai nhi phát triển thành 24 nhục bào, từ đó hình thành ngón tay, mắt, mũi, tai, và miệng. Tuần lễ thứ 12 (tức ngày thứ 84), 24 nhục bào tiếp tục lớn lên. Tuần lễ thứ 13 (tức ngày thứ 91, tháng thứ 3), xuất hiện phần bụng..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Tuần lễ thứ 14 (tức ngày thứ 98), hình thành phổi, gan, tim, lá lách và thận. Tuần lễ thứ 15 (tức ngày thứ 105), bắt đầu có ruột già. Tuần lễ thứ 16 (tức ngày thứ 112), bắt đầu có ruột non. Tuần lễ thứ 17 (tức ngày thứ 119, tháng thứ 4), đã hình thành bao tử. Tuần lễ thứ 18 (tức ngày thứ 126), có sanh tạng và thục tạng. Tuần lễ thứ 19 (tức ngày thứ 133), hình thành chân, tay và xương. Bàn tay, cổ chân và cánh tay đã có gân nối kết lại. Tuần lễ thứ 20 (tức ngày thứ 140), các phần xương trong cơ thể có chút hình thành, lúc này phần đầu có hai cục xương. Tuần lễ thứ 21 (tức ngày thứ 147), bắt đầu có 2 xương khoang miệng, 7 xương cổ, 2 xương đùi, 2 xương khuỷu tay, 4 xương cánh tay, 12 xương ngực, 18 xương lưng, 2 xương giao, 4 xương bánh chè, 40 xương bàn chân, 180 xương nhỏ và thịt nối lại với nhau. Trong đó có 18 xương nhỏ ở hai bên sườn, hai xương ở phần vai… tất cả có 300 khúc xương. Tất cả xương lúc này mềm mại giống như dây bầu vậy. Tuần lễ thứ 22 (tức ngày thứ 154, tháng thứ 5), các phần xương bắt đầu phát triển cứng dần lên. Tuần lễ thứ 23 (tức ngày thứ 161), xương cứng vững chắc như quả hạch đào. 300 khúc xương liên kết với nhau ngày càng chắc chắn hơn và tất cả phần xương trong cơ thể nói chung là đã hình thành. Tuần lễ thứ 24 (tức ngày thứ 168), hình thành 700 sợi gân nối kết với cơ thể. Tuần lễ thứ 25 (tức ngày thứ 175), hình thành 7000 đường mạch (bao gồm động và tĩnh mạch) nhưng chưa hoàn toàn hình thành. Tuần lễ thứ 26 (tức ngày thứ 182, tháng thứ 6), tất cả 7000 đường mạch phát triển xong, giống như những lỗ nhỏ của rễ sen vậy. Tuần lễ thứ 27 (tức ngày thứ 189), có 362 sợi gân đã thành hình. Tuần lễ thứ 28 (tức ngày thứ 196), bắp thịt bắt đầu phát triển. Tuần lễ thứ 29 (tức ngày thứ 203), bắp thịt lớn dần. Tuần lễ thứ 30 (tức ngày thứ 210, tháng thứ 7), bắt đầu hình thành phần da. Tuần lễ thứ 31 (tức ngày thứ 217), phần da phát triển dày hơn. Tuần lễ thứ 32 (tức ngày thứ 224), phần da càng ngày càng chắc chắn. Tuần lễ thứ 33 (tức ngày thứ 231), lỗ tai, mũi, các khớp xương ngón tay và đầu gối đã phát triển xong. Tuần lễ thứ 34 (tức ngày thứ 238, tháng thứ 8), phần da phát triển 990 nghìn lỗ chân lông, nhưng lỗ chân tóc vẫn chưa hoàn thành..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Tuần lễ thứ 35 (tức ngày thứ 245), lỗ chân tóc đã hoàn toàn hình thành. Tuần lễ thứ 36 (tức ngày thứ 252), bắt đầu có móng tay. Tuần lễ thứ 37 (tức ngày thứ 259), tai, mắt, mũi, miệng đều thông với nhau. Màu của da và tóc cũng đã rõ ràng. Tuần lễ thứ 38 (tức ngày thứ 266), thân thể và khớp xương của thai nhi đã thành hình người. Trong đó những phần tương đối mềm (như: tóc, lông, má, mắt, lưỡi, yết hầu, tim, gan, lá lách, thận, ruột, máu) được di truyền từ người mẹ, cho nên tương đối giống mẹ. Ngược lại những phần tương đối cứng (như: móng, răng, xương, tủy, não, gân, mạch…) được di truyền từ người cha, cho nên tương đối giống cha.. Nếu thai nhi là đứa bé trai, khi chưa sanh thì lưng hướng ra ngoài và mặt hướng về mẹ, thai nhi là bé gái thì lưng hướng về mẹ và mặt hướng ra ngoài, lúc chuẩn bị sanh thì lại chuyển thân, phần đầu sanh ra trước.. 2. ÐỊA LÝ HỌC Phương thức giáo dục của Ðức Phật là dùng phương thức “du hóa”. Cái gọi là du hóa, chính là làm công tác giáo dục không có cố định ở một chỗ, mà là du lãm rất nhiều nơi, tùy theo tư chất bẩm sinh và cá tính thói quen mà đưa ra một phương pháp và giáo tài giảng dạy thích hợp.. Lúc du hóa, một mặt Thầy giáo có thể nghiệm chứng tri thức địa lý mà mình đã có, mặt khác có thể tiếp xúc những địa hình địa vật mới, làm tăng thêm những điều tai nghe mắt thấy của chính Thầy giáo. Vả lại có thể giáo hóa càng nhiều học sinh và gặp nhiều hạng học sinh khác nhau, vì vậy tương đối thỏa mãn nguyện vọng giáo dục của Thầy giáo. Ðồng thời, không khí quan hệ Thầy trò có thể sẽ vì phong cảnh du lãm khắp nơi mà cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và vui vẻ hơn. Lợi thế lớn nhất của việc du hóa có lẽ chính là bất cứ chỗ nào, lúc nào Thầy giáo cũng có thể lợi dụng địa hình địa vật mới để giáo dục học trò, vì vậy dễ thu được hiệu quả giáo dục hơn. Do những nguyên nhân như vậy, cho nên từ xưa đến nay có rất nhiều nhà giáo dục vĩ đại, đều dùng phương thức du hóa để giáo dục đệ tử. Ví dụ như Ðức Phật, Khổng Tử, Jesu… đều là những người giỏi về du hóa. Vì du hóa giúp cho người làm giáo dục nhận thức hoàn cảnh địa lý và bối cảnh nhân văn thực tế dễ nhất. Sở dĩ Thầy giáo dùng phương thức giáo hóa là vì tri thức địa lý rất phong phú. Ðức Phật là một ví dụ rất tốt. Sau đây chúng ta xem Ðức Phật đem tri thức địa lý dạy cho đệ tử như thế nào: “Phật bảo Ca Diếp rằng: Này thiện nam tử! có tám con sông lớn và nhiều con sông nhỏ đều chảy vào biển. Tám con sông lớn này là sông Hằng (Hằng hà), sông Diêm-ma-la, sông Tátla, sông A-di-la-bạt-đề, sông Ma (Ma hà), sông Hạnh-đầu, sông Bác-xoa, sông Tất-đà” (Phẩm Trường Thọ kinh Niết Bàn) “Hướng đông có một châu, tên gọi là Phất-hoa-đà-đề” (Phẩm Tứ Châu kinh A-hàm).

<span class='text_page_counter'>(6)</span> “Ngoài ra còn có một châu nữa, gọi là Câu-da-ni. Châu này có một con sông thẳng tắp, tên là Sa-bà-da (dịch âm là Kim sa hà, tức là sông Cát vàng). Con sông này cuối cùng chảy vào Tây hải” (kinh Niết Bàn quyển 10) Ðây chỉ là ba ví dụ đơn giản. Vì dạy học về phương diện địa lý, trong kinh Phật ghi rất rõ, nói cũng không nói hết. Ví dụ, quyển 68 của kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Ðức Phật bảo đệ tử làm thế nào quan sát kỹ càng mười ngọn núi cao của nước Uất-đơn-việt: Núi Tăng-già-xa, núi Ðẳng phong, núi Vật-lực-già, núi Bạch vân trì, núi Cao tụ, núi Phổ man, núi Thời tiết lạc, núi Trì hoan hỷ, núi Như ý, núi Câu-xa-da-kim. Trong quyển 69 của kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Ðức Phật nói cho đệ tử biết trong mười ngọn núi này có sông ngòi, ao hồ, hoa quả, chim thú, rừng rậm, khe núi, hang đá… Riêng ngọn núi thứ nhất (Tăng-già-xa), Phật nói có 4 khu rừng rậm lớn, 60 loại cây cùng với tên gọi và hình dáng của 70 con sông lớn. Ngọn núi thứ hai (núi Ðẳng phong), Phật chỉ ra 47 cái ao hồ và những loại hoa cỏ trong ao. Tiếp theo Phật lại nói có 16 hồ đẹp nhất, toàn là hoa. Từ trong đoạn kinh sau đây, chúng ta có thể thấy Ðức Phật quen thuộc địa lý và năng lực miêu tả rất tỉ mỉ, kỹ càng. Nhưng Ngài chỉ miêu tả một phần nhỏ của ngọn núi thứ chín trong mười ngọn núi cao mà thôi: Núi Như ý dài … km, trên núi thường có một nhóm thiếu nữ tụ lại cùng nhau ca hát, trong đó có một thiếu nữ có tiếng hát rất dịu dàng, êm tai. Trong núi có rất nhiều hồ hoa, những khe núi rất rộng, hai bên bờ sông bờ suối có mấy vườn hoa và rừng cây. Cánh rừng thứ nhất là rừng Chi-đa-chi, rừng thứ hai là rừng Long lâm, thứ ba là rừng Na-lê-chi-la, thứ tư là rừng Bana-sa, thứ năm là rừng Khư-la, thứ sáu là rừng Am-ba, thứ bảy là rừng Vô-già, thứ tám là rừng Kim-tỳ-la, thứ chín là rừng Ca-ti-tha, mười là rừng Khổng tước, mười một là rừng Câu-si-la, mười hai là rừng Hà trì, mười ba là rừng Liên hoa, mười bốn là rừng Ưu-bát-la, mười lăm là rừng Tân-đầu-ba-lợi-đa, mười sáu là rừng Cưu-la-bà-ca, mười bảy là rừng Mạng mạng điểu, mười tám là rừng Ða-la. Những cánh rừng này có rất nhiều sinh vật quý hiếm. Thông thường người nào nghe được tiếng hát của những thiếu nữ trong núi, cảm thấy vui vẻ, hoan hỷ lưu luyến đến nỗi quên trở về. Khi những đàn chim đang vui hót líu lo hoặc đang ăn những trái cây ngon, vừa nghe được tiếng hát của những thiếu nữ, những đàn chim kia đều dừng những hoạt động của chúng lại, yên lặng lắng nghe những giai điệu tuyệt vời. Ngay những con ong mật đang bay, khi nghe được những âm thanh này cũng đều dừng lại... Trong ao sen xanh có rất nhiều bạch nga (ngỗng trắng), màu sắc trắng trong xinh đẹp… Trong ngọn núi này có nhiều khoáng vật quý báu như vàng, bạc, đồng, sắc, thủy tinh, mã não… Trong rừng có những đàn mi lộc, khổng tước, chim mạng mạng v.v… Những người ở trong khu rừng này thường cùng nhau sinh sống rất hòa hợp, vui vẻ, hạnh phúc. Tong rừng này còn có một vật đáng yêu nữa, đó là ánh sáng mặt trời… (Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ quyển 70) Từ những gì đã nói trên, chúng ta có thể biết, Ðức Phật miêu tả địa hình địa vật một cách rất rõ ràng. Trong kinh điển cũng có nói đến khoáng sản. Ví dụ như trong quyển 35 luận Ðại Trí Ðộ có nói đến một Châu, trong châu này có rừng Diêm phù thọ, trong rừng có sông, dưới đáy sông có cát vàng, gọi là vàng Diêm-phù-đàn. Lại có Phật điển nói đến hồ A-nậu-đạt trên dãy núi Phật mẫu Hỷ-mã-lạp-á. Hồ này ở trên cao 5115 mét (15500 xích) so với mực nước biển. Nước trong hồ này thông qua các khe núi quanh co, chảy ra bốn sông lớn, một con sông có vàng, một con sông có đá kim cương, một con sông có đá quý màu đỏ và một con sông có lưu ly. Bốn con sông này bắt nguồn từ sông Hằng. Ði dọc theo bờ tây của sông Hằng khoảng mười mấy dặm, theo hướng đông bắc của thành Ba la khu nước Diên Hộ chính là vườn Lộc Uyển mà Phật đã từng thuyết pháp. (Xem thêm Pháp Hiển Phật Quốc ký).

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Tóm lại, chúng ta phát hiện Ðức Phật là một nhà địa lý học vĩ đại trong lịch sử. Vì từ trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ chúng ta có thể thấy: Trong một quốc gia có bao nhiêu dãy núi và sông ngòi. Trong núi có những bộ lạc nào, có những khu rừng nào và có những ao hồ gì. Trong rừng có bao nhiêu loài cây, hoa, cỏ và động vật. Trong ao hồ có những vật gì. Núi cao bao nhiêu, rộng bao nhiêu. Tình hình phân bố của núi và sông ngòi ra sao v.v... Ðức Phật đều rõ như lòng bàn tay. 3. BÁC VẬT HỌC (KHOA VẠN VẬT HỌC) Nghiên cứu Phật học chúng ta có thể biết thêm danh xưng của nhiều động vật, thực vật và khoáng vật. Vì trong kinh Phật có nói đến nhiều loài động vật, thực vật và khoáng vật. Ở đây chúng ta chỉ nói khái quát mà thôi. Ví dụ như, trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ quyển 69, Ðức Phật dạy đệ tử làm thế nào quán sát các loài hoa cỏ và cây quý ở núi Thời lạc nước Uất Ðơn Việt. Ðức Phật chỉ nói đến hoa, là có hơn 75 loại. Hoa nở vào đầu mùa đông có đến 15 loại: Hoa bất hợp, hoa kiên, hoa đông, hoa phong phúc, hoa ba-khư-la, hoa thiện hương, hoa vô diệp, hoa áp âm, hoa đệ nhất, hoa khả ái, hoa lương lãnh cụ túc, hoa thâm sanh, hoa dạ khai, hoa đệ nhất kiên, hoa mặt trời. Hoa nở vào giữa mùa đông và đầu mùa xuân có 23 loại: Hoa bách diệp, hoa điểu ái, hoa thường khai, hoa đỏ, hoa ba-na-thường, hoa ni-chi-lam, hoa hà ngạn sanh, hoa quật sanh, hoa adi-trà-ca, hoa câu-vật-đà, hoa bất hợp, hoa vô ưu, hoa chân-thục-ca, hoa thanh vô ưu, hoa tamma-chá, hoa phong hoàn, hoa đa hương, hoa cứu-la-ba-ca, hoa bát-ma-ca, hoa bát-đầu-ma, hoa cưu-la-ba-ca, hoa a-đề-mục-ca, hoa sen. Hoa nở giữa mùa xuân có 18 loại: Hoa chiêm bồ, hoa tô-ma-na, hoa thiện sắc tập, hoa đồ-ma-la, hoa hương, hoa phong liên, hoa âm cơ hương, hoa thi-lợi-sa, hoa đỏ, hoa đẳng hương, hoa thường hương, hoa đam-sa-la-vị, hoa phong trà, hoa bách diệp, hoa úy nhật, hoa chư-lan-đế, hoa hộ sắc, hoa xà-trí-la. Hoa nở vào đầu mùa hạ có 21 loại: Hoa chi-đa-ca, hoa cưu-tra-xà, hoa xa-đa-ba-hy-nhị, hoa ca-đàm-ba, hoa cập-chu-la, hoa do-đề-ca, hoa tô-ma-na, hoa lưỡi rồng, hoa vô văn ái lạc, hoa thiện vị, hoa thiện hương, hoa phổ diệp, hoa nhất thiết nhiếp thủ, hoa chuyển, hoa tị cảnh giới, hoa ngũ diệp, hoa ái vũ, hoa ái quán, hoa đồ-ma, hoa thủy lưu, hoa tuyết sắc. Ngoài ra còn có 19 loại hoa nở vào giữa mùa hạ: Hoa tiếu, hoa tô-ma-na, hoa thườngchiêm-bặc, hoa lâm sanh, hoa hư không chuyển, hoa dạ khả ái, hoa nhất thiết phương, hoa lưu, hoa du hý địa, hoa lạc, hoa sơn cốc, hoa lăng sanh, hoa ca-đàm-bà, hoa ti-dương-ca, hoa nga hoàn, hoa tu-lưu-tỳ, hoa đa-ma-la-ba, hoa tiểu, hoa mặt trăng. Tong quyển kinh này, Ðức Phật nói đến núi Tăng-ca-xa có 60 loài cây quý: Cây ban diệp, cây long hoa, cây am-ba-la, cây câu-hoa-đà-la, cây ba-la, cây hỷ ái, cây điểu tức, cây ba-lađa-la, cây xa-ma, cây ni-sa-tỳ-đà, cây chu-đa, cây ca-la, cây úy-la-ca, cây kỳ-lân-đà, cây ba-cưula, cây hỷ hương, cây kiều lạc, cây hề-đa-la, cây đa-ma-la, cây cưu-la-ca, cây thanh hương, cây nguyệt luân, cây diệu hạnh, cây thường khai phu, cây ni-quân-luân, cây khai, cây a-thấp-ba-tha, cây chân-thục-ca, cây xa-ma-lê, cây dương liễu, cây úy-la, cây ca-ti, cây na-lê-chi-la, cây ba-naba, cây vô già quả, cây hoa a-thù-na, cây ca-đàm-ba-la, cây nê-chu-la, cây thiên mộc hương, cây thừa nhiếp, cây hoa thủy sanh, cây hoa mạn-đà-la, cây hoa câu-xa-da-xá-thọ, cây hoa kim sắc, cây hoa ngân sắc, cây úy lưu ly, cây khổng tước chỉ tức, cây dị xứ hành, cây châu sanh, cây cala-xa-hợp, cây ba-ca-xa, cây hỗ tương ánh hậu, cây hoạt, cây kiên sanh, cây nhân-đà-la-trường, cây ngạn sanh, cây hạng sanh, cây san hô, cây cưu-ma-tu, cây khổn, cây ứng thời sanh, cây yên.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> sắc, cây chứng minh, cây phong động, cây chuối, cây câu-sí-la-lạc, cây tán hoa, cây hoa vị phú, cây khai-điểu-di-la, cây đầu-đầu-ma, cây phong hoàn, cây phụ phong, cây lương phong, cây động dao, cây vô ưu. Tiếp theo Ðức Phật nói đến tên gọi, tính chất và nhân duyên nở hoa của 12 loại hoa ở núi Man trang nghiêm. Trong rừng núi có 19 loại chim: Chim diệu thinh, chim hồng, chim bà-ca, chim vàng, chim bạch yên, chim già-sa, chim ma-đầu-cầu, chim uyên ương, chim ba-ba, chim hạc, chim a-giai, chim ba-la-sa, chim đề-di-la, chim ba-cầu, chim thời, chim dạ hành, chim lạcbát-đầu ma-ha-buộn, chim-tân đầu-ba, chim thủy ba. Trong quyển kinh này cũng nhắc đến những con: ong mật, ngỗng (ngang), vịt, uyên ương, trâu, dê, heo, chó, dã cô,voi, ngựa, lừa, cọp, gấu, sư tử, báo, anh vũ, khổng tước, cá đề-di, cá đề-di-nghê-la, cá quân-úy-la, cá na-ca-la, cá trạnh, ốc, cá thất-quyền-ma-la v.v… Bút giả cảm thấy kinh Phật có lúc nói quá tỉ mỉ về các sự vật, ví dụ như hoa sen có bốn loại: hoa sen xanh (tiếng Phạm là ưu-bát-la hoa), hoa sen vàng (câu-vật-đầu), hoa sen đỏ (bađầu-ma) hoa sen trắng (phân-đà-lợi). Có lúc nói rất thú vị, ví dụ như: cỏ kiết tường, trái không hoa (bút giả có một người bạn đã ăn qua loại trái cây này rồi, ông ấy nói ăn rất ngon), chim diệu thinh… Núi tuyết có cỏ phì nhị, bò ăn vào sẽ cho sữa giàu chất đề hồ (quyển 8 kinh Niết Bàn). Có lúc nói rất thực dụng, ví dụ như nói: trái a-vị-la hình bầu dục, lớn như trái lê, vị của nó vừa chua vừa ngọt, có thể làm thuốc trừ phong tà; có hoa màu trắng nhỏ, lá giống như lá táo chua. Lá cây đa-la vừa dài vừa rộng, giống như lá cây cọ vậy, sau khi khô có thể viết chữ (Tây Vực ký, quyển 11). Bỏ đi phần đuôi của loại lá cây này, giữ lại thân lá, có thể dùng làm quạt (Du Già luận ký, quyển 7). Trái cây đa-la giống như trái lựu vậy, vị ngon vừa miệng, bông hoa vừa trắng vừa lớn (Huyền Ứng Âm Nghĩa, quyển 24) Trong kinh Phật cũng nói đến rất nhiều khoáng vật, ví dụ như nói về đá kim cương, Ấn Ðộ là quốc gia phát hiện đá kim cương sớm nhất trên thế giới. Trong kinh Phật thường nói đến tính chất của kim cương rất chắc chắn, luyện mãi không chảy, có thể dùng để cắt các loại đá quý khác (Ðại Tạng Pháp Số, quyển 41). Nhưng đem kim cương để trên mu rùa, sau đó dùng sừng dê núi gõ thì kim cương sẽ vỡ ra (luận Ðại Trí Ðộ, quyển 31). Ngoài ra trong kinh Phật cũng thường nói đến đá thạch anh, mã não (tiếng Phạm gọi là mâu-sa-lạc hoặc xa-cừ), duyên bảo châu (ma-la-ca-đà, trong quyển 10 luận Ðại Trí Ðộ nói, duyên bảo châu này có thể trừ tất cả chất độc) v.v… 4. THIÊN VĂN HỌC Kinh Ðại Lâu Thán (còn có tên là kinh Khởi Thế) nói về sự thành hoại của thế giới. Kinh Túc Diệu nói đến sự vận hành của thất diệu (mặt trời, mặt trăng, sao đều gọi là diệu) và quan hệ với con người: mặt trời (tiếng Phạn: Aditya; phiên âm: A-di-để-da), mặt trăng (tiếng Phạn: Soma; phiên âm: Tô-ma), sao hỏa (tiếng Phạn: Angalaka; phiên âm: Ang-nga-la-ca), sao thủy (tiếng Phạn: Bubha; phiên âm: Bộ-đà), sao mộc (tiếng Phạn: Bshaspati; phiên âm: Vậtli-ha-bà-phả-để), sao kim (tiếng Phạn: Sukra; phiên âm: Tuất-kiệt-la), sao thổ (tiếng Phạn: Sanaiscara; phiên âm: Xa-nãi-dĩ-thất-chiết-la) Luận Câu Xá miêu tả sự chuyển động của đất dựa vào sự chuyển động của nước, sự chuyển động của nước dựa vào sự chuyển động của gió, sự chuyển động của gió dựa vào sự.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> chuyển động của không khí. Ðiều này nói lên trái đất hình tròn, xung quanh trái đất đều có hơi nước, ngoài phạm vi hơi nước là tầng khí quyển, bên ngoài tầng khí quyển là bầu trời. Ngoài ra, luận Câu Xá còn nói đến trái đất hình thành từ rất lâu về trước (tiểu kiếp thứ nhất của kiếp thành), khi nào mới có con người hoặc sinh vật xuất hiện (tiểu kiếp thứ 19 của kiếp thành), hiện nay là tiểu kiếp thứ 9 của kiếp trụ, trái dất sẽ hoại diệt vào tiểu kiếp thứ 20 của kiếp hoại. Và mỗi tiểu kiếp là 16 triệu 8 trăm ngàn năm (16.800.000) v.v… Trong quyển 10 của luận Ðại Trí Ðộ có nói đến đường kính của trái đất và khoảng cách giữa mặt trăng và trái đất. Mười hai cung trong Kinh Mật Thiết và kinh Túc Diệu nói, về mặt cơ bản thì tương đồng với lý luận về phương hướng và vị trí của thiên văn học hiện đại. Chòm sao ở hướng đông gồm cung Song nữ, cung Bạch dương, cung Ngưu; chòm sao ở hướng tây gồm cung Thiên xứng, cung Hạt, cung Cung; chòm sao ở hướng nam gồm cung Bảo bình, cung Song ngư, cung Ma kiệt; chòm sao ở hướng bắc gồm cung Cự giải, cung Sư tử, cung Thất nữ. Hai mươi tám chòm sao trong phẩm Tinh Tú Nhiếp Thọ quyển 56 kinh Ðại Tập và thiên văn học hiện đại cũng ăn khớp với nhau. Bảy chòm sao ở hướng tây là sao Khuê, sao Lâu, sao Vị, sao Ngang, sao Tất, sao Tư, sao Sâm. Bảy chòm sao ở hướng nam là sao Tỉnh, sao Quỷ, sao Liễu, sao Tinh, sao Trương, sao Dực, sao Chẩn. Bảy chòm sao ở hướng đông là sao Giác, sao Cang, sao Thị, sao Phòng, sao Tâm, sao Vĩ, sao Cơ. Bảy chòm sao ở hướng bắc là sao Ðẩu, sao Ngưu, sao Nữ, sao Hư, sao Ngụy, sao Thất, sao Bích. Vì liên quan đến số trang của sách, không tiện nói hết các tên của các sao bằng tiếng Phạn, xin chư độc giả lượng thứ! Ðức Phật không tán thành việc dùng các sao để đoán định vận mạng của một người. Vì người sinh ra cùng một sao vẫn có sự giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu… khác nhau rất nhiều. Vả lại số tử vi và sự phát triển tâm trí không có liên quan gì với nhau, cho nên Phật không tán thành những đệ tử bình thường học tướng số. Chỉ có đệ tử chứng Thánh quả Bồ tát hoặc La-hán vì độ chúng sanh, có thể học thuật xem tướng sao hạn. Do đó kinh Phật nói:[30] “Chúng sanh hôn ám tâm trí, thường bị phiền não bó buộc, vì vậy họ nghĩ rằng thông qua thuật xem sao xem tướng để hướng đến điều lành tránh điều dữ. Học xem sao xem tướng, tuy tốt nhưng vẫn không giải thoát được phiền não sanh lão bệnh tử. Vả lại, những người cùng một sao sinh ra vẫn có giàu nghèo, trí ngu, đẹp xấu… khác nhau, cho nên Ta nói tinh tướng học không phải là chắc chắn” Trong phẩm Phạm Hạnh kinh Niết Bàn cũng có ghi: Ðức Phật không chọn người thông qua sao hạn và giàu nghèo. “Phật không xem trọng dòng giống, già trẻ, giàu nghèo, ngày tháng năm sinh… mà coi trọng tâm địa tốt xấu của chúng sanh. Vì một người có tâm tốt sẽ có hành vi từ bi cao thượng” Về tư liệu tinh tú khác, hãy đọc thêm Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Túc Diệu Nghi Quỷ, Thất Tinh Như Ý Luân Bí yếu kinh. 5. LỊCH SỬ HỌC Theo bút giả mục đích chủ yếu học lịch sử không phải ở chỗ ghi nhớ những nhân danh và địa danh vụn vặt, mà là học được những nguyên lý và tinh thần. Xuyên qua thông hiểu nguyên lý và tinh thần, chúng ta có thể tăng thêm những điều mắt thấy tai nghe, phát hiện những quan hệ nhân quả của những hiện tượng và quy luật thay đổi, mà còn có thể áp dụng vào xã hội hiện thực của cuộc sống, có lợi ích thật sự đối với cuộc sống, thậm chí đối với tương lai, có tác dụng xem gương người trước để biết tương lai. Bằng không chỉ học thuộc những tình tiết vụn vặt, những.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> nhân vật không đáng, những địa danh cũ kỹ lỗi thời, không có tác dụng gì đối với cuộc sống hiện thực, như vậy sẽ mất đi ý nghĩa học lịch sử rồi. Ðức Phật là một Giáo sư lịch sử vĩ đại. Từ Bổn Duyên Bộ trong Ðại Tạng kinh, chúng ta có thể hiểu rõ: Phật khéo đem những sự tích lịch sử trình bày một cách sinh động cho học trò thưởng thức. Trong quá trình thuyết giảng lịch sử, mỗi mỗi phần Phật đều nắm vững trọng điểm, nguyên lý và tinh thần và tiến hành phát huy một cách tinh tế, miêu tả toàn bộ câu chuyện rất xúc động lòng người. Xưa nay chưa có một vị đệ tử nào sau khi nghe Phật thuyết giảng cố sự xong mà không reo hò khen hay hoặc không cảm động. Trong quá trình dạy học của Phật, lịch sử chiếm một trọng lượng rất nặng. Tất cả kinh về phương diện lịch sử trong Ðại Tạng kinh có hơn mấy trăm bộ. Bồ tát Long Thọ đã từng đem tính chất kinh điển của Phật thuyết phân làm mười hai đại loại trong quyển 33 luận Ðại Trí Ðộ mà Ngài trước tác, trong đó về phương diện lịch sử chiếm hết ba loại: Phần thứ nhất thuộc về phương diện “nhân duyên” (tiếng Phạn: Nidana; phiên âm: Niđà-na)—Phật nói rõ cho đệ tử biết nhân duyên Phật thuyết pháp giáo hóa và nhân duyên chúng đệ tử theo Phật nghe pháp. Ví dụ, “Phẩm tự” hoặc “phần tự” của các bộ kinh. Phần thứ hai thuộc về “Bổn sự” (tiếng Phạn: Itivrtake; phiên âm: Y-đế-mục-đa)—Phật nói rõ những hành vi, phát triển và kết quả trong đời quá khứ của đệ tử. Ví dụ như phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa… Phần thứ ba thuộc về phương diện “Bổn sanh” (tiếng Phạn: Jataka; phiên âm: Ám-đa-ca) —Tức Phật nói những nguyện vọng, hành vi, phát triển và kết quả của Phật trong quá khứ. Ví dụ như kinh Di Lặc Sở Vấn Bổn Nguyện, kinh Bách Duyên… Bút giả cảm thấy, phần lớn những câu chuyện lịch sử trong kinh Phật đều rất cảm động lòng người, văn tự hay và lưu loát, có giá trị giáo dục rất cao. Rất tiếc người giới thiệu nó lại không nhiều. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều tác giả dịch những kinh về phương diện lịch sử (Phật kinh cố sự) để cống hiến quý độc giả. 6. TRIẾT HỌC Trước đây có rất nhiều học giả tranh luận: Phật học có phải là triết học hay không. Có học giả kiên quyết cho là phải, có học giả cho là không phải. Bút giả cho rằng mỗi người đều có ý kiến riêng của mình, mỗi người chấp một bên. Trước khi thảo luận vấn đề “Phật học có phải là triết học hay không”, trước hết chúng ta phải xác định định nghĩa “triết học”. Về định nghĩa triết học, đại thể chia làm hai nhóm như sau: 1. Nhóm học giả thứ nhất: Russell là một nhà triết học người Anh, cho rằng đối tượng triết học nghiên cứu là vấn đề mà con người không thể nào dùng cảm quan để xác định hoặc chứng minh. Vì một nghiên cứu nào đó có thể đạt được tri thức chính xác hoặc bị chứng minh, thì nó sẽ thoát ly khỏi phạm vi triết học và trở thành một môn khoa học độc lập. Ví dụ, nghiên cứu có liên quan đến thiên văn, thời Hy lạp cổ xưa đã từng bao gồm trong phạm vi triết học, hiện nay đã thuộc về phạm vi thiên văn học. Quyển trước tác nổi tiếng của Newton “Nguyên lý toán học của triết học tự nhiên” (The Mathematical Principles of Natural Philosophy), lúc ấy được xem là một tác phẩm triết học, hiện nay lý luận của nó đã được chứng minh và đã đưa vào phạm vi vật lý học. Vì vậy phái học giả này định nghĩa triết học là: Hệ thống tri thức đạt được, sau khi tiến hành khảo sát phê phán những quan niệm không thể nghiệm chứng hoặc vấn đề không có đáp án chính xác. Và nhiệm vụ của triết học ở chỗ: Vì ham học hỏi mà tìm tòi tri thức, dẫn dắt nhân loại suy nghĩ, tìm tòi vấn đề mà không có cách nào giải quyết, nhắc nhở con người nhận.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> thức tính quan trọng của những vấn đề này, nghiên cứu các ý kiến có thể giải quyết vấn đề, duy trì hứng thú của nhân loại tiến hành suy nghĩ suy lý đối với vũ trụ, làm phong phú sức tưởng tượng của con người, và khiến cho chúng ta không đến nỗi quá độc đoán, vì độc đoán luôn luôn khiến cho tâm linh của chúng ta không cách nào suy lý một cách khách quan và tiếp nhận chân lý một cách khiêm tốn. Ðồng thời, trong quá trình suy tư mở rộng thêm hành vi của chúng ta và lòng yêu mến đối tượng, giúp chúng ta trở thành một công dân của vũ trụ và thoát ly khỏi nguyện vọng nhỏ hẹp và sợ hãi. (xem thêm: Nhiệm Vụ của Triết Học, do nhà triết học Russell trước tác) Chủ trương của bốn nhà triết học sau đây cũng tương tự với Russell: Nhà triết học Herbart cho rằng triết học là chỉnh lý (sự tổ chức lại) khái niệm (The philosophy is the concept reorganization). Nhà triết học Dilthey cho rằng triết học là sự hiểu biết thế giới quan (The philosophy is the world outlook knowledge) Nhà triết học Windelband cho rằng triết học là một loại tri thức phê bình (The philosophy is one kind of criticism knowledge) Nhà triết học Jaspers cho rằng triết học là mạo hiểm xâm nhập vào trong phạm vi mà bản thân con người không thể bước vào (The philosophy is the risk invades in the scope which human itself may not step truly ) Nếu khi chúng ta dùng những định nghĩa triết học trên đây, thì Phật học không phải là triết học. Vì theo kinh Phật, tất cả giáo pháp Ðức Phật đã nói đều là chân thật bất hư, mà còn có thể nghiệm chứng. Bất kỳ ai thực sự làm theo lời chỉ dạy của Phật, mỗi người có thể nghiệm chứng được tính chân thật của nó. Và chân lý mà các bậc Thánh trong mười phương thế giới từ cổ chí kim đã chứng, đã nói hoàn toàn giống nhau[31]. “Ðức Phật đã thấy rõ bản thể và chân tướng của tất cả sự vật. Vì Ngài hiểu rõ một cách triệt để, cho nên mới đem những gì Ngài biết được nói cho người khác biết. Ðức Phật luôn nói đúng như thật” (Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển 1) Ðối tượng Phật học nghiên cứu không phải là vấn đề hay khái niệm không có đáp án rõ ràng. Mà là giúp con người đạt được trí tuệ cao thượng và chân lý an lạc hạnh phúc mãi mãi, để đoạn trừ những phiền não và những đau khổ sanh tử của con người. “Giáo pháp của Ðức Phật là chính xác nhất, thực dụng nhất, tinh túy nhất và hoàn thiện nhất. Nó giống như cam lồ và đề hồ ngon nhất (đề hồ là giai phẩm do chắt lọc nhiều lần từ sữa tươi). Vì Phật pháp có thể hướng dẫn chúng sanh đạt được cảnh giới vĩnh hằng, bất sanh bất diệt mãi mãi (Phật Ðịa Luận). 2. Nhóm học giả thứ hai: Vẫn cho rằng triết học là một loại kiến thức truy cầu chân lý, đức hạnh và hạnh phúc. Ví dụ, nhà triết học, nhà giáo dục nỗi tiếng thời cổ Hy lạp Plato và nhà triết học Aristotle đều cho rằng triết học và khoa học hoàn toàn không có khác nhau nhiều (The philosophy and the science certainly do not have the big difference) Nhà triết học Stoics cho rằng triết học là học vấn truy cầu đức hạnh (đạo đức và phẩm hạnh) (The philosophy is pursues moral and the conduct knowledge) Nhà triết học Epicurus cho rằng triết học là ngành học vấn truy cầu hạnh phúc (The philosophy is the pursue happy knowledge).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Phái kinh nghiệm luận, như Hobbes cho rằng triết học là ngành học vấn nghiên cứu nguyên nhân và kết quả (The philosophy is studies the reason and the result knowledge) Phái lý tính luận, như Descartes, Spinoza, Leibniz, Wolff cho rằng triết học là ngành học nghiên cứu thảo luận nguyên lý căn bản, là tri thức của tri thức (The philosophy is the discussion basic principle knowledge, is in the knowledge knowledge) Nhà triết học Kant cho rằng triết học là nhận thức lý tính thuần túy (The philosophy is the pure rational understanding) Nhà triết học Hegel cho rằng triết học là tri thức tuyệt đối (The philosophy is the absolute knowledge) Nhà triết học Wundt cho rằng triết học là một loại tri thức phổ thông, nó dùng một khoa học cá biệt làm môi giới, và trở thành một hệ thống không mâu thuẫn (The philosophy is one kind of ordinary knowledge, it makes the medium by the individual science, but becomes a set not to have the contradictory system) Khi chúng ta dùng những định nghĩa triết học vừa nói trên, và chủ trương triết học là ngành học vấn nghiên cứu chân thiện mỹ, chúng ta có thể thấy Phật học là một loại triết học. Vì Phật học là chân thật bất hư, đồng thời Phật học đối với quan hệ giữa người và người, cho đến giữa người và thiên nhiên rất hài hòa, có sự giúp đỡ lẫn nhau vô hạn. Phật học là một pháp thuần thiện, vì Phật học là một môn học nghiên cứu như thế nào để mưu cầu đem lại lợi ích cho toàn nhân loại và những sinh vật khác. Phật học mang đến cho con người cảm nhận tốt nhất, vì Phật học giúp cho con người sống một cuộc sống nhẹ nhàng, an lạc và hạnh phúc.. Các chủ đề nghiên cứu thảo luận trong kinh Phật đối với triết học hiện đại đều có cách nhìn hợp lý. Như là có liên quan đến phương diện nhận thức luận: Vấn đề đúng sai của tư tưởng hình thức (tức nguyên tắc học hay nguyên lý học), vấn đề thật giả của bản chất tư tưởng, tính khả năng của nhận thức, phương pháp và bản chất; có liên quan đến phương diện giá trị luận: Giá trị đạo đức, giá trị về cái đẹp và nhiệm vụ giá trị của tôn giáo, bản chất, phân loại và thực hiện; có liên quan đến phương diện thật thể luận: Bản thể của vũ trụ là gì, bản chất của cuộc sống (sinh mạng) và vật chất là gì, như thế nào là thế giới quan chính xác… Những vấn đề này trong kinh Phật đều nói đến. Ðộc giả nếu có hứng thú, có thể tìm đọc quyển Triết Học Phật Giáo hoặc Phật Giáo Triết Học Thông Luận. Sau đây chúng ta đưa ra vài ví dụ để nói sự liên quan giữa Phật học và triết học: “Chân như” của Phật giáo rất giống với “lý niệm” (Idea) của Plato; “thực thể” (tiếng Hà Lan: Substaontia; tiếng Anh: Entity) của Spinoza; “Vật tự thể” (tiếng Ðức: Ding as sich; tiếng Anh: Thing from body) của Kant; “tuyệt đối” của Schelling; “lý tính” của Hegel; “thực tại”(tiếng Ðức: Des Real; tiếng Anh: Really) của Herbart. Ví dụ như Plato phân chia thế giới thành thế giới hiện tượng và thế giới lý niệm, thế giới lý niệm là cái bóng của thế giới hiện tượng. Cho nên thế giới hiện tượng thay đổi không ngừng, là giả; thế giới lý niệm mới là thật, mới là căn bản của vạn hữu vũ trụ. Ðức Phật cho rằng tất cả thế giới vật chất đều là tướng bên ngoài của thế giới tâm linh (chân như), do thế giới tâm linh hiện ra, thế giới vật chất thì phát triển liên tục theo thứ tự thành trụ hoại không, tất cả hiện tượng vật chất đều biến đổi vô thường. Duy chỉ có chân như là bất sanh bất diệt, vô thủy vô chung, vĩnh cửu bất biến..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Hegel cho rằng tất cả vật chất trong vũ trụ đều lưu động, thế là nghiên cứu các phương pháp để quán sát hiện tượng phát sinh, phát triển và hoại diệt của vật chất, và lập ra “pháp biện chứng” (Dialectics). Nhiều lần vận dụng ba bước: mệnh đề chính (Thesis), mệnh đề phản (Antithesis) và mệnh đề tổng hợp (Synthesis) để nghiên cứu vấn đề, cầu được tri thức.Thật không ngờ rằng, đã từ hơn 2500 năm trước Ðức Phật đã dùng phương pháp này rồi. Ví dụ như Ðức Phật cho rằng cùng một con người lúc còn nhỏ và khi trở thành người lớn, đối với cái tên mà nói, là phi dị: không có gì thay đổi (mệnh đề chánh), nhưng đối với thân thể và các tế bào thì là phi nhất: không phải là một (mệnh đề phản), vì vậy qui nạp kết quả của đứa bé và người lớn thì là “phi nhất phi dị, diệc nhất diệc dị” (mệnh đề tổng hợp), nghĩa là không phải một mà cũng không phải khác, cũng là một mà cũng không phải một. Lại ví dụ như trong kinh Kim Cang nói: “sở ngôn thiện pháp giả (mệnh đề chánh), Như Lai thuyết tức phi thiện pháp (mệnh đề phản), thị danh thiện pháp (mệnh đề tổng hợp)”, nghĩa là những thiện pháp nói ở đây (mệnh đề chính), chính là Như Lai nói không phải là thiện pháp (mệnh đề phản), cho nên mới được gọi là thiện pháp (mệnh đề tổng hợp). Bút giả nói thẳng với chư vị rằng: Những kiến giải của những nhà triết học đối với vũ trụ quan và bản thể luận đều là dựa vào sự tưởng tượng và suy lý, cho nên phát sinh ra sự lệch lạc hoặc không phù hợp với chân tướng. Nhưng Ðức Phật là một bậc Ðại Trí Tuệ, chính Ðức Phật tu tập và thể nghiệm chứng đắc. Vì vậy kiến giải của Phật sẽ không sai lạc, đồng thời còn chính xác hơn nhiều so với những nhà triết học thông thường. Ðặc biệt, có nhiều vấn đề mà phàm phu chúng ta không có cách nào giải quyết, hoặc dùng nhục nhãn của chúng ta và những thiết bị khoa học cũng không cách nào chứng thực được vấn đề, đối với Ðức Phật thì không có gì nghi hoặc, vì trí lực nhạy bén của Ngài có thể thấu rõ tất cả. Các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới không cần nghĩ ngợi suy đoán lung tung, phí sức mệt óc về vấn đề siêu hình, hãy làm theo phương pháp chỉ dạy của Phật đi thực tập tu chứng và thể nghiệm lấy, thì vấn đề chủ yếu đã giải quyết, từ đó tất cả những vấn đề khó khăn liên quan khác cũng theo đó mà được giải quyết! Vì chính mình không chứng nghiệm hoặc chính mình thấy được, mà lại tiến hành suy nghĩ, suy lý, suy đoán, phỏng đoán. Suy đoán đúng, đương nhiên là tốt rồi; ngược lại, suy đoán sai rồi, lại đem đáp án sai công bố với thế giới, vô hình trung sẽ phao tin nhảm mê hoặc mọi người mà không tự biết. Theo cách nhìn của Phật, những vấn đề siêu hình rất khó suy đoán đúng. Vì suy đoán và kết luận vũ trụ là vấn đề hữu hạn hay vô hạn, vĩnh hằng hay không vĩnh hằng… đều là biên kiến và tà kiến không chính xác, cũng không có giúp ích gì đối với cuộc sống hiện thực và phát triển tâm trí. 7. DINH DƯỠNG HỌC Theo kinh điển, toàn bộ giáo dục của Ðức Phật đều lấy mục đích lợi mình lợi người làm xuất phát điểm. Mỗi một điều giới luật Phật chế ra đều vì giúp cho thân tâm của đệ tử được khỏe mạnh, an lạc. Ðức Phật từng nói cho đệ tử rất nhiều phương pháp để bảo dưỡng thân thể, đồng thời dặn dò chúng đệ tử phải chăm sóc chính mình cho tốt, giống như chăm sóc trẻ mới sinh vậy. Nhưng Ðức Phật nhắc nhở đệ tử: không được tham muốn dinh dưỡng thể xác và hưở ng thọ cơ quan cảm giác, mà bỏ phí món ăn tinh thần - đạo nghiệp. Ðồng thời không được hiềm chê thức ăn ngon dở, để tránh dẫn đến những phiền não vô nghĩa. Ðức Phật cho rằng bảo dưỡng thân thể nên ở trong tình huống không có lo lắng gì, tiến hành tự nhiên, không phải trăm phương ngàn kế miễn cưỡng cầu cho được, càng không được tiến hành bằng phương thức làm tức giận hoặc làm tổn thương đến những động vật khác. Vì những phương thức này không có lợi ích gì đối với tâm linh cao thượng và tâm lý lành mạnh. Trong quyển 8 luật Ngũ Phần, Ðức Phật vì giúp đệ tử chuyên tâm dụng công tu hành, sớm thành tựu trí tuệ để hóa độ chúng sanh, không vì cái ăn mà hao phí quá nhiều sức lực và mất.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> quá nhiều thời gian. Vì vậy, Ngài khuyến khích đệ tử mỗi ngày nên ăn một bữa vào buổi trưa (chú thích thêm: Theo kinh Phật ghi rằng, mỗi ngày ăn một bữa có nhiều lợi ích cho thân tâm hơn ăn một ngày ba bữa. Ví dụ: Bao tử được nhẹ nhàng, giảm nhẹ gánh nặng làm việc của gan, thân tâm không bị hôn trầm, ngủ nghĩ được yên ổn và thời gian ngủ tự nhiên sẽ giảm đi, trừ bỏ được dâm dục và bệnh tật... (Xem thêm Giáo Thừa Pháp Số) Sau đây, chúng ta dẫn ra những văn tự có liên quan đến phương diện ăn uống từ trong kinh Phật, để cúng dường chư vị thưởng thức: Quyển 26 luật Thập Tụng có nói đến tám loại cháo rất ngon và dinh dưỡng cũng rất phong phú: 1. Cháo bơ: dùng sữa bơ của bò hoặc ngựa hoặc dê nấu chung với gạo lúa mạch. 2. Cháo dầu: dùng dầu bạch tô, dầu bơ, dầu mè nấu chung với phiến mạch (bánh ép làm bằng yến mạch và đại mạch, tức làm từ một loại lúa mạch) 3. Cháo mè: dùng mè nấu chung với gạo. 4. Cháo đậu: dùng đậu xanh, đậu đỏ nấu chung với gạo. 5. Cháo đậu nành: dùng đậu nành nấu chung với gạo. 6. Cháo đay: dùng vỏ đay, mè nấu chung với gạo lúa mạch. 7. Cháo sữa: dùng sữa bò tươi, sữa dê tươi nấu chung với gạo lúa mạch. 8. Cháo nhạt: dùng hạt sen, táo đỏ, nấu chung với gạo lúa mạch. Nấu thành cháo rồi, sau khi để nguội thêm chút mật ong vào. Ðức Phật cho rằng cháo rất có ích cho cơ thể (xem thêm luật Tứ Phần và luật Tăng Kỳ quển 29), cho nên đặc biệt chú ý đến cách nấu. Ví dụ như trong quyển 29 luật Tăng Kỳ ghi rằng: Cháo phải nấu đến khi nhừ, sẽ có một màng mỏng bên trên, và nồng độ khi vẽ lên mà không có vết tích của dụng cụ vẽ là ngon nhất. Ðại Nhật Kinh Sớ quyển 7 ghi rằng: Cháo có thể thêm các loại thuốc, nhưng bình thường thêm sữa tươi vào là ngon nhất. Kinh Thập Nhất Diện Thần Chú, kinh Mạt Pháp Trung Nhất Tự Tâm Chú, kinh Nhất Thiết Công Ðức Trang Nghiêm Vương, kinh Ðại Vân Luân Thỉnh Vũ và kinh Ðại Bảo Lâu Các Thiện Trụ Bí Mật Ðà La Ni đều khuyến khích người ăn cháo nấu bằng sữa bơ với gạo tẻ. Kinh Luật Bộ đưa ra năm loại trái cây: 1. Hạch quả: quả có hạt như quả táo, quả hạnh… 2. Phu quả: quả có vỏ mềm như dưa leo, lê… 3. Xác quả: quả có vỏ dày như hạch đào, lựu… 4. Lương quả: quả có ruột dạng bột ngũ cốc như hạt thông, hạt bách … 5. Giác quả: quả có góc (sừng) như đậu nành, củ ấu… (xem thêm Danh Nghĩa Tập, quyển 3).

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Kinh Kế Tôn Ðà La Ni nói đến cách ăn ngũ cốc. Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển 7 nói đến cách làm thạch mật. Phẩm Phụng Luận Cúng Dường kinh Cù Hê nói rõ tất cả trái cây, trái lựu là ngon nhất, tất cả các loại củ thì củ tì-đa-la là ngon nhất. Trong quyển 53 luận Ðại Trí Ðộ nói, thêm thuốc vào thức ăn, dùng hạt ba đậu là ngon nhất. Trong Hành Sự Sao quyển 2 và trong Hữu Bộ Bách Yết Ma, đem những thức ăn duy trì sức khỏe và dược liệu quy nạp làm bốn loại: 1. Vào buổi trưa mỗi ngày thường dùng những thức ăn như: gạo, lúa mạch, các loại đậu và củ, rễ, cọng, hoa, lá, quả, đọt non của các thực vật khác (trừ những loại có độc). Thức uống như: tất cả những loại nước trái cây, nước cơm, sữa, bơ, sữa đậu nành... 2. Nếu thân thể yếu, có bệnh, quá giờ trưa đến tối, có thể cân nhắc uống nước trái cây, sữa, bột gạo và thuốc. 3. Những thức ăn và thuốc dùng để trị bệnh, 7 ngày dùng một lần như: dầu bơ, bơ, mật, thạch mật… 4. Những thức ăn và thuốc có thể dùng suốt đời như: hồ tiêu, kha-lê-lặc… và củ, rễ, cọng, hoa, quả các loại cỏ thuốc.. Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương quyển 9, ghi rõ rằng: Thời tiết mỗi mùa không giống nhau nên dùng những thức ăn gì có thể có ích cho sức khỏe của thân tâm và tiêu trừ những bệnh tật.. Chúng ta ăn chay cần chú ý quân bình thức ăn, các loại rau và trái cây có thể nên dùng mỗi loại một chút, không nên nấu thức ăn quá lâu hoặc xào đến nỗi khét vàng hoặc đen, đặc biệt những gì chiên xào, dầu càng ít càng tốt. Cố gắng hết mức đừng dùng những gì quá kích thích hoặc quá cay, quá ngọt, quá mặn, quá chua. Tốt nhất thường lấy thành phần dinh dưỡng trong rau quả thiên nhiên (thành phần hữu cơ), giảm bớt dùng những gia vị được làm từ hóa học (thành phần vô cơ) hoặc những thực phẩm phục chế. Và luôn luôn nhớ rằng: Ðừng bao giờ ăn quá no! 8. VỆ SINH HỌC VÀ CON ÐƯỜNG DƯỠNG SINH Trong kinh Phật có nói rất nhiều về phương pháp vệ sinh và dưỡng sinh. Ví dụ như trong luật Tứ Phần và trong luật Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 36, Ðức Phật dạy đệ tử nên dùng năm phương pháp để xử lý thức ăn cho vệ sinh, sạch sẽ. Những thức ăn nào cần phải nấu chín để ăn. Những loại trái cây nào cần dùng dao để gọt vỏ, những loại trái cây nào có thể dùng tay để bóc vỏ, những loại trái cây nào nên phơi khô hoặc sấy khô… Những trái cây nào đã bị chim ăn, hái xuống sẽ ăn được. Ví dụ như, ổi chín đã bị chim mổ, ăn rất ngon, rất thơm và ngọt. Ðây là do sức thưởng thức của loài chim đối với trái cây nhanh nhạy hơn loài người nhiều, và nó thường chọn những loại trái cây đặc biệt ngon, cho nên phàm những trái cây nào đã bị chim mổ ăn đều là những trái cây ngon cao cấp. Trong quyển hạ kinh Phạm Võng và kinh Lăng Nghiêm quyển 8, Phật dạy đệ tử không nên ăn năm loại thực vật có tính chất cay nồng như: hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Vì năm loại này, không những ăn chín cũng kích thích tính dâm dục, mà ăn sống cũng kích thích tính khí nóng nảy, mà chư vị thiện thần hộ thân cũng tránh xa..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trong kinh Phật Y, Phật nói rõ những nguyên nhân sanh ra các loại bệnh của con người, những sơ suất sai lầm đưa đến chết đột ngột. Trong kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức, nói rõ tình trạng chín loại bệnh chết đột ngột. Trong kinh Cửu Hoạnh, nói rõ nguyên nhân của chín loại chết đột ngột, hay chết oan uổng: 1. Ăn không được mà ăn: Ăn những thứ có hại, ví dụ như cây trúc đào; hoặc trộn hai loại thức ăn hay nhiều loại có tính tương khắc, ví dụ như mật ong với tàu hủ, sữa bò với rau chân vịt… 2. Ăn không quen: Ăn những thức ăn mà thể chất của mình không thích hợp. 3. Ăn không tiêu: Thức ăn đã ăn chưa tiêu hóa, lại tiếp tục ăn. 4. Ăn không lượng sức: ăn uống không biết tiết chế, ăn uống lung tung, ăn quá no. 5. Nín đại tiểu tiện: Nín đại tiểu tiện quá lâu, quá mức chịu đựng. 6. Không giữ giới và phạm pháp luật. 7. Thân cận với những bạn xấu nguy hiểm đến tính mạng. 8. Vào làng không đúng lúc, làm việc không đúng thời. 9. Có thể tránh mà không tránh, ví dụ như không tránh chó dại, bệnh dịch…. Kinh Trung A Hàm, kinh Bảo Vân, và quyển 6 của luận Ma-đắc-lặc-ca, có nói về phương pháp nghỉ ngơi, phương pháp ngủ nghỉ. Trong quyển 6 luận Ma-đắc-lặc-ca ghi rằng, không nên đại tiểu tiện hoặc khạc nhổ đàm bừa bãi, và các phương pháp xử lý nó. Kinh Ôn Thất Tẩy Dục Chúng Tăng có nói đến những lợi ích của việc tắm rửa. Trong quyển 3 truyện Ký Quy ghi rằng: Ðức Phật dạy đệ tử nên tắm trước khi dùng cơm, hoặc khi bụng rỗng không (đói). Vì sau khi ăn no rồi đi tắm thì không hợp vệ sinh và trên phương diện y học cũng là điều kiêng kỵ. Bụng trống, tắm xong, sau đó dùng cơm, có thể tiêu đàm và dùng cơm cảm thấy ngon gấp mấy lần. Trong Hữu Bộ Bách Nhất Yết Ma và kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương quyển 9, Ðức Phật dạy đệ tử phương pháp súc miệng. Phàm những cách đi, đứng, nằm, ngồi trong sinh hoạt hằng ngày, Phật dạy bảo đệ tử rất tỉ mỉ và ân cần. Hiện nay thuật Du Già (Yoga) rất lưu hành ở Mỹ. Có rất nhiều tư thế từ trong Phật pháp. Ví dụ như: Bái nhật thức, Liên hoa tọa (Lotus pose), Kim cang tọa (Diamond pose) đều xuất phát từ tư thế lạy Phật và tư thế tĩnh tọa… trong đạo Phật. Theo báo cáo của thực nghiệm khoa học: Tư thế ngồi hoa sen (liên hoa tọa) có thể nhiếp tâm tĩnh lặng, máu huyết lưu thông; tư thế ngồi kim cương (kim cương tọa) có thể làm cho ruột được khỏe mạnh, trợ tiêu hóa, trừ phong thấp ở chân, đôi chân khỏe mạnh, trị đau thần kinh tọa v.v… Hình như không có một nhà giáo dục nào đặc biệt để ý đến vệ sinh như Ðức Phật như vậy. Những chuẩn mực trong cuộc sống hằng ngày mà Phật chế định không những chú ý đến sự hài hòa của giới sinh vật, sự cân bằng của hệ thống sinh thái, mà còn suy nghĩ đến ảnh hưởng từng chút và ảnh hưởng lâu dài đến chính bản thân con người. Phật nói về vệ sinh rất tường tận, đúng đắn có thể thực hành. Phàm là việc quan trọng và thực dụng trong cuộc sống, Phật chỉ ra rất chính xác. Ví dụ như Ngài dạy đệ tử: Khi ăn xong cái.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> gì đó phải đi súc miệng ngay hoặc làm sạch khoang miệng. Tùy theo sự tiến bộ của khoa học, chúng ta càng thấy rõ tính quan trọng của nguyên tắc vệ sinh này. Vì những thức ăn vụn vặt ở trong khoang miệng thời gian lâu sẽ bắt đầu lên men và làm hại đến răng. Bởi vì Phật quan sát tinh tế, tỉ mỉ, chu đáo đến từng sự việc, sau đó lập ra rất nhiều nguyên tắc để giúp đỡ thân tâm của chúng sanh được khỏe mạnh, do đó mọi người tôn xưng Phật là “Bác sĩ giỏi nhất” và là “Người dẫn đường vĩ đại”. Do vì Phật gợi ý những nguyên tắc vệ sinh trong cuộc sống hằng ngày rất nhiều, để tiện lợi, ở đây bút giả đem nó quy nạp làm mười loại, đồng thời nói rõ xuất xứ tư liệu của từng loại, để dễ dàng cho những độc giả nào hứng thú với phương diện này, thì tìm sách đọc thêm. 1. Vệ sinh khoang miệng (quyển 1 luật Tứ Phần, quyển 17, 40 và 59 luật Thập Tụng, quyển 27 luật Ngũ Phần) 2. Vệ sinh tay (quyển 17 luật Ma Ha Tăng Kỳ) 3. Vệ sinh tắm rửa: (1) Phương pháp tắm rửa (quyển 16 và 57 luật Thập Tụng, quyển 18, 31 và 40 luật Ma Ha Tăng Kỳ, trang 47 Tỳ Kheo Tụng Hành Pháp) (2) Dụng cụ tắm rửa (quyển 22 luật Thập Tụng) (3) Nơi tắm và nước tắm (quyển 50 luật Tứ Phần, quyển 38 và 39 luật Thập Tụng) (4) Dụng cụ đựng nước (quyển 38 luật Thập Tụng) (5) Thời gian tắm (quyển 9 và 16 luật Tứ Phần) (6) Lợi ích của việc tắm rửa (quyển 37 luật Thập Tụng) (7) Cách làm phòng tắm (quyển 35 luật Ma Ha Tăng Kỳ) 4. Vệ sinh những bộ phận khác của thân thể như cắt tóc, cắt móng tay, ráy tai, rửa chân v.v… (quyển 39, 17 và 61 luật Thập Tụng, quyển 43, 51 và 53 luật Tứ Phần, quyển 26 luật Ngũ Phần) 5. Vệ sinh ngủ nghỉ (quyển 27 luật Thập Tụng, quyển 59 luật Tứ Phần) 6. Vệ sinh ăn uống (quyển 17 Ma Ha Tăng Kỳ Luật) 7. Vệ sinh quét dọn môi trường xung quanh (quyển 51 luật Thập Tụng, quyển 54 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển 4 Nam Truyền Ðại Tạng kinh, Tiểu phẩm thứ 8 Nghi Pháp Kiền Ðộ trang 318 đến 335) 8. Vệ sinh toilet (1) Những cấm kỵ khi đại tiểu tiện (quyển 20, 38 và 47 luật Thập Tụng, quyển 13,14 và 26 luật Ngũ Phần) (2) Cách làm nhà vệ sinh (quyển 34 luật Ma Ha Tăng Kỳ, quyển 26 luật Ngũ Phần, quyển 50 luật Tứ Phần, quyển 38 luật Thập Tụng).

<span class='text_page_counter'>(18)</span> (3) Cách vào nhà vệ sinh, phương pháp đại tiểu tiện được dễ dàng, cách ngồi trong nhà vệ sinh, cách lau chùi, cách rửa các nơi (quyển 41 và 57 luật Thập Tụng) 9. Vệ sinh mang giày dép (1) Những loại hài, dép và sự lựa chọn (quyển 50 luật Thập Tụng, quyển 22 và 31 luật Ma Ha Tăng Kỳ) (2) Vệ sinh dép cỏ, dép làm bằng dây đay (quyển 25 và 39 luật Thập Tụng) (3) Vệ sinh mang ủng (quyển 21 luật Ngũ Phần) (4) Vệ sinh dép da ( quyển 56 luật Thập Tụng) (5) Vệ sinh khi cởi dép ra (quyển 35 luật Ma Ha Tăng Kỳ) 10. Những vệ sinh khác như hỉ mũi, khạc nhổ đàm, hắt xì hơi, ngáp… (1) Vệ sinh hỉ mũi, khạc nhổ đàm (quyển 34 luật Ma Ha Tăng Kỳ) (2) Vệ sinh dụng cụ nhổ nước bọt (quyển 38 và 57 luật Thập Tụng) (3) Cách ho, hắt xì hơi, ngáp (quyển 35 luật Ma Ha Tăng Kỳ) Ðiều chúng ta cần biết rõ: Trong tất cả vệ sinh, vệ sinh tâm lý là quan trọng nhất. Vì giả như chỉ một mực coi trọng vệ sinh vật chất, xem thường sự bình an của tâm linh, như vậy không thể gọi là hạnh phúc được. Chúng ta phải nỗ lực, tinh tấn đoạn trừ những phiền não như tham ái, sân hận, đố kị, ghen ghét, kiêu ngạo, ngạo mạn, nghi ngờ và cố chấp, trong lòng chúng ta mới dần dần vệ sinh sạch sẽ, lành mạnh, từ đó chúng ta mới có cuộc sống hạnh phúc, an lạc, nhẹ nhàng.. 9. Y HỌC Những vị thuốc được nói đến trong kinh Phật đều là thuộc về thuốc Ðông y. Lược thuật công năng và tên tuốc bằng âm Hán và âm Phạn như sau:. 1. Uất kim hương (âm Phạn: Cung-cử-ma): xuất xứ từ kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương. Vị cay, tính hàn, không độc, trị đông máu, hạ khí, đau tim, có thể trị túc huyết khí cho phụ nữ. 2. Ðàn hương (âm tiếng Phạn: Chiên-đàn-na): xuất xứ từ kinh Phật Thuyết Chiên Ðà Thọ, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ. Bạch đàn hương (đàn hương trắng): vị cay, tính ôn, có thể trị bệnh nóng sốt. Chân tử đàn (đàn hương tím): vị mặn, tính hơi lạnh, chủ trị phong độc, phong phù. Xích đàn hương (đàn hương đỏ): trị các vết thương bị dao cắt. 3. Tô hợp hương (âm tiếng Phạn: Ðô-lư-sắc-ca): xuất xứ từ kinh Ðộ Chúng, kinh Ðà La Ni Tập, kinh Mâu Lợi, Ðại Nhật Kinh Sớ. Vị ngọt, không độc, trị tà, khiến người không nằm mơ, cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 4. Ðinh hương (âm tiếng Phạn: Sách-cù-giả): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị cay, tính ôn, vô độc, chủ trị làm ấm tỳ vị, trị dịch thổ tả, trúng gió, sưng phù và trị vàng răng. 5. Long não hương: (âm tiếng Phạn: Khước-bố-la): xuất xứ từ kinh Thiên Niên Hiệp Dược. Vị đắng và cay, tính hơi lạnh, vô độc, chủ trị lợi tim và ruột, hạ ác khí, giúp tiêu hóa, tản trường. 6. Thanh mộc hương (âm tiếng Phạn: Cú-sắc-thác): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị cay, tính ôn, vô độc, chủ trị tà khí, ngừa dịch độc, trị đau tim của phụ nữ. 7. Bạch chỉ (âm tiếng Phạn: Tỵ-yết-la-ma): xuất xứ từ Hương Dược sao. Vị cay, tính ôn, vô độc, chủ trị phụ nữ bị ra đỏ trắng, viêm âm đạo, ra gió chảy nước mắt. 8. Linh lăng hương (âm tiếng Phạn: Ða-yết-la): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị ngọt, tính bình, vô độc, chủ trị ác khí, đau tim, đau bụng, mãn hạ khí. 9. Quế tâm hương (âm tiếng Phạn: Huyên-giả): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị cay ngọt, có chút độc, trị ấm tim, lợi gan phổi, trị nhức đầu đau bụng. 10. Xạ hương (âm tiếng Phạn: Mạc-hà-bà-ca): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị cay, tính ôn, vô độc, tránh ác khí, bình tâm an thần. 11. Nhĩ tùng hương (âm tiếng Phạn: Na-la-đà, lại còn có âm Nã-nhậm): xuất xứ từ kinh Tô Tất Ðịa và kinh Tối Thắng Vương. Vị ngọt, tính ôn, vô độc, chủ trị ác khí, trị đau bụng. 12. Ích trí (âm tiếng Phạn: Tô-khấp-mê-la): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương. Vị cay, tính ôn, vô độc, chủ trị làm cho ấm bụng, bổ máu, trừ hôi miệng. 13. Mục túc (âm tiếng Phạn: Tát-tất-lật-ca): xuất xứ từ kinh Ðộ chúng, kinh Bảo Số Các và kinh Tối Thắng Vương. Vị đắng, tính bình, vô độc, chủ trị tim, bổ ích thân thể, có thể dùng lâu dài. 14. Mao hương (âm tiếng Phạn: Ôn-thi-la): xuất xứ từ kinh Tối Thắng Vương và kinh Ðà La Ni Tập. Vị đắng, tính ôn, vô độc, chủ trị trúng ác khí, ói mửa, lạnh bụng, lao tâm (do làm việc quá sức) bổ trung ích khí, làm tan máu do ứ lại (máu bầm), lợi tiểu tiện. 15. Hoắc hương (còn có tên là dâm dương hoắc) (âm tiếng Phạn: Bát-đát-la): xuất xứ từ kinh Khởi Thế và kinh Ðộ Chúng. Vị cay, tính hàn, vô độc, chủ trị âm đạo bị khô, lợi tiểu tiện, tăng lực, mạnh gân cốt, tăng cường tinh lực. 16. Huyên thảo (âm tiếng Phạn: A-du-ca): xuất xứ từ kinh Ðại Ðà La Ni Mạt Pháp. Vị ngọt tính bình, vô độc, chủ trị an ngũ tạng, khiến người vui vẻ, nhẹ nhàng, mắt sáng. 17. Nhân sâm (âm tiếng Phạn: Cực-lê-thảo): xuất xứ từ kinh Kim Tỳ La Ðồng Tử. Vị ngọt, hơi hàn hơi ấm, vô độc, bổ ngũ tạng, an thần, tỉnh táo, dừng trống ngực đập thình thình (vì sợ hãi), tự tin vui vẻ, có ích cho trí lực, thông huyết mạch, trị ruột và dạ dày bị trúng lạnh. 18. Cam thảo (âm tiếng Phạn: Mâu-sách-khư): xuất xứ từ kinh Ðể Li Tam Muội Da. Vị ngọt, tính bình, vô độc, lợi lục phủ ngũ tạng, chắc gân cốt, phát triển cơ bắp, tăng lực, giải độc, thông kinh mạch, lợi huyết khí. 19. Cẩu khởi (âm tiếng Phạn: Thẩm-minh): xuất xứ từ kinh Trị Bệnh Hiệp Dược và kinh Sắt Ma Minh Vương. Vị đắng, tính hàn, vô độc, chủ trị tà khí trong ngũ tạng, bệnh tiêu khát.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> (đông y chỉ chứng uống nước nhiều, tiểu tiện nhiều, bao gồm cả bệnh tiểu đường), lợi sức do lao lực, cường âm, lợi ruột già ruột non, dùng lâu ngày lợi gân cốt, thân thể nhẹ nhàng ích khí, chịu lạnh. 20. Thiên môn đông (âm tiếng Phạn: Ba-ca-lặc): xuất xứ từ kinh Kim Tỳ La Ðồng Tử và kinh Sắt Ma Minh Vương. Vị đắng ngọt, tính bình đại hàn, vô độc, chủ trị các bệnh tê phong thấp, cứng xương tủy, định khí phổi, dưỡng cơ ích khí, lợi tiểu tiện.. Dược liệu được nhắc đến trong kinh Phật nhiều không thể kể xiết, hai mươi loại nói trên chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi. Nếu độc giả có hứng thú, có thể đọc thêm các sách Hương Dược Sao, Dược Chủng Sao, Chư Hương Dược Công Năng Hình Thể, Tuệ Lâm Âm Nghĩa và Huyền Ứng Âm Nghĩa… trong Ðại Tạng kinh. Tong kinh Phật, chúng ta có thể thấy sự tích Phật trị bệnh cho người. Kinh Ðại Phương Ðảnh Vương miêu tả Phật là một Ðại Ðức Y Vương, vì Phật khéo biết bệnh tình, nguyên nhân của bệnh, thuốc tốt trị bệnh, và làm thế nào để bệnh mãi mãi không tái phát. Càng có ý nghĩa hơn nữa là khi Phật trị bệnh cho người thường hay bổ sung thêm đạo lý cuộc sống và con đường dưỡng sinh cho đối phương. Trong quyển 1 Ðại Tạng Bí Yếu có ghi phương pháp trị các chứng bệnh đau đầu, đau mắt, đau tai, đau tim, phù thũng, lỡ loét, bệnh trĩ lậu, bệnh lị a míp; phương pháp đuổi chuột, tránh giao long (thuồng luồng) và trị rắn cắn; phương pháp trị kinh nguyệt không đều, đứt tay, té ngả bị thương. Trong quyển 2 có ghi cách khử độc, cách trị ung nhọt và sâu độc, cách làm cho em bé không khóc nhòe, cách trị sinh nở khó khăn, cách trị dịch bệnh từ súc vật, cách trị bệnh sốt rét, cách cầu con. Trong quyển 3 có ghi cách trị giun đũa, cách trị vết lỡ loét, cách trị mắt đỏ, cách trị ngũ thấy ác mộng, cách trừ ấu trùng. Trong quyển 4 có ghi cách trị đau mắt, cách trị thói quen hay ăn đêm, cách trị kiết lị ói mửa, cách làm cho cơ bắp phát triển, cách sinh con dễ dàng, cách trị chảy máu cam, cách trị bị những côn trùng độc cắn, cách thông mũi nghẹt, cách trị bệnh nóng sốt, cách trừ ác mộng. Trong quyển 5 có ghi cách trừ hôn trầm… Bút giả nghĩ rằng, nguyên nhân chủ yếu Phật dùng thực vật thiên nhiên để trị bệnh, có thể là: Ngài hiểu biết hiệu quả trị bệnh bằng thực vật sẽ duy trì được lâu hơn các phương pháp khác như châm cứu, phẫu thuật… và không có tác dụng phụ. Mà còn mỗi lần sau khi trị hết bệnh cho đối phương Phật giáo hóa đối phương những phương pháp phòng ngừa bệnh tái phát, đây đúng là “Thượng y y vị bệnh”, nghĩa là Bác sĩ giỏi là phòng bệnh hơn chữa bệnh! 10. TƯƠNG LAI HỌC Thông thường, nhiều người cho rằng “tương lai học” là do những người Âu Mỹ cận đại sáng lập. Không ngờ hơn 2500 trước Ðức Phật đã nói qua rồi. Những học giả hiện đại nói đến tương lai vẫn là căn cứ những tư liệu có liên quan để suy đoán. Ðức Phật nói về tương lai là căn cứ vào lực quan sát, lực quan sát này có được sau khi thiền định.. Theo kinh Phật ghi rằng, Ðức Phật biết chính xác tất cả những sự việc phát sinh trong vũ trụ vô hạn này cho đến xu thế và kết quả diễn biến trong tương lai. Trong quá trình dạy học, thỉnh thoảng Phật nói cho đệ tử những việc trong tương lai, hoặc từ những phương pháp này làm tăng thêm hiệu quả giáo dục, hoặc nâng cao sự hiểu biết của đệ tử đối với toàn bộ cục diện và quan hệ nhân quả..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Ví dụ, trong kinh Vô Lượng Thọ, Ðức Phật đã nói lời tiên đoán về tình hình nâng cao dục vọng, lãng phí vật chất, tranh đấu tàn nhẫn, rối loạn tâm linh, thiếu hụt năng lượng v.v… Kinh Nam Truyền Ðại Bát Niết Bàn quyển 1 ghi rằng: Ðức Phật dùng thiên nhãn nhìn thấy dấu nhà ở đầy trong làng Bát-đáp-lý, Phật bèn nói với đệ tử rằng: làng Bát-đáp-lý hoang vắng kia, tương lai sẽ trở thành một đô thị lớn và trung tâm thương nghiệp… Những lời này quả nhiên linh nghiệm, vì sau này vua A-so-ka xây một đô thị ở nơi này (tức Patna hiện nay). Toàn bộ quyển kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trụ, đều là những lời của Phật nói rõ về tình hình Phật pháp hưng suy sau khi Phật viên tịch 1000 năm. Trong kinh Ðương Lai Biến, Ðức Phật nói rõ mười nguyên nhân suy diệt của Phật pháp trong tương lai: 1. Ðệ tử Phật không giữ giới luật Phật đã dạy, tu không đạt thiền định và trí tuệ, phóng túng tình dục, chỉ cầu danh lợi, không sống theo giáo pháp của Phật, không tinh tấn tu tập đạo nghiệp phổ độ thế nhân. 2. Người xuất gia nuôi dưỡng vợ con, phóng túng tình dục, làm việc buôn bán để mưu sinh. 3. Cấu kết đảng phái, phe nhóm, treo đầu dê bán thịt chó, bên trong phạm ác hạnh, bên ngoài ngụy trang là thanh khiết. 4. Ðọc kinh Phật không hiểu nghĩa lý và cú pháp, đảo lộn thật giả, tự cho là đúng. 5. Ðố kỵ ghen ghét với bậc hiền tài, không nghe lời chỉ giáo của bậc hiền tài, ngược lại mang lòng đố kỵ sân hận. 6. Người xuất gia sau này, từ bỏ nhà cửa, nhàn cư sơn lâm, nhưng lại không tu đạo nghiệp. 7. Người xuất gia thích nơi đô thị náo nhiệt, lời lẽ qua lại, đòi hỏi mặc những y, áo ca sa tốt. 8. Khinh mạn tự cao, cho rằng phẩm đức trí tuệ của mình không ai bằng, không chịu học để tiến thêm. 9. Ðùa giỡn với phụ nữ, ăn nói những lời hoa mỹ để xúc động lòng người, chính bản thân mình không những không thực tài thực học, mà còn hoang phế Phật học. 10. Loại bỏ những kinh điển thâm diệu Ðại thừa, ngược lại dựa thế leo lên, mượn lời những sách tạp nhạp vô dụng để đón ý cho vừa lòng thế tục. Tiếp theo Phật nói ra những phương pháp sống nên có của đệ tử Phật trong tương lai. Như là: Theo tâm nguyện từ bi với tất cả chúng sanh, chuyên tâm nghiên cứu phương pháp độ thế. Tinh tấn học kinh điển Tiểu thừa và Ðại thừa cho đến nơi đến chốn, không cầu hưởng thọ danh lợi. Lấy thân mình làm gương, cảm hóa người khác. Thường như pháp tu hành, phải đạt được trí tuệ thiền định, thường bố thí vật ngon cho người nghèo. Không tham luyến mỹ vị, cũng không chê ghét cơm áo đạm bạc… Trong kinh Liên Hoa Diện và kinh Pháp Diệt Tận, Ðức Phật nói trong tương lai có những hiện tượng đáng thương phát sinh giữa xã hội và cửa Phật. Nay lược thuật như sau:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> 1. Người xuất gia thích mặc áo quần thế tục, hoặc mặc ca sa ngũ sắc, ăn thịt uống rượu, sát hại sinh linh để hưởng thọ thỏa mãn lòng tham ăn, tâm không có chút nhân từ, đố kỵ với mọi người. 2. Người xuất gia phải làm việc tốt, phát tâm từ, ngược lại gặp phải những người xuất gia khác lại phỉ báng, bài xích, thậm chí xua đuổi họ. 3. Dùng chùa chiền làm nơi buôn bán tham lam tích góp tiền tài vật chất, nhưng lại keo kiệt không bố thí cho người nghèo khó. 4. Phạm những ác nghiệp, để trốn tránh hiện thực, hoặc tham những tiện nghi nhỏ mà vào chốn thiền môn. Vì vậy tham ăn lười làm, không tu giới luật, tụng kinh chỉ là hình thức bên ngoài, miệng đọc mà vô tâm, thậm chí cũng không tụng kinh điển gì. 5. Người xuất gia mà lại chán ghét nghe Phật pháp, tham danh lợi. Cuộc sống không thanh tịnh, nam nữ tạp cư, dâm đãng vô đạo đức. 6. Kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Bát Chu Tam Muội thất truyền trước nhất, tiếp theo là tất cả kinh tạng dần dần cũng đều thất truyền. 7. Lúc ấy người ác nhiều như cát trong biển, người hiền thưa thớt như sao buổi sáng. Mưa nắng thất thường, ngũ cốc không được mùa, bệnh dịch lưu hành, xác chết khắp nơi. 8. Mọi người đề xướng tính khai phóng, phóng túng tình dục, dâm dục quá độ, kết quả nam nữ mới 40 tuổi tóc đã bạc, hơn nữa chết yểu chết non, chỉ có số ít sống đến 60 tuổi. Tuổi thọ người nữ dài hơn người nam, có thể sống đến 80 - 90 tuổi. 9. Khoảng mấy triệu năm sau, sau khi Phật Di Lặc đản sanh, thiên hạ thái bình, độc khí tiêu trừ, gió thuận mưa hòa, ngũ cốc tươi tốt, tuổi thọ người người nâng cao, chúng sanh được hóa độ nhiều không thể tính kể. Sau khi nghe xong Phật giảng kinh Pháp Diệt Tận, chúng đệ tử đều cảm thấy vô cùng thương cảm, mọi người đều phát tâm từ bi vô hạn với chúng sanh, và phát tâm nguyện truy cầu trí tuệ vô thượng, sau đó lễ Phật và lui ra. 11. KINH TẾ HỌC GIÁO DỤC Chủ đề kinh tế học giáo dục ở chỗ làm thế nào có kinh phí giáo dục một cách đầy đủ, để hoàn thành mục tiêu giáo dục; đồng thời dùng vốn kinh tế ít nhất để đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất. Ðây là một môn học tương đối mới, hiện nay thông thường những học giả Âu Mỹ đều cho rằng quan niệm kinh tế học giáo dục bắt đầu từ thế kỷ 17, vì thế kỷ này nhà kinh tế học Adem Smith người Anh trước tác quyển Quốc Phú Luận (The Wealth Nation). Vì trong quyển Quốc Phú Luận của Adem Smith đã phát huy quan niệm đầu tư giáo dục, xem con người là đối tượng đầu tư có lợi. Thông qua phát triển nguồn nhân lực, để đạt được mục tiêu giáo dục và kinh tế. Trên thực tế, có rất nhiều quan niệm về kinh tế học giáo dục hiện đại, hơn 2500 năm trước Ðức Phật đã nói qua rồi, điều này có nhiều người cũng khó tin, sau đây bút giả dẫn ra hai đoạn từ trong kinh Phật ra xem: Trong kinh Niết Bàn, Ðức Phật đã từng dùng ruộng lúa để thí dụ nguồn nhân lực là một loại đầu tư giáo dục, và trong đầu tư giáo dục nên chú ý đến một số đối tượng trước nhất. Ðồng thời nói rõ đầu tư giáo dục, lần lượt nên dùng hiệu quả giáo dục sau khi đầu tư có được, làm mục tiêu đánh giá—Ðối tượng hiệu quả giáo dục càng cao, càng tốt thì càng ưu tiên đầu tư[32]..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Bút giả cử một ví dụ để nói rõ quy luật đầu tư giáo dục. “Ðầu tư giáo dục giống như làm ruộng vậy. Giả dụ có ba mảnh ruộng, đất đai rất màu mỡ. Không những không có gạch, sỏi, đá, hay bụi cây có gai nào, mà đường dẫn nước rất tiện lợi. Ðầu tư một phần vốn vào mảnh ruộng này, có thể thu hoạch được kết quả gấp 100 lần vốn đầu tư. Mảnh ruộng thứ hai, tuy cũng không có gạch, sỏi, đá và bụi cây có gai nào, nhưng thổ nhưỡng không màu mỡ lắm, và địa thế cũng không tốt lắm, đường dẫn nước không tiện lợi. Ðầu tư một phần vốn vào mảnh ruộng này, chỉ có thể thu hoạch được kết quả gấp 50 lần vốn đầu tư. Mảnh ruộng thứ ba, có rất nhiều cỏ dại, đá và gạch, đất đai không màu mỡ. Ðầu tư một phần vốn vào mảnh ruộng này, chỉ có thể thu lại phần vốn mà thôi. Như vậy, vị nông phu, cày cấy vào mùa xuân, thì nên làm mảnh ruộng nào trước?... Nên trồng trọt trên mảnh ruộng thứ nhất, sau đó đến mảnh ruộng thứ hai và cuối cùng mới đến mảnh ruộng thứ ba. Nhà giáo dục giáo hóa chúng sanh cũng nên như vậy, trước hết giáo dục những học sinh có tư chất bẩm sinh đặc biệt tốt, sau đó giáo dục những học sinh có tư chất trung bình và cuối cùng là giáo dục những học sinh có tư chất kém.” ( Kinh Niết Bàn, quyển 33) Ðức Phật lại dùng thí dụ về ba đứa trẻ, để nói rõ giáo dục, nên dạy đứa trẻ dễ thu được kết quả trước, sau đó giáo dục đứa trẻ kém hơn một chút, cuối cùng chuyên tâm giáo dục đứa trẻ khó dạy nhất. Vì như vậy, trong quá trình dạy học Thầy giáo sẽ có nhiều niềm vui thành tựu. Mà đứa trẻ đã được dạy tốt cũng có thể giúp đỡ Thầy giáo giáo hóa đứa trẻ chưa dạy tốt. Sau khi dạy đứa trẻ có tư chất ưu việt, đứa trẻ ấy khi sống chung với những đứa trẻ chưa giáo hóa, vô hình trung cũng sẽ ảnh hưởng đến chúng, hun đúc tài năng và phẩm hạnh cho chúng tốt dần lên. Nếu không, đang bắt đầu dạy đứa trẻ khó dạy nhất, Thầy giáo sẽ cảm thấy rất vất vả, thậm chí phát sinh hiện tượng Thầy giáo rơi nước mắt hoặc nản lòng. Cho nên Ðức Phật nói:[33] “Lại cử một ví dụ nữa để nói rõ, giả dụ một gia đình có ba người con, người con thứ nhất, không những hiếu thuận mà còn rất thông minh. Người con thứ hai không hiếu thuận lắm, nhưng cũng rất thông minh. Ðứa con thứ ba đã không hiếu thuận rồi, lại không thông minh. Như vậy, cha mẹ dạy ba người con này, nên dạy người con thứ nhất trước hết, sau đó dạy người con thứ hai và thứ ba. Thứ tự Ðức Phật giáo hóa chúng sanh cũng giống như vậy” ( Kinh Niết Bàn, quyển 33) Ðức Phật lại dùng thí dụ về bảy đứa trẻ để nói rõ: Ðối với những học sinh khác thường và những đệ tử thiếu tình thương ấm áp, nên đặc biệt quan tâm và phối hợp giúp đỡ. Học sinh càng cần sự ấm áp, thì càng quan tâm nhiều hơn[34]. “Thí dụ có một người nuôi bảy người con. Trong đó có một người con bị bệnh. Tình yêu thương của cha mẹ hoàn toàn không phải không bình đẳng, nhưng cha mẹ đặc biệt chăm sóc người con có bệnh kia. Ðức Phật cũng như vậy: Từ bi của Phật phổ biến khắp tất cả, nhưng đối với người tội lỗi trầm trọng, Ðức Phật đặc biệt quan tâm; đối với người phóng đãng, hay phạm lỗi Ðức Phật cũng đặc biệt chịu khó dạy dỗ; đối với người thông thường hành thiện, cầu bình an, có thể tự mình ý thức hạn chế Ðức Phật chăm sóc ít một chút. Nhưng đây, hoàn toàn không phải là không bình đẳng. (Ðây cũng là một nguyên tắc khác của kinh tế học giáo dục)” (quyển 20 kinh Niết Bàn) Như trên đã nói, Ðối với lập trường kinh tế học giáo dục, thứ tự đầu tư giáo dục, nên lấy hiệu quả kinh tế lớn nhỏ làm y cứ. Hiệu quả kinh tế càng lớn, nên càng đầu tư trước. Như vậy giáo dục mới có thể đạt được hiệu lực và tác dụng tốt nhất. Một Thầy giáo giỏi nên dạy học sinh thông minh trước, và nắm vững những phần tử có vấn đề, đồng thời đặc biệt quan tâm, chiếu cố, giúp đỡ những con em nghèo và những học sinh cần tình thương ấm áp. Khi tình hình không cho phép, cùng lúc vận dụng những nguyên tắc trên (dạy những học sinh thông minh trước, cảm hóa những thành phần ngoan cố, quan tâm những đệ tử cần chăm sóc), người làm giáo dục nên tùy cơ ứng biến, vận dụng linh hoạt những phương pháp khác, để đạt được hiệu quả kinh tế lớn nhất. Ví dụ như cung cấp các loại sách thích hợp trình độ cao thấp, để thông thường học sinh tự đọc nghiên cứu, hoặc chọn mấy tác phẩm hay cho học sinh đọc diễn cảm hoặc đọc thêm, hoặc tìm.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> những học sinh ưu tú ra làm đầu tàu, hướng dẫn thảo luận hoặc các hoạt động giáo dục khác… sau đó Thầy giáo tập trung giải quyết những học sinh có vấn đề cần giải quyết.. Nói tóm lại, trong trạng thái bình thường, Thầy giáo có thể dựa vào tư chất nhanh chậm của học sinh mà lần lượt giáo hóa họ, nhưng khi gặp tình huống đặc biệt phát sinh, như là: tâm lý học sinh có trở ngại lớn cần chăm sóc giúp đỡ, hoặc những phần tử ngoan cố gây rối hoạt động dạy học… đối với những việc trở ngại hoạt động dạy học này, Thầy giáo phải gấp xử lý thỏa đáng. Ðối với những việc ngẫu nhiên xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động dạy học càng lớn, càng phải giải quyết nhanh. Vì sau khi giải quyết thỏa đáng những chướng ngại cay nghiệt, hoạt động dạy học có thể bắt đầu tiến hành thuận lợi trở lại. Có một điều chúng ta cần chú ý là: Ðối với những học sinh ngoan cố hoặc những phần tử có vấn đề, Thầy giáo nên xem như ruột thịt và quan tâm vô điều kiện, âm thầm tha thứ cho chúng. Nên đặt mình vào hoàn cảnh của chúng để thông cảm và hiểu chúng. Nhưng thông thường Thầy giáo không nên biểu hiện ra vẻ thông cảm và thương xót. Ðặc biệt ở nơi đông người càng không nên làm như vậy. Vì ở trước mặt mọi người mà ra vẻ thương xót chúng, có khi làm tổn hại đến lòng tự trọng của chúng khiến chúng sinh ra cảm giác khó chịu và giận dữ. Trong kinh Phật miêu tả: Ðức Phật vận dụng nguyên tắc kinh tế học giáo dục đã đạt đến bước lửa lò đã xanh (tương truyền đạo gia luyện đan, nhìn vào lò thấy ngọn lửa lên màu xanh, coi là đã thành công, ví với việc thành thục của học vấn). Ngài không phải nghĩ ngợi gì, không cần phí tâm sức, mà cũng đạt được hiệu quả giáo dục lớn nhất một cách nhẹ nhàng. Càng kỳ diệu hơn nữa là, Phật phát huy hết mức nguyên tắc kinh tế học giáo dục, hoàn toàn không có trở ngại đến tình thương giáo dục bình đẳng đối với đệ tử. Phật giáo dục chúng sanh giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp quả địa cầu. Khi mặt trời mới mọc, ánh sáng trước hết chiếu đến đỉnh núi, sau đó chiếu đến sườn núi, gò đồi và đồng bằng, cuối cùng mới chiếu vào hang núi. Thứ tự ánh sáng mặt trời chiếu đến vạn vật tuy không hoàn toàn nhất chí, nhưng nó không nghĩ rằng cần chiếu vào nơi cao trước, sau đó chiếu vào thung lũng. Vì bản thân vạn vật vốn có cao có thấp, nên ánh sáng chiếu đến mới có sự sai biệt trước sau, đây hoàn toàn không phải mặt trời có tâm phân biệt. Việc Ðức Phật giáo dục đệ tử cũng giống như vậy: Ngài theo tinh thần hữu giáo vô loại để giúp đỡ chúng sanh giải quyết nghi vấn. Phật bình đẳng quan tâm đến tất cả chúng sanh, hoàn toàn không có khởi tâm phân biệt. Phật cũng không có chấp trước là phải giáo dục học sinh có tư chất ưu tú trước, sau đó mới giáo dục học sinh có tư chất kém hơn. Phật chỉ là toàn tâm toàn ý làm việc giáo dục, thành khẩn vận dụng tâm trí có được để dẫn dắt mọi người. Do vì tư chất bẩm sinh, cá tính, thói quen, năng lực cảm thọ và sức lãnh ngộ mỗi người không giống nhau, do đó hiệu quả giáo dục của Ðức Phật mới có sai biệt nhanh chậm lớn nhỏ. (Phẩm Xuất Hiện kinh Hoa Nghiêm) 12. TÂM LÝ HỌC Trong quyển Bản Chất Tư Tưởng Giáo Dục của Ðức Phật, bút giả đã thảo luận qua rất nhiều về chủ đề có liên quan đến tâm lý học, đồng thời nói rõ điểm khác nhau của tâm lý học Phật giáo và tâm lý học Tây phương, nên ở đây bút giả không nói nữa. Hôm nay bút giả thảo luận chủ đề “mộng”rất thú vị trong tâm lý học. Bác sĩ tâm thần kiêm nhà tâm lý học Sigmund Frend (1856-1939) người Áo, đã từng sáng lập ra lý luận phân tích tinh thần. Ðặc biệt ông ấy nhấn mạnh đến kinh nghiệm trong quá khứ và tình dục ảnh hưởng đến hành vi hiện tại của con người, và động cơ tiềm thức quan trọng đối với sự lành mạnh về thể xác và tinh thần. Ông ấy chia nhân cách của con người ra làm ba phần:.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> 1. Bản ngã (id)—Tức cái ngã, cái ta trên phương diện tính sinh vật. Chỉ phương diện xung lực tiềm tàng trong bản năng, xung lực này lấy thỏa mãn nhu cầu sinh vật và theo đuổi khoái lạc của cơ quan cảm giác làm nguyên tắc duy nhất. “Bản ngã” tương tự như “vô minh từ vô thủy” trong kinh Phật. Vì “vô minh” mà Phật nói và “bản ngã” mà Frend nói đều lấy tham dục làm cơ sở, và đều thuộc về tiềm thức, cá nhân mỗi người không cách nào tự biết được. Nhưng sự khác nhau lớn nhất giữa kiến giải của Ðức Phật và Frend là: Ðức Phật cho rằng vô minh là khách trần ô nhiễm tâm thức, Phật tánh thanh tịnh sáng suốt hay tánh linh (trong kinh gọi tánh linh là Thức thứ tám, Tạng thức, hoặc A-lại-da thức đã được tu tập) mới là “bản ngã” chân chánh. Ngược lại, Frend cho rằng vô minh và tham dục là “bản ngã”, đúng là điên đảo mê hoặc! Trong kinh Lăng Nghiêm Ðức Phật luôn nói rõ rằng: Ðừng bao giờ nhận lầm khách trần và đạo tặc (chỉ tham dục và vô minh) làm chủ nhân (chỉ bản tánh của chân ngã) 2. Tự ngã (ego) - Tức là cái ngã trên phương diện tính tâm lý (cái tôi). Nó có thể hiểu biết vấn đề, đồng thời điều tiết xung lực, điều tiết xung đột, và điều tiết mâu thuẫn để thích hợp với hoàn cảnh hiện thực. 3. Siêu ngã (supper-ego)—Tức cái ngã trên phương diện tính xã hội, nó do sự dạy dỗ của cha mẹ, đạo đức xã hội, tập tục văn hóa… hình thành, nó là một cái ngã tiêu biểu cho quy phạm xã hội và lý tưởng (idea self or social self). Frend cho rằng hành vi của con người là do sự chi phối tác dụng qua lại của ba phương diện bản ngã, tự ngã và siêu ngã. Sau khi xung lực của bản ngã bị qui phạm của siêu ngã kìm chế, nó hoạt động ẩn náo trong tiềm ý thức, và hiện tượng nằm mộng chính là sự hiển hiện của những xung lực bị kìm chế trong tiềm ý thức. Nằm mộng là những ngôn ngữ và hoạt động tượng trưng nào đó để biểu hiện tư tưởng bị kìm nén, do đó mộng là tiêu biểu cho dục vọng và thỏa mãn dục vọng của một người. Frend đã từng viết quyển Giải Thích Những Giấc Mộng (The Interpretation of Dream). Quyển sách này đã từng được nhà thư viện học R.B. Downs người Mỹ liệt vào một trong 15 quyển sách làm thay đổi lịch sử. Không ngờ quyển sách giải thích giấc mộng này vẫn chưa sâu sắc thấu triệt bằng trong kinh Phật. Ví dụ như, Frend phân chia giấc mộng làm hai loại, giấc mộng mang tính rõ ràng (manifest dream) và giấc mộng mang tính tìm ẩn (latent dream). Giấc mộng mang tính rõ ràng, chỉ những gì thấy trong giấc mộng tương tự với những sự vật trong cuộc sống thực tế, và nội dung của giấc mộng có thể đi ngược với nguyện vọng và cuộc sống thực tế. Giấc mộng mang tính tiềm ẩn thì chỉ dùng phương thức gián tiếp hoặc tượng trưng để biểu thị hoạt động và nguyện vọng trong tiềm ý thức của mỗi người. Ví dụ, quốc vương là tượng trưng cho phụ thân. Ðược cứu vớt từ trong nước tượng trưng cho đản sanh. Tàu hỏa biểu thị sự chết chóc, do đó không kịp chuyến tàu hỏa biểu thị ý nghĩa chạy trốn khỏi sự chết chóc. Cái vali biểu thị tử cung (hoặc nơi che chở) nằm mộng thấy vali biểu thị muốn trở về nơi được che chở. Tong Phật học có rất nhiều chủng loại và nguyên nhân nói đến giấc mộng. Ví dụ như, trong quyển 12 luật Thiện Kiến chia giấc mộng làm bốn loại. Trong quyển 37 luận Tỳ Bà Sa nói đến giấc mộng có năm nguyên nhân như sau: 1. Do các bộ phận trong cơ thể không điều hòa dẫn đến nằm mộng - Trong quyển 6 luận Ðại Trí Ðộ nói: Khí nóng trong thân thể nhiều, sẽ nằm mơ thấy sự vật màu vàng hoặc màu đỏ. Khí lạnh nhiều, sẽ nằm mơ thấy nước hoặc sự vật màu trắng. Phong khí nhiều, sẽ nằm mơ thấy bay lượn hoặc sự vật màu đen..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> 2. Do thường suy nghĩ, phân biệt, mong cầu một sự vật nào đó dẫn đến nằm mơ—Ban ngày, cứ nhớ nghĩ những sự vật canh cánh trong lòng hoặc quấn quanh trong não, thông thường rất dễ xuất hiện trong giấc mộng. Suy nghĩ những điều lương thiện sẽ hiện ra giấc mơ đẹp. Suy nghĩ những điều xấu ác sẽ mơ thấy ác mộng, hoặc một giấc mơ rất sợ hãi. 3. Tổ hợp lại những sự việc đã từng thấy, từng nghe, từng kinh nghiệm hoặc đã từng làm qua, và lại hiện ra trong giấc mộng. 4. Vì việc tốt hoặc không tốt sắp xảy ra, cho nên hiện ra một điềm báo trước trong giấc mộng. 5. Giấc mộng do quỷ thần, chú thuật, dược thảo và Thánh hiền dẫn đến. Ví dụ, một người A nào đó ăn hiền ở lành, trong giấc mơ thiên thần thoái thác cho người A để tăng trưởng niềm tin cho ông ấy làm việc tốt. Người B làm ác, thiên thần gửi ác mộng đến ông ấy, để ông ấy sợ hãi ác quả mà trở lại làm những điều thiện… Ðức Phật là một vị Ðại sư giải thích về giấc mộng. Ví dụ quyển hạ kinh Ma Ha Ma Da, ghi rằng Ðức Phật giúp mẫu thân của Ngài phân tích năm loại mộng. Quyển 9 luận Câu Xá và quyển 8 Câu Xá Quang Ký, đã giải thích mười loại mộng… Kinh Xá Vệ Quốc Vương Mộng Kiến Thập Sự, nói: Có một lần vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ nằm mộng thấy có mười giấc mơ, bèn chạy đến hỏi Phật. Phật bảo ông ấy rằng: Giấc mơ thứ nhất, mơ thấy hai cái bình, một cái bình rỗng không, một cái đầy nước, nước trong bình chảy tới chảy lui, nhưng lại không chảy vào cái bình trống không. Ðiều này biểu thị: Những người sau này giàu có tặng lễ vật qua lại với nhau, nhưng không bố thí cho người nghèo. Giấc mơ thứ hai, mơ thấy có người để rất nhiều thức ăn bên miệng và mông của con ngựa. Biểu thị: Tương lai quan lớn bóc lột quan nhỏ và bá tánh. Giấc mơ thứ ba, mơ thấy cây nhỏ ra hoa. Biểu thị: Người sau này đến 30 tuổi đầu tóc sẽ bạc hết. Giấc mơ thứ tư: Mơ thấy cây nhỏ kết trái. Biểu thị: người con gái sau này tuổi còn nhỏ đã sanh con. Giấc mơ thứ năm, mơ thấy con cừu non ăn dây rơm. Biểu thị: Sau này người chồng ra ngoài làm ăn, vợ ở nhà ở với người đàn ông khác, tiêu phí tiền của chồng. Giấc mơ thứ sáu, mơ thấy con cáo ngồi trên cái giường vàng. Biểu thị: Sau này có nhiều người có phẩm cách hạ tiện, vì dùng thủ đoạn xảo quyệt nên giàu có. Giấc mơ thứ bảy, mơ thấy con bò lớn theo liếm vú con bò con. Biểu thị: Sau này có những người đem con gái mình bán cho những người đàn ông, làm gái bán dâm, để lấy tiền vàng từ việc làm đê tiện của mình là đưa con gái vào con đường xã hội chê cười. Giấc mơ thứ tám, mơ thấy có bốn con trâu đấu chọi với nhau từ bốn phía, nhưng chưa đấu đã chạy. Biểu thị: Người sau này đa số đều phóng dật hành sát, đạo, dâm không sợ trời đất; vũ sư cầu mưa, chỉ có mây đến từ bốn phía, một lúc sau lại tan đi mất hết, đại địa nắng hạn lâu dài không có mưa..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Giấc mơ thứ chín, mơ thấy khe nước ở dưới sườn núi, bên trong hết sức dơ bẩn, vẩn đục. Biểu thị: Nhân dân Ấn Ðộ sau này nghèo khổ loạn lạc, dân không thể sống được. Giấc mơ thứ mười, mơ thấy nước suối biến thành màu đỏ. Biểu thị: Sau này, giữa các nước thường giết hại lẫn nhau hàng loạt, máu chảy khắp nơi. Trong kinh A Nan Thất Mộng cũng ghi rằng: Có một lần A Nan đệ tử Phật, nằm mộng, có bảy giấc mộng, đến thỉnh giáo Ðức Phật. Phật bèn bảo A Nan rằng: Bảy giấc mộng này là biểu thị cho vận mạng của người xuất gia sau này: Giấc mơ thứ nhất, mơ thấy ao nước, hồ nước ở sườn núi phát hỏa. Biểu thị: Người xuất gia sau này không hành theo giáo pháp của Ðức Phật, ác nghịch hừng hực. Giấc mơ thứ hai, mơ thấy rất nhiều mặt trăng mặt trời và các tinh tú rơi xuống. Biểu thị: Sau khi Phật niết bàn, rất nhiều bậc Thánh cũng theo đó mà niết bàn hoặc ẩn dật và dần dần không còn nhìn thấy nữa. Giấc mơ thứ ba, mơ thấy Tỳ kheo xuất gia ở trong hố bất tịnh, cư sĩ tại gia lên tòa. Biểu thị: Người xuất gia sau khi chết đọa địa ngục rất nhiều, cư sĩ tại gia sau khi chết lại được sanh thiên rất nhiều. Giấc mơ thứ tư, mơ thấy có một đàn heo đến ủi bới rừng đàn hương. Biểu thị: Sau này có nhiều người tại gia vào chùa phỉ báng Tăng chúng, phá tháp hại Tăng. Giấc mơ thứ năm, A Nan mơ thấy đầu mình đội quả núi lớn và không cho là thật. Biểu thị: Sau khi Phật niết bàn, A Nan sẽ ra làm Thầy nói kinh, có thể tiếp tục truyền thừa chân lý Phật đã nói. Giấc mơ thứ sáu, mơ thấy con voi lớn đuổi bỏ voi con và không chăm sóc. Biểu thị: Sau này tà thuyết lộng hành, tà kiến hoành hành. Người có đức có trí đều ẩn hết, không xuất hiện. Giấc mơ thứ bảy, mơ thấy sau khi sư tử vương chết rồi trên đầu vẫn còn bảy sợi lông dài, tất cả cầm thú thấy đều rất sợ hãy, nhưng cuối cùng lại xuất hiện con trùng nhỏ (như bọ chét…) trên thân sư tử và ăn thịt con sư tử. Biểu thị: Sau khi Phật niết bàn trong vòng 1470 năm, đệ tử Phật dựa theo giáo pháp của Phật tu hành, tất cả tà thuyết không hoành hành được. Sau đó đệ tử Phật tự mình phạm giới luật, không hành theo giáo pháp của Phật, Phật pháp theo đó mà suy tàn. Giải thích giấc mộng trong kinh Phật, đã có nhiều linh nghiệm, ví dụ như giấc mộng thứ năm đã nói trên. Năm giấc mộng của Vua A Xà Thế trong kinh Niết Bàn, sau này cũng đều chứng thực.. Theo quyển 20 của luận Tỳ Bà Sa, nói rằng: Phàm người có vô minh đều nằm mộng, thậm chí quả dự lưu cho đến bậc Thánh A La Hán cũng đều nằm mộng. Thông thường Bồ tát và bậc Thánh tuy đã đoạn trừ tất cả phiền não, nhưng tập khí vô minh và tập khí điên đảo vẫn tồn tại, cho nên vẫn còn nằm mơ. Duy chỉ có Phật là không nằm mơ, vì Phật đã đoạn trừ triệt để tất cả tập khí vô minh và tập khí điên đảo. Lại căn cứ phẩm Mộng Hành kinh Ðại Bát Nhã và quyển 75 luận Ðại Trí Ðộ ghi rằng: Trong giấc mộng Bồ tát có thể nhập giải thoát tam muội, cũng có lợi ích đối với trí tuệ của Bồ tát. Bất cứ người nào nếu trong giấc mộng có thể hành thiện tu tuệ, ít nhiều cũng có ích cho phẩm hạnh và trí tuệ của người đó..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> 13. LOGIC HỌC Phật giáo gọi logic học là Nhân Minh Học. Một bộ Nhân Minh Học giới thiệu có hệ thống nhất gọi là Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận. Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận nói rõ ba chủ đề: Tông, Nhân và Dụ. 1. Tông - Nghĩa lý và mệnh đề được thành lập, và chín điều sai lầm có thể phạm: Hiện lượng tương vi, tỷ lượng tương vi, tự giáo tương vi, thế gian tương vi, tự ngữ tương vi, năng biệt bất cực thành, sở biệt bất cực thành, câu bất cực thành, tương phù bất cực thành. 2. Nhân - Lý do thành lập nghĩa lý, và mười bốn điều sai lầm có thể phạm: (1) Tứ bất thành: Lưỡng câu bất thành, tùy bất thành, do dự bất thành, sở y bất thành. (2) Lục bất định: Cộng bất định, bất cộng bất định, đồng phẩm nhất phân chuyển dị phẩm biến chuyển bất định, dị phẩm nhất phân chuyển đồng phẩm biến chuyển bất định, câu phẩm nhất phân chuyển bất định, tương vi bất định. (3) Tứ tương vi: Pháp tự tương vi, pháp sai biệt tương vi, hữu pháp tự tướng tương vi, hữu pháp sai biệt tương vi. 3. Dụ - Những thí dụ giúp đỡ nghĩa lý thành lập. Dụ chia làm hai loại đồng dụ và dị dụ. Ðồng dụ chỉ cho pháp dụ có hai nghĩa tong - nhân, dị dụ chỉ cho pháp dụ không có hai nghĩa tong - nhân. Lúc dẫn dụng thí dụ, có thể phạm mười điều sai lầm sau: (1) Năm điều sai lầm giống đồng dụ: Năng lập pháp bất thành, sở lập pháp bất thành, câu bất thành, vô hợp, đảo hợp. (2) Năm điều sai lầm giống như dị dụ: Sở lập pháp bất khiển, năng lập pháp bất khiển, câu bất khiển, bất ly, đảo ly. Ba phần nói trên trình bày thành tám mệnh đề thật giả: năng lập, năng phá, tợ năng lập, tợ năng phá, hiện lượng, tỷ lượng, tợ hiện lượng, tợ tỷ lượng. Vì ý nghĩa và quan hệ của những danh xưng nói trên rất phức tạp, không tiện trình bày rõ, cho nên chỉ nói sơ lược. Nếu độc giả có hứng thú với logic học, mời đọc quyển Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận (nguyên văn chữ Hán: Ðại Chánh Ðại Tạng kinh NO. 1630. Nhưng bút giả không biết có tác giả nào dịch ra Việt văn chưa).. 14. LUÂN LÝ HỌC Những vấn đề liên quan đến luân lý trong kinh Phật có rất nhiều. Phàm phương pháp quan hệ đối xử giữa cha con, Thầy trò, anh em, chị em, vợ chồng, bạn bè đều ghi rất tường tận. Bây giờ chúng ta chỉ nói về quan niệm luân lý trong hai bộ kinh như kinh Thiện Sanh và kinh Ưu Bà Tắc Giới. Ðức Phật dạy làm người, con cái nên dùng năm phương thức sau đây để phụng dưỡng cha mẹ: 1. Cúng dường, hầu hạ đừng để cha mẹ cảm thấy thiếu thốn. 2. Dù làm việc gì, trước hết nên thưa hỏi cha mẹ. 3. Khéo lượng thứ những hành động của cha mẹ, cung kính và không được ngỗ nghịch. 4. Ðối với mệnh lệnh và những lời dạy bảo nhắc nhở đúng đắn của cha mẹ không được làm trái..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> 5. Phát huy tích cực để làm rạng rỡ gia phong. (Xem thêm kinh Thiện Sanh và kinh Trường A Hàm) Những bậc cha mẹ cũng nên dùng năm phương thức sau đây để quan tâm đến con cái của chính mình: 1. Yêu thương bảo vệ con cái chu đáo từng li từng tí. 2. Cung cấp cho con cái những phẩm vật cần thiết, đừng để chúng thiếu thốn. 3. Dạy cho con cái những tri thức và kỹ năng. 4. Dạy con cái những đạo lý đối nhân xử thế. 5. Xây dựng mối quan hệ tốt với con cái, giao của cải cho con cái trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. (Xem thêm kinh Lục Phương Lễ) Ðệ tử (học trò) đối với sư trưởng (Thầy): 1. Cung kính nhận lời, việc sư trưởng dạy. 2. Thường nhớ nghĩ đến thâm ân của sư trưởng. 3. Việc sư trưởng sai bảo, nên nhanh chóng đi làm. 4. Làm người và giải quyết công việc theo lời dạy bảo của sư trưởng. 5. Không nên nói xấu sau lưng, nên thường xưng tán những ưu điểm của sư trưởng. Sư trưởng đối với đệ tử: 1. Tận tâm dạy bảo đệ tử và không nên bỏ lỡ thời cơ. 2. Dạy cho đệ tử toàn bộ những gì mình biết, không được keo kiệt. 3. Không được đố kỵ khi đệ tử “thanh xuất ư lam” (Trò giỏi hơn Thầy, thế hệ sau giỏi hơn thế hệ trước). 4. Có thể giới thiệu Thầy tốt bạn hiền thích hợp cho đệ tử. 5. Thường bố thí tài vật, cứu giúp những đệ tử có gia cảnh nghèo khó. (Phẩm Thọ Giới kinh Ưu Bà Tắc Giới) Chồng đối với vợ: 1. Yêu thương quan tâm đến vợ. 2. Không được xem thường vợ hoặc ngạo mạn với vợ. 3. Vì vợ mà làm những vật trang sức nhỏ, mới mẻ, đặc biệt dễ thương. 4. Giúp cho vợ sống trong nhà một cách an tâm, tự tại..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> 5. Quan tâm đến những người thân bên vợ. Vợ đối với chồng: 1. Hết lòng kính yêu chồng, săn sóc từng li từng tí. 2. Xử lý việc nhà không được lơ là chậm chạp. 3. Ðối đãi với chồng một cách thành thật. 4. Nói chuyện phải ôn hòa nhẹ nhàng, không nên thô lỗ. 5. Có thể khen ngợi chồng đúng lúc hợp thời, đồng thời tiếp nhận những kiến nghị tốt của chồng. (Kinh Thiện Sanh và phẩm Thọ Giới kinh Ưu Bà Tắc Giới) Ðối đãi với bạn bè: 1. Kính yêu bạn thân và không nên khinh mạn. 2. Dùng những lời hay ý đẹp khuyên bảo lẫn nhau. 3. Ðối với bạn bè phải giữ lòng tin, tuyệt đối không được bịp bợm dối trá. 4. Lúc bạn bè gặp khó khăn, nguy nan, nên hết lòng ra tay cứu giúp. 5. Lúc bạn bè mê muội phóng dật, có thể khéo dùng phương tiện hướng dẫn bạn ấy sửa chữa khuyết điểm. (Kinh Thiện Sanh và phẩm Thọ Giới kinh Ưu Bà Tắc Giới) Những luân lý hay khác như “tam tùng” trong luận Ðại Trí Ðộ và kinh Thắng Man, “bát kỉnh pháp” trong quyển 48 luật Tứ Phần và quyển 38 kinh Trung A Hàm (còn gọi là kinh Cù Ðàm Di). 15. NHỮNG MÔN HỌC KHÁC NHƯ: CHÍNH TRỊ VÀ PHÁP LUẬT Mục đích chế định pháp luật ở chỗ củng cố quyền làm chủ quốc gia, bảo vệ quyền làm người của nhân dân, làm cho xã hội ổn định vững chắc, tăng thêm phúc lợi cho nhân dân. Nhìn từ mặt bên ngoài, pháp luật hình như đang hạn chế hành vi tự do của con người, nhưng thực tế, nó giống như luật giao thông vậy, muốn mọi người đi đường được dễ dàng, được tiện lợi, thì mọi người nhất định phải tuân thủ luật lệ giao thông. Nếu không, chỉ lo đến tiện lợi của chính mình, lái xe với tốc độ tùy tiện, vượt đèn đỏ một cách loạn xạ, thiên hạ há chẳng phải đại loạn sao?!. Ngày nay, chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, phần lớn các nước trên thế giới đều tuyên xưng quốc gia mình là quốc gia phúc lợi, quốc gia mình có chính trị, giáo dục và pháp luật không ngừng tiến bộ. Nhưng, vì sao vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề xã hội? Những người xem báo chí đều hiểu: Mỗi ngày đều có rất nhiều vụ án cướp đoạt, giết người, gian dâm, tham ô… Những điều này hình như mãi mãi không bao giờ hết. Tại sao như vậy? Vì những người học chính trị và những người chế định pháp luật chỉ suy nghĩ đến nhân tố con người, mà xem thường toàn bộ giới sinh vật và sự cân bằng hệ thống sinh thái. Họ chỉ xem tình hình hiện tại và mặt ngoài mà không đi sâu vào quan sát nhìn rõ hậu quả nguyên nhân trước của vấn đề. Họ không tin.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> “đầu thai luân hồi” và “nhân quả ba đời”, họ cho rằng đó là những lời nói năng vô căn cứ, thật không biết rằng “đầu thai luân hồi” và “nhân quả ba đời” là chân lý mà các bậc Thánh đã thực chứng. (Phật nói: “Tu pháp của Ta, chứng rồi mới tự biết được”) Thậm chí có người một mực cho rằng: Vấn đề xã hội là vấn đề mãi mãi không có cách nào giải quyết, do đó đợi đến khi vấn đề xảy ra rồi mới đi tìm biện pháp giải quyết. Họ không giải quyết trên phương diện toàn diện hoặc không giải quyết trên phương diện căn bản, mà chỉ là đau đâu chữa đấy, ngứa đâu gãi đấy, làm như vậy thì không cách nào phát hiện ra trung tâm của vấn đề.. Ví dụ như nói, thông thường mọi người đều biết rằng: Giết người là do tranh chấp, hận thù và ý kiến chia rẽ mà sanh ra. Cưỡng hiếp là do tham ái và do không tiết chế được tính dục mà ra. Họ đều thấy được sự quan trọng của vấn đề xã hội, nhưng khổ nỗi là không biết cứu cánh của vấn đề, là vì sao lại sinh ra tranh chấp nhau, vì sao chia rẽ ý kiến… Một mặt mọi người thông qua công năng của giáo dục và chính trị để từ bỏ sát đạo và gian dâm; nhưng mặt khác, phim ảnh và tiểu thuyết về sắc tình và bạo lực lại đầy rẫy ngoài thị trường. Mâu thuẫn này làm cho vấn đề càng trở nên phức tạp, khó giải quyết. Trên thực tế, vấn đề sát đạo dâm trong xã hội chỉ là “quả” mà thôi, “nhân” của sát đạo dâm có thể ở đời quá khứ (hoặc đời trước, trước nữa… hoặc vô số đời về trước) đã trồng rồi. Cái “nhân” ẩn nấp kia, đời này gặp được “duyên” đầy đủ (ví dụ như: thiếu sự chăm sóc của cha mẹ, không được giáo dục tốt, thường qua lại với những bạn bè xấu ác, vật chất mê hoặc, ý chí không kiên cường…) cho nên mới sinh ra “quả” sát đạo dâm. Ðiều này cũng giống như quy luật “hạt giống gặp ánh sáng đầy đủ, đất đai màu mỡ, nước vừa đủ, không khí tốt, hạt giống ấy sẽ phát triển tốt và sẽ ra hoa kết trái”. Vì lúc trước chúng ta đã gieo trồng quá nhiều nhân tốt lành và nhân xấu ác, cho nên đời này, có những người (hoặc những sinh vật khác) chúng ta nhìn rồi trong lòng cảm thấy rất thoải mái dễ chịu, có những người (hoặc những sinh vật khác) chúng ta vừa nhìn liền cảm thấy không vừa mắt, không hài lòng. Ðây là do đời trước chúng ta trồng nhiều nhân lành và nhân xấu chen lẫn nhau. Nhìn không vừa mắt, ngoài sự tu dưỡng của chính mình (hoặc những duyên khác) ra, chính là quá khứ đã từng phát sinh những chuyện không vui hoặc gây nhân xấu với người đó hoặc loài động vật nào đó. Ðây là “nhân” ẩn tàng cùng gặp “duyên” tu dưỡng đời này không tốt, cho nên mới nhìn người kia cảm thấy không vừa mắt, dễ sinh ra mâu thuẫn và tạo nghiệp sát. Tất cả “quả” trong vũ trụ đều có “nhân”, nhưng có “nhân” mà không có “duyên” thì không thể sinh ra “quả”. Trong kinh Phật nói: (đời nay) người giàu có từ trong (đời trước) bố thí mà có được, người bần cùng nghèo khó là do keo kiệt tiếc rẻ mà ra, người đoan chánh do nhẫn nhục mà ra, người hạ tiện là do kiêu mạn mà ra, người cao sang trọng vọng là do cung kính mà ra, người câm không nói được là do phỉ báng mà ra, người mù điếc là do không có lòng tin mà ra, người trường thọ là do từ bi mà ra, người đoản mạng là do sát sanh mà ra, người các căn không đầy đủ là do phá giới mà ra, người có lục căn đầy đủ là do trì giới mà ra… Giả dụ như một người từ nhiều kiếp trong quá khứ chưa bao giờ trồng nhân xấu ác, ông ấy mãi mãi sẽ không bị người khác nhìn không vừa mắt, cũng mãi mãi không bao giờ gặp cái họa bị giết. Vì từng giờ từng khắc trên đời này luôn có quá nhiều người đang làm tổn thương hoặc ngược đãi động vật (bao gồm cả người), cho nên những án giết người và đấu tranh trên thế giới này mãi mãi không bao giờ ngừng phát sinh. Nếu trong xã hội không có phát sinh sự tàn sát và đấu tranh, phương pháp căn bản nhất là người người đều giữ giới: không sát sanh, bồi dưỡng tâm từ bi “dân bao vật dữ” (xem mọi người như đồng bào, xem động vật như đồng loại), “vật ngã đồng thể” (vật và mình đồng một thể), và không làm tổn thương hoặc nhiễu loạn bất cứ động vật nào. Cổ đức lưu truyền bài kệ rằng:. Chén canh đầy, mấy trăm nghìn năm, Oan sâu như biển, hận khó hòa,.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Trên đời, muốn biết kiếp binh đau, Chỉ cần nghe tiếng giết đêm khuya.. Bài kệ này nói lên việc giết hại động vật vào nữa đêm trong thế kỷ này, không làm con người chúng ta phản tỉnh sao?! Chính trị và pháp luật hoàn mỹ nhất nên bao gồm năm nhân tố sau đây: 1. Nó không những nghĩ đến nhân loại, mà còn nghĩ đến sự hài hòa của toàn bộ thế giới tự nhiên và sự cân bằng của hệ thống sinh thái. 2. Giải quyết vấn đề xã hội, nên chú ý đến nhân quả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, không nên chỉ nhìn trước mắt. 3. Chú trọng ở cảm hóa và không có oán hận trả thù. 4. Chú trọng ở giáo dục nhân cách và không có giày vò tâm lý. 5. Chú trọng việc rèn luyện tâm linh và trí tuệ, chứ không phải chỉ phòng ngừa những hành vi bên ngoài.. Bây giờ bút giả lược thuật những quan niệm pháp trị trong kinh Ðại Tát Già Ni Kiền Tử Thọ Ký như sau: Vị vua muốn hành nền chính trị nhân từ, nên từ bỏ tham ái, căm thù và vô tri (si mê), mà hãy từ bi, cần cù liêm chính để mưu cầu lợi ích cho toàn dân, phải nhìn xa trông rộng phán đoán tình hình thật và sự khác nhau về tính cách và sở thích của nhân dân mà đưa ra những phương pháp thích hợp để sửa chữa uốn nắn (đối trị) các loại hành vi phạm tội.. Làm một người lãnh đạo nên thường quán sát phản tỉnh những sơ suất, những sai lầm của chính mình, tự mình tuân theo luật lệ, lấy mình làm gương, không tham lam tiền tài sắc đẹp và thường hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tùy thời, tùy nơi, tùy vật, tùy người mà dùng phương pháp có hiệu quả để giúp nhân dân. Ông ấy mãi mãi không bức bách, không bóc lột và không quấy nhiễu những người nghèo khó; thậm chí đối với bọn trộm cướp, tội phạm giết người và những người phạm pháp cũng khởi từ bi tâm để quan tâm cảm hóa. Ông ấy không nên sợ hãi hoặc trốn tránh nguy hiểm mà phải dũng cảm bảo vệ chúng sanh. Ðối với người nghèo khó thì bố thí cơm áo, hướng dẫn họ những kỹ năng mưu sinh. Ðối với những người làm việc xấu ác thì dùng những đạo lý tốt đẹp để dạy họ, dùng hoàn cảnh thích hợp để hun đúc tính chất phẩm cách cho họ. (Phẩm Vương Luận kinh Tát Già Ni Kiền Tử Thọ Ký). Ông vua làm chính trị nhân từ không nên tùy tiện phá hoại (thiêu đốt hoặc dùng vòi rồng phun nước) thành ấp, tụ lạc, rừng núi, sông ngòi, vườn tượt, cung điện, lầu các, đường xá, cầu cống; không nên chặt phá, thiêu đốt, phá hoại, phun nước các loại như ngũ cốc, đậu, mè, lúa mạch, hoa quả, cỏ cây, tòng lâm. Vì sao? Vì phúc lợi của nhân loại phải xây dựng ở trên giới sinh vật hài hòa và hệ thống sinh thái cân bằng, mới duy trì được lâu dài. Phá hoại thiên nhiên, cuối cùng con người phải tự chuốc lấy hậu quả. Rừng núi, sông ngòi, đồng ruộng có rất nhiều.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> động vật, vi sinh vật và quỷ thần đang sinh tồn ở đó. Chúng hoàn toàn không có lỗi lầm, do đó không nên tổn hại chúng để thọ dụng mà khiến cho chúng phải đau khổ. Có thể dùng lòng nhân từ để suy xét đến tất cả động vật, vi sinh vật và giới quỷ thần, mới có thể gọi là “viên mãn thiện hộ chúng sanh”.. Người làm chính trị nhân từ nên có tám cách nghĩ đối với tất cả chúng sanh: 1. Xem tất cả chúng sanh như con của mình. a. Quan tâm đến chúng như cha mẹ quan tâm đến con cái của mình. b. Thường mang tâm từ đối với tất cả chúng sanh. 2. Xem tất cả chúng sanh làm việc xấu ác như những người bệnh. a. Thương xót cho cảnh ngộ của chúng, thấy rõ những khó khăn mà chúng không vượt qua được. b. Kiên nhẫn giáo hóa chúng để chúng sửa lỗi hướng thiện. 3. Khởi đại từ bi tâm đối với tất cả chúng sanh đang chịu khổ. a. Khi chúng gặp hoạn nạn khó khăn, có thể giúp đỡ chúng thoát khỏi khốn khổ đúng lúc kịp thời. b. Thường hành bố thí, đem đến niềm vui và niềm an ủi đặt biệt. 4. Khởi tâm hoan hỷ đối với những chúng sanh có cuộc sống ấm no hạnh phúc. a. Không khởi lòng tham đắm đối với của cải. b. Không ghen tỵ đố kỵ với những niềm vui và sự hưởng thọ của người khác. 5. khởi lòng tha thứ những sai trái của chúng sanh oan gia. a. Xem oan gia như bạn bè thân, như đồng bào. b. Thường xả bỏ những nguyên nhân gây ra thù oán, hóa giải oán thù làm hòa với nhau. 6. Khởi lòng che chở bảo vệ những bạn thân. a. Thường bảo vệ tình hữu nghị được vững bền b. Không sanh lòng sân hận oán giận với những sai sót của chúng. 7. Có niềm vui đối với của cải vật chất. a. Xem thực phẩm như các loại thuốc, không tham đắm đối với sắc đẹp và hương vị..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> b. Có dục vọng nhưng không hành tà dâm. 8. Sanh tâm vô ngã đối với bản thân của mình. a. Lễ kính bậc hiền nhân, thường thỉnh giáo những bậc trí. b. Nghe và tiếp nhận chân lý, như thuyết tu hành.. Giả như một người lãnh đạo có thể làm được tám điều nói trên, ông ấy không cần truy cầu tiền tài vật chất, nhưng nhân dân tự nhiên sẽ hiến cho ông ấy những vật lạ quý hiếm, kho lẫm của chính phủ lúc nào cũng dồi dào đầy đủ. Trong nước không có phi pháp ác vương và quan lại ức hiếp bá tánh dân lành, thì đất nước có được thiên thời địa lợi nhân hòa, mưa hòa gió thuận, ngũ cốc được mùa, nhân dân ấm no, tất cả thiên tai dịch bệnh nguy hại đến cuộc sống của người dân như muỗi mồng, chim chuột, rắn độc, thú dữ… tự nhiên mất hẳn. Vì những thiên tai ôn dịch nói trên cũng là do nghiệp ác của chúng sanh chiêu cảm ra những quả báo đó. Người người đều không tạo nghiệp xấu ác, thì quả báo không tốt dần dần mất hết, tất cả phi nhân, ác tà ác quỷ không cách nào tìm đến một cách dễ dàng. Những người làm ác phạm pháp, chính họ đều bị quả báo, báo ứng, khổ não, loại giáo dục tự nhiên này sẽ khiến họ phản tỉnh sám hối tội lỗi và làm lại cuộc đời.. Nếu như yêu thương bảo vệ chúng sanh và đất nước như vậy, thì không có phụ lòng với quốc dân. Tất cả quốc dân, tri thức Thánh nhân không có cách nào xoi mói bắt bẻ những lầm lỗi của quốc vương. Vị vua nhân từ này khi mạng chung sẽ sanh thiên, hưởng thọ lạc cảnh vi diệu. (Quyển 4 và 5 kinh Ðại Tát Già Ni Kiền Tử Thọ Ký). Tiếp theo chúng ta nói đến quan niệm pháp luật trong kinh: Vị vua thực hành nền chính trị nhân từ nên thực hiện pháp trị [35]. Khi nhân dân phát sinh hành vi làm việc xấu ác phạm pháp, vị vua ấy trước hết phải theo tâm từ bi, dùng trí tuệ quán sát chân tướng một cách rõ ràng, đồng thời suy nghĩ đến năm hạng mục sau đây, sau đó lại tiến hành trừng phạt: 1. Dựa vào thực tế chứ không phải vô căn cứ - Khéo biết lỗi lầm của đối phương và dựa vào tình hình thực tế mà trị tội. 2. Dựa vào thời cơ - Nắm bắt thời cơ trị tội. 3. Dựa vào nghĩa chứ không phải bất nghĩa - Tha thứ, khoan dung những lỗi lầm vô tình, nhưng nghiêm trị những hành vi cố ý. 4. Dựa vào lời nói nhu nhuyến, chứ không phải thô lỗ - Nhằm đúng vào hành vi sai trái, khéo dùng những lời nói khuyên bảo, không được phê bình nhân cách của người ấy, để không làm tổn thương đến lòng tự trọng của người ấy. 5. Dựa vào lòng từ bi chứ không nên sân hận - Ðối với những hành động xấu ác nghiêm trọng, ngoài việc quở trách ra, có thể cân nhắc tình hình cho họ ngồi tù, hoặc mang gông đeo xiềng, tra hỏi, đánh vào mông, hoặc đem tài sản của họ sung công, hoặc đưa họ đến một nơi đặc.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> biệt để giáo dục và huấn luyện họ. Nhưng những phương thức trên phải làm theo lòng từ bi và trí tuệ, vận dụng xem xét kỹ lưỡng mới có thể đạt được mục đích khiến cho họ sửa sai, sám hối làm lại cuộc đời. Những chúng sanh làm việc xấu ác, đại khái có thể chia ra làm năm loại:. 1. Chúng sanh đối với vua (hoặc lãnh đạo quốc gia) không có lợi ích, đại thể có 11 loại: (1) Chúng sanh phản nghịch, (2) Chúng sanh dạy người phản nghịch, (3) Chúng sanh hạ độc vua, (4) Chúng sanh cướp đoạt tiền tài của quốc gia, (5) Chúng sanh phá hoại việc làm của vua, (6) Chúng sanh cướp đoạt cung nữ thê thiếp của vua, (7) Chúng sanh phản lại lệnh của vua, (8) Chúng sanh nói ra những lời bí mật của vua, (9) Chúng sanh dòm ngó lãnh thổ quốc gia, (10) Chúng sanh mắng chửi vua, (11) Chúng sanh hủy báng bới móc vua. 2. Chúng sanh không có lợi ích đối với quốc kế dân sinh, đại khái có 10 loại: (1) Giết người, (2) Cướp của, (3) Tà dâm (gian dâm vợ của người khác), (4) Làm giả bằng chứng, (5) Dối gạt lừa bịp người khác, (6) Phá hoại quan hệ bạn bè của người khác (xúi giục ly gián, đâm bị thóc thọc bị gạo), (7) Ác khẩu mắng người, (8) Lường cân thay đấu, vào nhiều ra ít, (9) Hủy báng lẫn nhau, (10) Thiêu đốt tài sản của người khác. 3. Chúng sanh phản nghịch: Chỉ những thần dân không phục tùng lệnh của vua. 4. Chúng sanh tà hạnh: Tức chúng sanh không giữ thiện giới. Ví dụ như đồ tể, thợ săn hoặc ngược đãi với các loài động vật như heo, dê, chó, mèo, ngỗng, chim ưng, diều hâu; câu hoặc bắn cá, ba ba; chế các loại lưới văng bắt, hầm hố, tên độc, cướp đoạt mạng sống các loại cầm thú, tự mình phóng túng làm ác… 5. Chúng sanh tà mạng: Chỉ những người tu tập lại ăn mặc những trang phục kỳ lạ, không giữ giới luật, hành vi quái dị, phát biểu lời lẽ sai trái… Và những tín đồ không tu hành đúng như pháp. Những hạng chúng sanh như trên, hạng chúng sanh phạm pháp thứ nhất (chúng sanh không lợi ích đối với vua) và nên cho ông ấy ngồi tù, hoặc đem ông ấy đến nơi đặc biệt để quản lý giáo dục, nhưng không được lợi dụng chức quyền đối xử bất nhân với ông ấy. Ðối với chúng sanh phạm pháp thứ hai (chúng sanh vô ích đối với quốc kế dân sinh) cũng có thể cho ông ấy đi ngồi tù, hoặc đem ông ấy đến nơi đặc biệt để quản lý giáo dục, nhưng không được lợi dụng chức quyền đối xử bất nhân với ông ấy.. Ðối với chúng sanh phạm pháp thứ ba (Chúng sanh phản nghịch), trước hết nên dùng những lời hay ý đẹp khuyên bảo, nói những lý lẽ cho ông ấy nghe, nếu như ông ấy biết lỗi sửa sai, thì có thể tha cho tội nặng của ông ấy. Ngược lại nếu như đối phương không hối cải, thì đưa ông ấy đến nơi đặc biệt để giáo huấn. Ðối với hạng chúng sanh thứ tư (chúng sanh tà hạnh), chỉ dùng lời khuyên hoặc trách cứ: Nếu lần sau còn làm như vậy sẽ bị nghiêm trị, đồng thời đưa đi đến nơi quản huấn. Ðối với hạng chúng sanh thứ năm (chúng sanh tà mạng), chỉ có thể quở trách la rày, bài trừ hoặc đưa đến nơi giáo dục đặc biệt. Vì những bậc lãnh đạo thực hành nền chính trị nhân từ, có thể cảm hóa và giáo dục tất cả chúng sanh tà ác, cho nên họ đối với năm hạng chúng sanh phạm pháp nói trên không có dùng.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> hình phạt tử hình, cũng không có cắt những bộ phận trên thân như tai, mắt, lưỡi, mũi, tay hoặc các bộ phận khác trên thân của phạm nhân. Vì dùng phương thức sát thương sẽ tạo thành khổ quả đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo vô cùng vô biên. Người bị giết lúc thọ hình hoặc lúc sắp chết, thường khởi lên lòng oán hận, dẫn đến sau khi chết thọ sanh vào ác đạo báo thù trở lại, cứ tuần hoàn mãi không dứt. Lại nữa, thân thể bị tàn phế rồi, đời này cũng khó hồi phục nguyên vẹn trở lại. Dù người ấy có sám hối sửa lỗi, khuyết tật trên cơ thể sẽ gây nên khổ não và lo lắng trong lòng người ấy, cho nên những bậc hiền nhân trị thế không dùng những hình phạt tàn khốc như tử hình, cắt thịt, cắt mũi… Nhưng nếu như, vì cứu nhiều người mà giết đi một người cực ác hoặc người hoàn toàn không có thiện căn, thì không phạm giới sát. Vì giết người ấy là vì cứu nhiều người, vì lợi ích nhiều người. Nhưng nếu như đối phương có chút thiện căn, thì nên nỗ lực cảm hóa ông ấy, mà không nên khinh suất giết hại ông ấy. Còn về những tham quan ô lại lấy danh nghĩa công để mưu lợi tư, không lo cho nước không lo cho dân, cho đến những người lấn trên hiếp dưới nguy hại lợi ích chung đều là giặc nguy hiểm độc ác nhất của quốc gia. Những người này nên nghiêm trị tội trạng thượng phẩm tội cướp đoạt (hạng chúng sanh phạm pháp thứ hai). Những người vong ân bội nghĩa, chỉ lo cho vợ, không nghe lời khuyên của cha mẹ, hoặc chỉ lo che chở cho vợ, quở trách cha mẹ, hoặc trộm tiền của của cha mẹ, cho riêng vợ con sung sướng thọ hưởng, bất hiếu bức bách cha mẹ, cũng nên nghiêm trị tội trung thượng phẩm tội cướp đoạt. II. NỘI DUNG GIÁO DỤC, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC VÀ ÐIỂM XUẤT PHÁT HOÀN THIỆN 1. NỘI DUNG GIÁO DỤC HOÀN THIỆN Theo kinh điển: Ðức Phật thuyết pháp rất khế cơ. Trong mỗi lời nói của Phật hàm chứa nghĩa lý và ý thú vô hạn, khiến cho người nghe sau khi nhớ lại thú vị vô cùng, không bao giờ thấy chán. Giáo pháp thuần túy mà Phật nói là kết tinh của chân thiện mỹ. Giáo pháp Phật nói có thể thích hợp với thời gian vô tận và không gian vô cùng, đồng thời có ích đối với bất kỳ loài sinh vật nào; chứ không phải chỉ thích hợp ở một khoảng thời gian nào đó hoặc chỉ hữu dụng đối với một số loài sinh vật, lại có hại đối với những sinh vật khác. Cho nên trong kinh gọi những đạo lý Phật nói là “pháp thuần thiện” (tức chân lý hoàn mỹ)[36]. “Lời Phật nói mỗi câu đều hay, chân thật và có lợi ích rất lớn đối với chúng sanh. Ðạo lý Phật nói có sâu có cạn. Khi Ðức Phật giảng đến chân lý viên đốn cứu cánh, thì tỏ ra thâm áo vô cùng; nhưng khi giảng đến những thí dụ tùy thuận thế tục thì đơn giản dễ hiểu. Dù Phật lập lại, nhắc lại một sự vật nào đó, mỗi lần đều có ý nghĩa và diệu dụng khác nhau, cho nên không có bất kỳ sai sót nào” (quyển 22 luận Ðại Trí Ðộ) “Lời Phật thuyết từ đầu đến đuôi đều là ý nghĩa xâu xa, thú vị, hay vô cùng. Lời của Phật không có chỗ nào không hay hoặc không thỏa đáng. Phật luôn tùy theo tư chất và cá tính của đệ tử mà thuyết giảng những pháp môn khác nhau. Ví dụ, đối với những đệ tử muốn độc thiện kỳ thân, thì Phật dạy cho phương pháp giải thoát sanh lão bệnh tử. Ðối với những đệ tử tự tu tự ngộ, Phật thuyết giảng làm thế nào vận dụng tâm trí của mình để quán sát quy luật nhân quả của sự vật. Ðối với những đệ tử thích giúp đỡ người khác, thì Phật thuyết giảng chân lý từ bi với chúng sanh, giúp cho đệ tử thành tựu trí tuệ viên mãn.” (Xem thêm phẩm Danh Tự Công Ðức kinh Niết Bàn và quyển 1 kinh Diệu Pháp Liên Hoa) Cho nên, phẩm Tam Thiện trong Thành Thật Luận nói, kinh điển Phật thuyết có đầy đủ “thất thiện” (bảy điều thiện):.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> 1. Thiện về thời: Từ đầu đến đuôi đều rất hay, ý thú phong phú. 2. Thiện về nghĩa: Pháp của Phật nói có thể giúp cho con người đạt được lợi ích đời hiện tại, đời tương lai và cả lợi ích xuất thế. 3. Thiện về ngữ: Tùy phương tiện mà diễn thuyết chánh nghĩa. 4. Thiện về pháp riêng biệt: Ngoài chư Phật ra, những bậc Thánh giả triết học khác không cách nào giảng thuyết đạo lý thâm diệu này. 5. Thiện về cụ túc (đầy đủ): Trong một bài kinh, một bài kệ cũng đầy đủ tất cả các pháp. 6. Thiện về thanh tịnh điều nhu: Câu cú hay đẹp hoàn thiện không khiếm khuyết. 7. Thiện về phạm hạnh: Giáo pháp của Phật có thể giúp con người thẳng đến niết bàn. 2. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HOÀN THIỆN Theo kinh Phật, Ðức Phật không những dùng những phương pháp thích hợp khác nhau để giáo dục đệ tử, mà khi Phật nói một giáo pháp nào đó, Ngài đều khiến mỗi một vị đệ tử trong buổi thuyết giảng, tùy theo sở thích và nhu cầu của mình mà lãnh thọ những đạo lý khác nhau. Ví dụ, những đệ tử muốn lợi mình lợi người sẽ nghe được giáo lý đại thừa. Những đệ tử thích tu tập một mình sẽ cảm nhận được đạo lý tiểu thừa. Ðiều này trong kinh gọi là “đồng thính dị văn” và “nhất âm viên giải”. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa miêu tả, đạo lý Ðức Phật nói và phương pháp giáo dục Ðức Phật áp dụng vô cùng vi diệu. Phật khéo dùng vô số thí dụ và phương thức để giúp cho đối phương hiểu rõ tất cả đạo lý thâm sâu. Phật giáo dục đúng đối tượng (nhân tài thí giáo), vì vậy mỗi mỗi đệ tử đều hoan hỷ an lạc khi tiếp nhận được sự giáo hóa của Phật[37]. Ðức Phật không những khéo vận dụng các phương thức hay, nhẹ nhàng để khích lệ cổ vũ đệ tử, mà còn lúc cần thiết, Ngài cũng tỏ ra rất uy nghiêm, tha thiết dùng lời nói nghiêm khắc và phương thức la rày để giáo dục đối phương. Nhưng dù Phật dùng phương pháp khen thưởng hay la rày hoặc những phương thức giáo dục khác, hiệu quả giáo dục của Ngài rất là tốt. Mà Phật cũng luôn giữ được trạng thái tâm luôn định tĩnh, khoan thai, từ bi. Mỗi phương thức giáo dục Phật áp dụng đều rất hoàn thiện tốt đẹp, khéo léo đúng lúc hợp thời[38]. Những kỹ xảo Ðức Phật giáo dục đệ tử thật là cao siêu. Phật có thể khiến cho đối phương sau khi nghe một thời pháp xong, dẫn dắt người ấy truy cầu chân lý và tâm nguyện từ bi với chúng sanh hoặc khiến cho đối phương nỗ lực làm các việc tốt việc lành như uống nước cam lồ vậy. Có khi lại khiến cho đối phương sau khi nghe pháp xong cảm thấy sởn tóc gáy, lưng đẫm mồ hôi, từ đó tự sửa lỗi lầm làm lại cuộc đời, trừ bỏ tất cả tập khí và tham dục trước đây. (Xem thêm quyển 22 luận Ðại Trí Ðộ) 3. XUẤT PHÁT ÐIỂM GIÁO DỤC HOÀN MỸ Phẩm Phật Quốc kinh Duy Ma nói rằng: “Dùng diệu pháp này để cứu tế chúng sanh”. Quyển 2 của Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ: “Thánh nhân thuyết giáo chỉ vì chúng sanh”. Từ trong hai câu này, chúng ta có thể thấy được xuất phát điểm giáo dục của Ðức Phật thuần túy là làm cho thế giới hiền lành và làm cho cuộc đời tốt đẹp. Vì sao Ðức Phật muốn nói pháp để lợi ích cho chúng sanh? Ngài không phải vì danh lợi, không phải vì cúng dường hoặc không phải vì tự đề cao… mà là vì sau khi đắc đạo, Phật phát.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> hiện tất cả chúng sanh đều có tiềm năng và Phật tánh bình đẳng, do bị vô minh và tham dục che lấp cho nên Phật lập nguyện, hoằng nguyện từ bi giáo hóa chúng sanh[39]. “Ngày đản sanh của Ðức Phật thực sự quá đặc biệt và kỳ lạ, vì Đức Phật khiến cho tất cả chúng sanh thật sự đạt được lợi ích” (quyển 8 kinh Hiền Ngu) “Ðức Phật vì độ chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh, già, bệnh, chết cho nên Ngài diễn thuyết pháp môn vi diệu nhất. Vì đoạn trừ phiền não và vô minh của chúng sanh, cho nên Ngài làm sự nghiệp lớn về giáo dục” (quyển 4 kinh Ðại Bát Niết Bàn) “Ðức Phật biết mỗi một chúng sanh đều có trí tuệ tiềm tàng vô cùng, nhưng lại bị tham chấp sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ngăn che, vì vậy Phật phát tâm giáo hóa chúng” (Bí Tạng Ký) “Ðức Phật dạy chúng sanh giải thoát những trói buộc hiện thực, đạt được Thánh quả và niềm vui xuất thế, đây là một việc bất khả tư nghì!” (quyển 1 kinh Kim Cang Tam Muội) III. ÐỐI TƯỢNG GIÁO DỤC PHỔ BIẾN Ðức Phật có một điểm lớn khác biệt với những nhà giáo dục khác chính là: Ðức Phật giáo hóa tất cả động vật, nhưng đối tượng giáo dục của những nhà giáo dục khác chỉ giới hạn ở con người hoặc chỉ một số rất ít động vật. Theo kinh Phật, đối tượng mà Ðức Phật giáo hóa bao gồm các loài động vật trong không gian vô tận. Ðây là vì Ðức Phật tinh thông tất cả ngôn ngữ của động vật. Không những trong khoảng sát na thời gian có thể đạt đến những thế giới mấy triệu năm ánh sáng để giáo hóa chúng sanh, mà còn ở trong cùng một thời gian có thể phân ra vô lượng thân ở các thế giới khác nhau, vận dụng các phương thức khác nhau để giáo dục chúng sanh. (Xem thêm quyển 10 Duy Thức Luận)[40]. Chính vì Ðức Phật có tài năng này, do đó chúng ta đọc kinh Phật thường thường có thể thấy được sự tích Ðức Phật giáo hóa các động vật. Ví dụ như trong Ngũ Phần Luật quyển 15, kinh Nhân Quả quyển 3, kinh Thụy Ứng Bổn Khởi quyển hạ, kinh Tu Hành Bổn Khởi quyển hạ, kinh Trung Bổn Khởi quyển thượng, kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm quyển 10, kinh Phật Bổn Hạnh Tập quyển 32, đều nói về sự tích Ðức Phật giáo hóa thương nhân. Trong kinh Diệt Thập Phương Minh có câu chuyện Ðức Phật giáo hóa Diện Thiện Duyệt đồng tử. Trong phẩm Thí Dụ của kinh Diệu Pháp Liên Hoa miêu tả Ðức Phật giáo hóa chúng sanh ở địa ngục, giống như niềm vui đi dạo ở công viên vậy. Những đối tượng được giáo dục khác của Phật như: Quốc vương, đại thần, bá quan văn võ, sĩ, nông, công, binh, bọn cướp, kỹ nữ, tội phạm bị truy nã, thần tiên, thiên chủ, chim nhạn, voi, rắn độc v.v… tất cả đối tượng đã có đủ cả rồi. Ở đây bút giả chỉ nói về sự tích Phật giáo hóa kỹ nữ và đạo tặc, trích dịch như sau: Kinh Luật Dị Tướng ghi rằng, có 500 tên cướp, cướp đoạt tài sản của bá tánh. Quốc vương nước Xá Vệ ra lệnh binh sĩ truy bắt nhóm đạo tặc này. Kết quả 500 tên cướp này đều bị bắt. Quốc vương muốn giết hết những tên cướp này, những tên cướp này vì sợ hãi mà kêu gọi Ðức Phật. Phật bảo A-nan đến thưa với quốc vương như thế này: “Ngài là chủ của một nước, phải thương yêu dân như con, vì sao cùng một lúc mà giết 500 người vậy?” A-nan đến cung vua và chuyển những lời của Phật đến quốc vương, đồng thời nói với quốc vương rằng: “Giết một người, tội đã rất nặng rồi, sao Ngài cùng lúc mà giết 500 mạng người!” Quốc vương nói: “Nếu như Ðức Phật có thể khiến những người này không làm cướp nữa, ta sẽ thả họ!” A-Nan đi đến chỗ Phật kể cho Phật nghe rõ việc này. Ðức Phật bèn đến cung vua và giảng về bố thí, trì giới,.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> nhân quả, nghiệp báo cho 500 tên cướp kia nghe. Những người này sau đó đều sám hối hướng thiện, trở thành đệ tử của Phật. Trong kinh Quán Phật Tam Muội ghi rằng: Trong thành Xá Vệ có rất nhiều kỹ nữ, thường thường họ trang điểm rất đẹp để quyến rũ nam giới. Phàm những người khách muốn cùng qua đêm với họ, nhất định phải trả 200 đồng tiền vàng (tiền thời ấy). Lúc đó có một vị đại thần rất giàu có tên là Như Lư Ðạt. Ông ấy có ba người con trai đều ăn chơi vô độ, thường đi đến những kỹ viện để vui đùa với các cô gái ấy. Ngày tháng lâu dần, tài sản của vị đại thần kia không mấy chốc tiêu xài hết. Lúc ấy Như Lư Ðạt đến chỗ vua kiện rằng: “Những cô gái kỹ nữ kia mê hoặc những con trai của tôi, khiến nhà tôi sắp đến bờ vực phá sản. Mong Bệ hạ đem những cô ấy giết hết, để giải hận trong lòng của thần!”. Quốc vương bảo vị đại thần kia rằng: “Ta đã thọ giới luật của Phật rồi, bây giờ ngay con kiến ta cũng đều không giết hại, hà huống gì giết người! Nghe nói Ðức Phật chỉ có giáo dục chứ không có phân biệt thứ loài, mà đối với bất cứ người nào Phật cũng đều có biện pháp, chúng ta có thể cùng đi thỉnh giáo Ngài vậy”. Thế là vua và vị đại thần đều đến bái kiến Ðức Phật, cầu thỉnh Ðức Phật giáo hóa những kỹ nữ kia. Lúc ấy Ðức Phật mời quốc vương tập hợp những kỹ nữ, đồ tể, bá tánh ở quảng trường, sau đó Phật cùng với 1250 vị đại đệ tử nhập thiền định, thị hiện thần thông đến giáo hóa chúng sanh ở quảng trường. Sau khi tiếp nhận lời dạy của Phật, những kỹ nữ đều phát tâm từ nay về sau không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Kinh Quá Ðộ Nhân Ðạo và Long Thơ Tịnh Ðộ quyển 2 nói rằng: Ðối với các côn trùng nhỏ nhít, các côn trùng biết bay và cả những vi khuẩn Ðức Phật cũng đều tận tâm giáo hóa, hà huống gì con người!. Ðức Phật tích cực quan tâm đến tất cả sinh vật, Ngài là một nhà đại giáo dục chân chính làm được “hữu giáo vô loại”. Từ trong lịch sử chúng ta có thể thấy rằng: Ðối với tất cả chúng sanh Ðức Phật đều đối đãi như nhau. Ngài không những không từ chối lời thỉnh cầu của mọi người mà còn chủ động giáo hóa tất cả chúng sanh, chưa bao giờ Ngài bỏ lỡ cơ hội giáo dục. Trong kinh có hai câu nói của Ðức phật đối với đệ tử, rất có thể biểu đạt tính phổ biến của Phật, giáo dục đối tượng[41].. “Tất cả chúng sanh khác nhau về chủng loại, dù là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh hay hóa sanh; dù là chúng sanh hữu hình hay vô hình; chúng sanh có tưởng hoặc không có tư tưởng, Ta đều cần giáo hóa triệt để, phát triển tiềm năng lớn nhất của chúng, khiến cho chúng đạt được trí tuệ viên mãn, có cuộc sống hạnh phúc an lạc, liễu thoát những thống khổ của sanh, già, bệnh, chết.” (Phần Chánh Tông Ðại Thừa thứ ba của kinh Kim Cang). “Ðức Phật vì chúng sanh ở mười phương mà diễn thuyết đạo lý vi diệu nhiệm mầu.” (Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ) Vì sao Ðức Phật dùng tâm bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh? Như trong kinh Phật nói, vì Phật đã phá trừ triệt để chấp ngã, tự tư, ích kỷ, đồng thời chứng đắc được bản thể bình đẳng của các pháp, cho nên đối với tất cả chúng sanh Ngài từ bi bình đẳng rũ lòng bảo hộ, không có kỳ thị oán thân, quý tiện. Trong kinh Phật Ðịa và kinh Tâm Ðịa Quán quyển 2, gọi khả năng đặc biệt này của Phật là “Bình đẳng tánh trí”. Và theo sự giải thích của Phật Trí Luận, bình đẳng tánh trí là: “Do phá trừ được giới hạn của nhân ngã và ngoại cảnh mà phát sinh ra trí tuệ. Trong.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> cảnh giới này có thể phát ra tâm từ bi mãi mãi, mà còn tùy theo nhu cầu và sở thích của chúng sanh, thị hiện ra các hình tướng khác nhau để giáo hóa chúng”. (Quyển 3 Phật Trí Luận) Nói tóm lại, pháp thân của Ðức Phật (bản thể) thì không nơi nào mà không có, Ngài có thể tùy duyên thị hiện báo thân và vô lượng hóa thân (hiện tượng) để giáo háo những chúng sanh có thiện căn thành thục hoặc chúng sanh có duyên (tác dụng). Ví dụ như nước ở biển có thể tùy duyên thị hiện ra các hiện tượng như sóng, núi băng, hơi nước… và còn sinh ra rất nhiều tác dụng khác. Trong kinh Phật nói: trong một sát na, Ðức Phật có thể giáo hóa chúng sanh nhiều không thể kể xiết. Trong một ngày, số chúng sanh mà Phật giáo hóa còn nhiều hơn trăm nghìn vạn ức triệu lần… so với số chúng sanh giáo hóa trong một tỷ năm ở cõi người và cõi trời, cho đến con số rất nhiều không thể tính đếm được. Nếu độc giả muốn hiểu thêm điều này, mời quý vị đọc thêm kinh Hoa Nghiêm và luận Ðại Trí Ðộ. IV. MỤC TIÊU GIÁO DỤC CAO THƯỢNG Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phương Tiện nói rằng: “Chư Phật vì một đại sự đặc biệt mới xuất hiện ở đời”. Cái gọi là “một đại sự đặc biệt” chính là vì giúp cho chúng sanh đoạn trừ phiền não, liễu thoát tất cả sanh tử và đạt được tất cả trí tuệ. Ðây là chỗ độc đáo nhất về mục tiêu giáo dục của Ðức Phật, hoàn toàn không có một nhà giáo dục hay triết nhân nào trong lịch sử làm được. Vì, theo luận Ðại Trí Ðộ quyển 27 nói rằng: Duy chỉ có Phật mới hiểu biết triệt để về tổng tướng và biệt tướng của tất cả sự vật trong vũ trụ, những Thánh giả khác (như Bồ tát và A la hán) chỉ có thể hiểu biết sự vật cục bộ và tổng quan của sự vật. Do đó trong kinh Phật nói rằng:[42]. “Như Lai xuất hiện ở đời là vì giúp cho chúng sanh thành tựu trí huệ cao nhất” (kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện) “Như Lai là bậc nhất thiết trí, là bậc nhất thiết kiến, là bậc khai đạo, thuyết đạo, là bậc dùng trí tuệ để độ chúng sanh” (kinh Pháp Hoa phẩm Dược Thảo Dụ) “Mục tiêu giáo dục của Phật là muốn giúp cho tất cả chúng sanh đều đạt được trí tuệ chân chánh và tri thức cuộc sống an lạc” (Ðại Nhật Kinh Sớ quyển 9) “Phật giáo hóa chúng sanh là vì gợi mở bảo tàng tâm linh vô cùng của chúng sanh” (kinh Tâm Ðịa Quán quyển 2). Chúng ta nên nói rõ rằng: kinh Pháp Hoa lấy việc giúp cho tất cả chúng sanh hiển hiện Phật tri kiến làm mục tiêu giáo dục của Phật. Kinh Niết Bàn lấy việc giúp tất cả chúng sanh minh tâm kiến tánh làm mục tiêu giáo dục. Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ lấy việc giúp tất cả chúng sanh được lợi ích an lạc làm mục tiêu giáo dục. Kinh Duy Ma Cật và kinh Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn lấy bất khả tư nghì làm mục tiêu giáo dục. Kinh Hoa Nghiêm lấy Pháp giới làm mục tiêu giáo dục. Kinh Nhân Vương và kinh Bát Nhã lấy việc thành Phật đạo làm mục tiêu giáo dục. Danh xưng của mục tiêu giáo dục trong những kinh này tuy không giống nhau, nhưng kỳ thật, nghĩa lại giống nhau. (Xem thêm Thiên Thai Nhân Vương kinh sớ quyển thượng) Chúng ta nên chú ý rằng: Trí tuệ trong kinh Phật nói và trí tuệ của người bình thường nói hoàn toàn không giống nhau. Trí tuệ của người bình thường thì luôn mang theo phiền não, có phân biệt chấp trước, không hoàn mỹ, không thuần thiện, còn lo lắng bất an, không cứu cánh, không viên mãn. Nhưng trí tuệ mà Ðức Phật hướng dẫn cho chúng sanh đạt được là cứu cánh,.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> viên mãn, hoàn mỹ, thuần thiện và không có chen lẫn bất cứ phiền não, chấp trước và tâm lý lo lắng nào.. V. NỘI DUNG GIÁO DỤC THỰC DỤNG VÀ NGHIỆM CHỨNG Ðiểm khác nhau lớn nhất giữa học Phật và nghiên cứu những môn học khác của thế gian chính là tự bản thân mình nghiệm chứng được “kết quả”. Nghiên cứu tất cả các môn học của thế gian như: Văn học, số học, khoa học, y học, nghệ thuật, tâm lý học, âm nhạc, điêu khắc, pháp luật, kế toán, thống kê v.v… mãi mãi không bao giờ, không có cách nào đoạn trừ phiền não một cách triệt để. Những môn học ấy ngoài việc mang lại danh lợi cho con người ở kiếp này ra, đối với các vấn đề lớn như sanh, lão, bệnh, tử… thì lợi ích không bao nhiêu. Chúng ta có thể thấy được rất nhiều nhà tâm lý học, văn học hoặc nhà nghệ thuật rất nổi tiếng đã bỏ ra tinh lực của cả một đời để nỗ lực làm sự nghiệp của chính mình, đến lúc lâm chung lại cảm thấy mù mịt xa vời, đối với con đường phía trước không nắm bắt được gì, mà còn không có cách nào mang theo tất cả của cải và danh lợi của chính mình… Học Phật thì không như vậy, học Phật có thể giúp cho cuộc sống trong đời hiện tại được khỏe mạnh, hạnh phúc, an lạc. Nếu dùng tâm học Phật, thực hành từng bước theo phương pháp trong kinh Phật đã dạy, thực hành đến nơi đến chốn, nhất định sẽ có được đáp án và niềm tin như ý đối với các vấn đề sanh, già, bệnh, chết…. Cho nên luận Ðại Trí Ðộ nói:[43]. “Nếu mọi người làm theo lời của Phật dạy, từng bước tu hành, tất nhiên sẽ đạt được quả báo tốt đẹp. Tuy nhiên, không nhất định mỗi người trong cuộc sống hiện tại đều có thể đoạn trừ phiền não, chứng đắc thánh quả. Ít nhất, ngay cuộc sống hiện tại, những phiền não giảm đi rất nhiều và đạt được thân tâm an lạc nhẹ nhàng. Cũng như người bệnh uống thuốc theo lời hướng dẫn của bác sĩ thì bệnh sẽ thuyên giảm và sẽ hết bệnh. Giả như không làm theo giáo pháp của Phật, không nương vào thứ lớp tu hành, phá giới, lại loạn tâm, cuối cùng không đạt được kết quả gì. Ðây hoàn toàn không phải là giáo pháp của Phật không hay! Vả lại, những người ngay trong đời này không đạt được cảnh giới cao nhất bất sanh bất diệt, đời sau cũng sẽ nhận được phước báo và an lạc. Trong đời sau, những người ấy tiếp tục tu tập, cuối cùng cũng có một ngày sẽ thành tựu trí tuệ cao nhất.” (Dịch từ luận Ðại Trí Ðộ quyển 22) “Giữ gìn giới luật thanh tịnh, trong lòng sẽ không có ăn năn hối hận. Tâm không có ăn năn hối hận, sẽ tràn đầy niềm vui chân lý. Ðạt được niềm vui chân lý, thân tâm sẽ an lạc. Thân tâm an lạc không dễ phát sinh phiền não. Sau khi phiền não giảm đi, thì càng không có hiện tượng tâm viên ý mã. Không có tâm viên ý mã thì dễ dàng giữ được bình tĩnh. Tâm bình tĩnh thì dễ dàng hiểu biết tất cả hiện tượng một cách chính xác. Có thể hiểu biết tất cả chân tướng một cách chính xác, thì càng dễ dàng xa lìa các dục niệm tham, sân, si. Xa lìa được những dục niệm tham, sân, si thì có thể giải quyết được sự đau khổ của sanh, già, bệnh, chết. Giải thoát được nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết thì có thể đạt được cảnh giới bất sanh bất diệt. Ðạt được cảnh giới này mới có thể hưởng thọ niềm vui lớn nhất.” (Dịch từ luận Ðai Trí Ðộ quyển 22) Vì phương pháp theo đuổi hướng ngoại và qua đ ó tư duy phân biệt, những tri thức có được sẽ mang đến phiền não và không đầy đủ. Cho nên kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Chấp trước vào tư duy, tình cảm và ý thức phân biệt đều che lấp trí.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> tuệ của tâm linh. Giả như con người xả bỏ được chấp trước về tư duy, tình cảm và ý thức phân biệt, lập tức phát sinh tri giác kỳ diệu và trí tuệ viên mãn.”[44]. Vì vậy, trong kinh Thập Báo Pháp, Ðức Phật luôn khuyên khích đệ tử nỗ lực nội chứng lý minh tâm kiến tánh, tự mình thể nghiệm Phật pháp, chớ đừng hoài nghi bất định. Trong kinh Tạp Bảo Tạng còn cử rất nhiều thí dụ chứng minh để nói rõ: Tinh thông Phật pháp, tế độ chúng sanh không hạn lượng. Dù tán tâm nghe một bài kệ, nữa câu kinh, hoặc tùy ý đọc được một chút Phật lý cũng đều có được quả báo tốt. Hà huống gì hết lòng chân thành cầu đạo, làm sao có chuyện không chứng Thánh quả! Trong kinh Tập Nhất Thiết Phúc Ðức Tam Muội cũng đặc biệt nhấn mạnh: Nếu mọi người cung kính truy cầu chân lý, thực hành pháp Phật, Phật đối với họ không những không nhập Niết bàn, mà Phật pháp sẽ mãi mãi trường tồn. Tuy họ không cùng thời gian và không gian với Phật, nhưng chính mình luôn luôn có thể nhìn thấy dung nhan của Phật, chính mình nghe được chân lý mà các bậc Thánh giả tuyên thuyết. Ðiều này thật kỳ diệu biết bao! Phật pháp không khoe khoang huyễn hoặc. Phật pháp không những có thể hoàn toàn nghiệm chứng, mà còn mỗi khi vừa đưa ra lý tưởng hoặc trạng thái (cảnh giới) nào đó, thì phương pháp cụ thể để đạt được lý tưởng và cảnh giới đó được bày ra một cách thứ tự rõ ràng: từng bước, quá trình, chướng ngại, nguyên lý nguyên tắc, đặc trưng nội tại, điều kiện bên ngoài v.v… Ðiều này tiện lợi, rõ ràng giống như bạn đi mỗi đoạn đường, đều có phương tiện chỉ dẫn, dẫn dắt bạn và không bị thất lạc phương hướng. Ví dụ như trong kinh Hoa Nghiêm nói rõ 41 giai đoạn thành tựu trí tuệ cao nhất, đặc trưng, điều kiện, phương pháp, chướng ngại… của từng giai đoạn đều nói rõ một cách tường tận. Chỉ cần chúng ta so sánh tình trạng tâm trí, ngôn hạnh của chính mình với từng giai đoạn kinh điển đưa ra, chúng ta sẽ biết ngay chính mình tu hành đến cảnh giới nào, tâm trí đã phát triển đến trình độ nào. Ðây là điều hoàn toàn chính xác. VI. NỘI DUNG GIÁO TÀI CHÂN THẬT Theo kinh Phật, Ðức Phật thấy rõ chân tướng cứu cánh của tất cả hiện tượng, đồng thời xưa nay Ðức Phật không có vọng ngữ:[45] “Ðức Phật quả thật là hóa thân của tất cả chân lý, lời của Ngài nói không có hư vọng.” (Kinh Pháp Hoa quyển 2) “Chỉ có Phật mới hiễu rõ triệt để tất cả sự vật và cứu cánh của hiện tượng.” (Kinh Pháp Hoa quyển 2) “Tất cả pháp môn tu hành của Như Lai lúc sơ phát tâm, đều tuân theo tâm trí thanh tịnh kỳ diệu, sau khi đoạn trừ tất cả vô minh, mới có thể thành tựu Phật đạo.” (Kinh Viên Giác) “Cảnh giới (trạng thái) mà chư Phật và Bồ tát thể nghiệm, thực chứng, đều là chân thật bất hư.” (Tứ Giáo Nghi quyển 1) “Cái gọi là chân lý cứu cánh, chính là viễn ly tất cả cảnh giới hư vọng… Mỗi bộ kinh Ðại thừa Phật thuyết, đều thể hiện chân lý cứu cánh này.” (Tam Tạng pháp số quyển 4) “Tất cả những lời Phật nói không có sai lầm và lệch lạc, dù cạn hay sâu, nhiều hay ít, thô hay tế… đều rất thực tế.” (Luận Ðại Trí Ðộ quyển 22) Ðức Phật vì để thích ứng với tập tính và tư chất bẩm sinh của chúng sanh khác nhau, cho nên Phật vận dụng các giáo tài, phương thức, phương tiện quyền nghi để giúp đối phương dần.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> dần thấu hiểu chân lý chân thật. Nhưng điều kỳ diệu là: Ðạo lý chân thật và giáo tài quyền nghi lại không có mâu thuẫn với nhau[46]. “Ðức Phật diễn thuyết rất nhiều pháp môn phương tiện, từng bước dẫn dắt chúng sanh hiểu rõ chân lý chân thật nhất, cứu cánh nhất.” (Pháp Hoa Văn Cú quyển 3) “Vì Phật thấu triệt tất cả hiện tượng, cho nên không có nói một cách tùy tiện. Vì những điều Phật nói hoàn toàn hợp lý cho nên không có bất kỳ thiên kiến nào. Phật tuy đã thuyết chân lý thành Thánh quả, lại thuyết chân lý của thế tục, nhưng cả hai không trái ngược nhau. Mà còn giúp cho đối phương được lợi ích.” (Luận Ðại Trí Ðộ quyển 22) “Lợi ích sinh vật có nguyên tắc nhất định, đồng thời có thể cứu độ chúng sanh ở thời cơ thích hợp, gọi là ‘phương tiện’.” (Pháp Hoa Huyền Tán quyển 3) Ðức Phật có thể tùy theo tư chất bẩm sinh, sở thích và tính cách cá nhân của đối tượng, khéo léo vận dụng phương thức, phương pháp để dạy văn nghĩa sâu cạn khác nhau.” (Gia Tường Pháp Hoa Nghĩa Sớ quyển 4). VII. NỘI DUNG GIÁO DỤC CHÍNH XÁC Về tính chính xác của Phật pháp, chúng ta có thể thấy một phần từ khái niệm tinh tế về độ dài, thời gian và dung lượng trong Phật pháp: Trong kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã ghi rằng: Trong một niệm có 90 sát na, trong một sát na có 900 lần sanh diệt (“cửu thập sát na vi nhất niệm, nhất niệm trung chi nhất sát na, kinh cửu bách sanh diệt”). Trong luật Ma Ha Tăng Kỳ quyển 17 ghi rằng: Một chốc lát có 20 cái do dự, một do dự có 20 cái khảy móng tay, một cái khảy móng tay có 20 cái nháy mắt, một nháy mắt có 20 niệm… Về phương diện độ dài, ví dụ như trong luận Câu Xá quyển 12 miêu tả rằng: Bảy con rận làm một quảng mạch, một quảng mạch là một tiết, 3 tiết là một chỉ, 24 chỉ là một khuỷu tay, 4 khuỷu tay là một cung, một cung có 7 thước 2 tấc (1 thước ngày xưa chỉ bằng 0,333 mét ngày nay)… Về phương diện dung lượng, ví dụ trong Câu Xá Luận quyển 12 nói: Vật chất có một đơn vị rất nhỏ gọi là cực vi, 7 cực vi bằng một vi trần, 7 vi trần là một hạt bụi vàng… Bụi vàng có thể xuyên qua khe hở giữa kim loại. Chúng ta thấy nhỏ biết mấy! Những gì Phật và Bồ tát thấy còn nhỏ hơn hạt bụi vàng.. Vì có đo lường tinh tế như vậy, lại thêm Ðức Phật hiểu rõ các sự vật như chân tơ kẽ tóc, đồng thời Ngài nói lời chân thật, cho nên Ngài xây dựng một học thuyết có hệ thống hoàn bị và tinh xác tỉ mỉ. Trong kinh Ðại Tập miêu tả tường tận về sự tinh xác nội dung giáo dục của Phật. Và trong kinh có kết luận như sau: “Dù cho bể cạn đá mòn cũng không thể nói những lời của Phật là lệch lạc, vì những lời Phật nói đều là những lời chân lời thật và lời thuần thiện.” (Kinh Ðại Tập quyển 10) VIII. PHƯƠNG PHÁP, GIÁO TÀI VÀ KHÓA TRÌNH MÔN HỌC VIÊN DUNG.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> 1. NỘI DUNG GIÁO TÀI LIÊN QUÁN VÀ BIẾN HÓA Theo kinh Phật ghi rằng, chân lý Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết và chân lý của tất cả Thánh giả mười phương quá khứ đã thuyết, hiện tại thuyết, tương lai thuyết đều ăn khớp với nhau (kinh Pháp Hoa quyển 3). Ðức Phật vì độ chúng sanh căn cơ trình độ không giống nhau, do đó từ chân lý tối thượng (kinh Phật gọi là “chân đế” và “đệ nhất nghĩa đế”) suy diễn các môn học tùy thuận theo thế tục (kinh Phật gọi là “tục đế” hoặc “thế đế”), nhưng hai chân lý này liên tiếp nhau, thông suốt nhau, không chống trái nhau[47]. “Kinh điển Phật thuyết, có lúc miêu tả cảnh giới của Ngài chứng, có lúc thích ứng căn cơ và sở thích của đệ tử, có lúc đem cảnh giới Ngài chứng vận dụng phối hợp với tính hướng của chúng sanh.” (Kinh Niết Bàn quyển 35) “Chân lý cứu cánh rõ ràng, gọi là thật trí. Thông hiểu phương pháp giáo dục thích nghi tạm thời, gọi là phương tiện trí” (Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển 19) “Cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, Ngài có thể hiểu biết một sự vật từ mọi góc độ” (kinh Hoa Nghiêm quyển 2) 2. KHÓA TRÌNH GIÁO DỤC GIÀU TÍNH ÐÀN HỒI Cuộc đời Ðức Phật du hóa 49 năm, thuyết pháp hơn 360 hội. Trong Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa phân Tề Chương quyển 1, chúng ta có thể thể hội được sự viên dung và hoàn mỹ về nội dung giáo dục của Phật. Ví dụ, đối với những đệ tử có lòng tham dục quá nặng, Phật dạy họ “quán bất tịnh”; đối với đệ tử có lòng sân hận oán thù căm ghét, Phật dạy họ “quán từ bi”; đối với đệ tử si mê tà kiến, Phật dạy họ “quán nhân duyên”; đối với đệ tử tâm ý tán loạn, Phật dạy “quán sổ tức”; đối với chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, Phật dạy “quán niệm Phật”; đối với đệ tử chỉ lo tu dưỡng cho chính bản thân mình, thích tự học, tự cầu giải thoát, Phật dạy họ giáo pháp tiểu thừa giải thoát phiền não; đối với đệ tử căn cơ tiểu thừa bất định, Phật dẫn dắt họ dần dần thâm nhập diệu lý đại thừa, khuyến khích họ phát tâm giúp đỡ chúng sanh khác; đối với những đệ tử có căn cơ lanh lợi, Phật trực tiếp khai thị cho họ pháp môn đốn ngộ. Có lúc Phật thuyết giáo pháp ngũ thừa (Nhân thừa, Thiên thừa, Thinh Văn thừa, Bồ tát thừa, Phật thừa); có lúc Phật chỉ giảng diệu lý viên dung vô thượng. Nguyên nhân vì sao như vậy? Vì căn tánh của chúng sanh không giống nhau, do đó Như Lai khéo thuyết những giáo pháp không giống nhau, tùy căn cơ mà dạy, tức giáo dục đúng đối tượng (nhân tài thí giáo). Ðọc kinh Phật càng nhiều, chúng ta càng thấy rõ giáo pháp của Phật rất sâu sắc uyên bác và viên dung, đồng thời chúng ta cũng sẽ khâm phục trí sáng suốt nhìn thấu rõ được tất cả, biện tài và kỹ xảo dạy học của Phật. Khi mới bắt đầu có lẽ chúng ta khó chấp nhận những giáo pháp trong kinh điển, nhưng khi chúng ta có tuổi hoặc tuổi cao dần, kiến thức thu được qua sự từng trải nhiều rồi, chúng ta càng thấy rõ kiến giải chính xác và thấu triệt trong từng câu nói của Phật, diệu dụng của mỗi lời dạy không giống nhau. Ðức Phật rất giỏi về nhân tài thí giáo (giáo dụng đúng đối tượng hay tùy căn cơ của mỗi người mà thí giáo), dù Phật nói như thế nào cũng đều hợp thời, mỗi lần đều luôn đạt được hiệu quả giáo dục tốt đẹp. Phật thường tùy theo tính hướng của đối phương mà dạy những môn học và giáo tài khác nhau. í dụ: Tong kinh Trường A Hàm, Phật nói rõ thế gian có các hiện tượng nhân quả, để giúp cho chúng sanh hiểu rõ thực trạng khổ vui và thiện ác, tiến thêm hơn nữa là lìa khổ được vui, bỏ ác hướng thiện, chuyển mê khai ngộ, sống cuộc sống an lạc hạnh phúc khỏe mạnh..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Tong kinh Bát Ðại Nhân Giác, Phật nói rằng “Vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều thay đổi không ngừng, sanh diệt vô thường” để phá trừ ngã chấp và quyến luyến của cải vật chất của mọi người. Trong kinh Tu Hành Từ Phần, Phật lại nói rõ “bản thể của tất cả sự vật là bất sanh bất diệt, bình đẳng và không phân biệt”, để đãng trừ tình chấp của chúng sanh, giúp chúng sanh hành thiện và không chấp trước tướng thiện. Trong kinh Giải Thâm Mật, Ðức Phật nói bản thể, hiện tượng và tác dụng của sự vật, để giúp đệ tử hiểu rõ tâm trí sâu xa huyền diệu. Trong kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật nói rõ chân lý “Phật tánh của con người là chân ngã bất sanh bất diệt, không ô nhiễm”, để khuyến khích đệ tử mở mang bảo tạng vô cùng và tiềm năng vĩ đại của chính mình. Bất luận Phật nói như thế nào, luôn tùy thời, tùy lúc, tùy nơi, tùy người, tùy vật, tùy việc mà thay đổi cho thích hợp. Phật khéo dùng các hoàn cảnh, nhân tố và cơ hội có lợi để giáo hóa chúng sanh. Cho nên kinh điển nói: Tám vạn bốn ngàn pháp môn mà Phật diễn thuyết đều có thể tiêu trừ bệnh tật về thân và tâm của chúng sanh. Những lời Ngài nói đều hợp tình hợp lý và không mâu thuẫn nhau. Do vậy, trong kinh Nhân Quả Quá Khứ Hiện Tại nói: Khóa trình giáo dục của Phật không những giàu tính đàn hồi, mà còn biểu hiện đầy đủ tri thức tinh túy nhất và tinh hoa khoa học:[48] “Phật có thể biết căn tánh nhanh chậm của mỗi vị đệ tử, đồng thời tùy theo bẩm chất và thói quen cá tính của chúng mà khuyên bảo, giúp chúng hiểu rõ yếu lĩnh của Phật pháp và then chốt tu hành, vì thế mỗi mỗi chúng đệ tử nỗ lực tinh tấn, giải thoát những nỗi khổ của sanh già bệnh chết.” (kinh Nhân Quả Quá Khứ Hiện Tại quyển 4). Trong Pháp Hoa Văn Cú miêu tả Ðức Phật có bốn nguyên tắc giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh thấm nhuần lợi ích của pháp, bốn nguyên tắc này trong kinh gọi là “Tứ tất đàn”. Cái gọi là “Tất” nghĩa là phổ biến, rộng khắp. “Ðàn” nghĩa là bố thí. Bốn nguyên tắc bố thí lợi ích rộng khắp cho chúng sanh gọi là “Tứ tất đàn”. 1. Thế giới tất đàn - Do căn cơ của chúng sanh nông cạn, cho nên Phật tùy theo sở thích thú vui mà giảng những lời thích hợp theo thứ tự, khiến cho họ sanh tâm hoan hỷ, đây gọi là “Thế giới tất đàn”. 2. Vi nhân tất đàn - Trước khi thuyết pháp Ðức Phật quán sát căn cơ trình độ ưu liệt của chúng sanh và thiện căn sâu cạn, sau đó tùy căn cơ thuyết pháp khiến cho họ có đầy đủ tín tâm, thiện căn có thể sinh trưởng. 3. Ðối trị tất đàn - Ðối với chúng sanh nhiều tham dục, Phật dạy họ quán sát sự vật bất tịnh như thế nào để đối trị lòng tham dục. Ðối với đệ tử lòng sân hận oán hờn tương đối nặng, Phật dạy họ bồi dưỡng tâm từ bi. Ðối với người si mê tà kiến, Phật dạy họ quán sát nhân quả của sự vật… Phật diễn thuyết tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị tám vạn bốn ngàn phiền não của chúng sanh. Ðây là giáo pháp tùy bệnh cho thuốc, gọi là “đối trị tất đàn”. 4. Ðệ nhất nghĩa tất đàn - Khi thiện căn của chúng sanh thành thục rồi, Phật bèn thuyết chân lý cứu cánh, giúp chúng ngộ nhập Thánh đạo, đây gọi là “Ðệ nhất nghĩa tất đàn”..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Về nội dung giáo dục của Phật và sự viên dung của môn học, chúng ta có thể thấy trong “Ngũ thời” và “Bát giáo”. Cái gọi là “Ngũ thời”, chính là Trí Giả Ðại sư của Thiên Thai tông đem những giáo pháp của Phật đã thuyết trong một đời phân làm năm thời: 1. Thời Hoa Nghiêm - Sau khi Ðức Phật mới thành đạo, vì hàng Bồ tát đại thừa căn khí đã thành thục mà thuyết kinh Hoa Nghiêm, Ngài thuyết giảng tất cả hiện tượng và bản thể của chân lý kỳ diệu thâm sâu nhất, viên dung vô ngại trong không gian vô cùng và thời gian vô tận, đồng thời Phật chỉ ra con đường ngắn nhất và lịch trình thành tựu trí tuệ cao nhất. 2. Thời A Hàm - Ðức Phật vì tiếp dẫn chúng sanh căn cơ tiểu thừa mà diễn thuyết bốn kinh A Hàm, nói rõ phương pháp giải thoát phiền não và quy luật nhân quả sanh diệt, để đoạn trừ “kiến hoặc” (tâm phân biệt đối với pháp trần) và “tư hoặc” (tâm yêu ghét đối với ngũ trần sắc, thinh, hương, vị, và xúc) của chúng sanh. 3. Thời Phương Ðẳng - Do hàng tiểu thừa nghe Thánh pháp tiểu thừa ở thời A Hàm được chứng đắc được chút ít và cho là đủ, cho nên Ðức Phật lại thuyết kinh điển đại thừa như kinh Duy Ma Cật và kinh Lăng Già, tán dương Bồ tát đạo, giúp cho họ xả bỏ chấp trước tiểu thừa, phát tâm từ bi với chúng sanh. 4. Thời Bát Nhã - Tuy sau khi hàng tiểu thừa bị quở trách hồi tâm chuyển hướng đại thừa, nhưng tình chấp của họ vẫn chưa thể xả bỏ, cho nên Phật nói pháp môn khởi phát tâm trí, để trừ tâm chấp trước phân biệt của họ, giúp họ hành thiện mà không chấp trước các danh tướng. 5. Thời Pháp Hoa Niết Bàn - Vì chúng sanh sau khi tiếp nhận sự giáo hóa của Phật ở ba thời trước (A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã), tâm trí đã dần dần lanh lợi nhạy bén, nhưng họ vẫn dừng ở trong quyền pháp và tiệm pháp. Cho nên Phật lại thuyết kinh Pháp Hoa, dẫn dắt họ từ pháp phương tiện quyền xảo ngộ nhập diệu pháp viên đốn chân thật, và những chúng sanh thượng trung hạ khác nhau về căn cơ, trình độ, tư chất bẩm sinh đều thu được nhiều lợi lạc sau khi được sự dạy bảo của Phật. Có một phần nhỏ chúng sanh vẫn chưa hoàn toàn được độ, Phật Ðà lại thuyết kinh Niết Bàn để độ hóa triệt để chúng, giúp cho chúng sanh đó đều chứng được giáo pháp cứu cánh của Phật Ðà và quả Phật thường trụ viên mãn. Do đó chúng ta có thể biết thời Pháp Hoa giống như mùa gặt lớn, và thời Niết Bàn giống như nhặt bông lúa còn rơi rớt lại. Ðây chính là ví dụ minh chứng hay nhất của việc khéo dẫn dắt đệ tử từng bước của Ðức Phật! Vì thời Hoa Nghiêm thuộc về Ðốn giáo, thời này là khóa trình cao cấp, Phật thuyết cho hàng Bồ tát thượng căn lợi khí. Thời A Hàm, Phương Ðẳng và Bát Nhã thuộc về Tiệm giáo, nó giống như một môn học đi từ cạn đến sâu, dẫn dắt từ từ những chúng sanh có tư chất bẩm sinh chậm chạp, vụng về. Ðiều này rất giống với sở trưởng Sở nghiên cứu Nhận Biết Tâm Lý Học của đại học Harvard, tiến sĩ Jerome Bruner nói “khóa trình hình xoắn óc” (Spiral Curriculum). Vì trước hết họ lấy kết cấu căn bản khoa học để giáo dục chỉ bảo học sinh, sau đó theo bối cảnh và phát triển tâm lý của học sinh để tăng cường đầy đủ nội dung cho môn học. Chúng ta phải đặc biệt chú ý là: Năm thời giáo pháp nói trên của Phật, hoàn toàn không có giới hạn ở thời gian và địa điểm cố định. Chỉ cần căn cơ của đối phương thành thục, họ liền nghe được thời giáo và pháp vị thích hợp với mình từ nơi Ðức Phật. Chúng sanh có căn cơ tốt thường có thể nghe được Phật Ðà diễn thuyết giáo pháp Hoa Nghiêm. Chúng sanh căn cơ thấp hơn một chút thường nghe Phật diễn thuyết giáo pháp A Hàm. Chúng sanh căn cơ không cố định sẽ thường nghe Ðức Phật thuyết những lời có tính gợi mở và khuyến khích họ tinh tấn… Có chúng sanh tư chất bẩm sinh tốt, nghe xong một thời pháp thì có thể nhập đạo; có chúng sanh phải nghe hai ba thời mới hiểu rõ chân lý cứu cánh; có chúng sanh phải trải qua thời gian lâu một chút mới có thể ngộ đạo, hoàn toàn không phải mỗi mỗi chúng sanh đều phải trải qua ngũ thời ngũ vị. Mời độc giả xem thêm Giáo Quán Cương Tông[49]..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> “Bát giáo” chính là hóa nghi tứ giáo và hóa pháp tứ giáo. “Hóa nghi tứ giáo” chính là bốn loại nghi thức hoặc hình thái mà Ðức Phật giáo hóa chúng sanh: 1. Ðốn giáo - Không nói tiểu thừa và tiệm pháp, mà nói thẳng giáo nghĩa diệu pháp viên đốn đại thừa. 2. Tiệm giáo - Chỉ phương thức giáo dục đi từ cạn đến sâu, theo thứ tự mà tiến. 3. Bí mật giáo - Sức thần thông trí tuệ của Phật không thể nghĩ bàn, có thể ẩn mật tùy cơ thí giáo, khiến cho đại chúng cùng nghe giáo pháp, nhưng mỗi người nghe đều khác nhau, mọi người không ai biết ai, giáo nghi này gọi là “bí mật giáo”. 4. Bất định giáo - Trí tuệ thần thông của Phật không thể nghĩ bàn, có thể khiến chúng sanh nghe pháp, có chúng sanh nghe pháp ít mà chứng quả cao, có chúng sanh nghe pháp nhiều mà chứng quả thấp, có chúng sanh nghe pháp đốn giáo mà được lợi ích của tiệm giáo, có chúng sanh nghe pháp tiệm giáo mà được lợi ích của đốn giáo, đây là lấy đốn trợ tiệm, lấy tiệm trợ đốn, và khiến cho người nghe pháp đạt được lợi ích không giống nhau, gọi là “bất định giáo”. “Hóa pháp tứ giáo” chính là bốn nội dung hoặc tính chất mà Phật giáo hóa chúng sanh. Nội dung giáo dục thứ nhất là nói rõ quan hệ của sự vật từ quan điểm của hiện tượng. Thứ hai là nghiên cứu thảo luận quan hệ của sự vật từ quan điểm bản thể. Thứ ba là đàm luận một sự vật nào đó từ nhiều góc độ khác nhau. Thứ tư là nói rõ các sự vật từ quan điểm viên dung hoàn chỉnh.. Ðem bốn quan điểm trên vận dụng vào một sự vật, có thể sinh ra bốn nội hàm giáo dục khác nhau. Ví dụ: 1. Ðối với hạnh lành tự lợi lợi tha mà nói, nội dung giáo dục thứ nhất nghiên cứu thảo luận phương pháp tự lợi lợi tha từ quan điểm của “sự” (hoặc hành vi), khuyến khích mọi người thực hành nhiều về các hạnh lành như bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nội dung giáo dục thứ hai, nghiên cứu phương pháp tự lợi lợi tha từ quan điểm “lý” (hoặc động cơ), khuyến khích mọi người lúc hành thiện không nên chấp trước danh lợi hoặc ngã tướng. Nội dung giáo dục thứ ba, nghiên cứu thảo luận các hạnh lành đủ các kiểu các loại một cách rộng rãi. Nội dung giáo dục thứ tư, lại nghiên cứu thảo luận làm thế nào việc thực hành tự lợi lợi tha biến khắp thời gian vô cùng và không gian vô tận, và mỗi hạnh lành đều viên mãn đầy đủ tất cả các hạnh lành khác. 2. Ðối với những vần đề của bản thân như: Chân tướng của khổ, nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ, và cảnh giới sau khi diệt khổ. Nội dung giáo dục thứ nhất nói rằng: Quả thực con người có những nỗi khổ của già nua, bệnh tật, chết chóc và những nỗi khổ khác. Những nỗi khổ này đều là do tham dục, sân hận, si mê và ích kỷ mà có. Giả như mọi người tu hành giới định tuệ có đầy đủ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thì có thể từ từ phá trừ được ích kỷ, tham dục, sân hận và si mê và giải thoát những phiền não cuộc đời, đạt được cảnh giới an lạc, niết bàn. Nội dung giáo dục thứ hai nói đến: Tất cả khổ não của con người, đều là do những nhân tố tập hợp lại với nhau mới sinh ra, cho nên hoàn toàn không có thực thể. Phàm sự vật do những.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> nhân tố hợp lại mà thành, bản thân của nó chẳng qua chỉ là tên gọi hoặc là giả tướng mà thôi. Hình tướng và nguyên nhân của đau khổ, phương pháp và cảnh giới diệt trừ khổ cũng đều là như vậy. Những điều này vốn chưa từng thực sự sanh, đương nhiên cũng không gọi là diệt. Ví dụ trong không trung vốn không có hoa đốm, nhưng người có bệnh mắt, lại sai lầm cho rằng trong không trung có hoa đốm. Một ngày nào đó bệnh mắt đã hết, sau khi thị lực khôi phục lại bình thường thì hoa đốm trong hư không liền tiêu mất. Lúc này chúng ta không thể nói sau khi những hoa đốm này mất rồi có chỗ mất cố định. Vì những hoa đốm này không có thực thể, chỉ là huyễn tướng, nó vốn chưa từng sanh, vậy nó có diệt không? Phàm phu chỉ thấy biểu hiện của sự vật, nhưng không thấy bản thể của sự vật. Vì vậy trong cảnh giới vô sanh, vọng thấy có hiện tượng sanh diệt, không ngờ những hiện tượng sanh diệt đều là giả tướng hư huyễn, giống như người nằm mơ cảm thấy cảnh trong mơ rõ mồn một, sau khi tỉnh dậy, mới phát hiện hồi nảy chấp trước cảnh mộng, chứ thực sự không có gì hết. Chú thích - Trong kinh Phật nói: Thánh giả (Thất địa Bồ tát trở lên) thấy rõ bản thể của tất cả sự vật, hiểu rõ chân lý bất sanh bất diệt của tất cả sự vật, mới có niềm tin tuyệt đối và mãi mãi không thối lui. Nếu không thì, niềm tin giống như bong bóng bay trong không trung không ổn định, lúc thì lên, lúc thì xuống. Trong nội dung giáo dục thứ ba, Ðức Phật chỉ ra rất nhiều tướng trạng của khổ, nguyên nhân đưa đến đau khổ, phương pháp diệt khổ và cảnh giới sau khi diệt khổ. Vì mức độ tham dục, sân hận, si mê, tự tư ích kỷ của chúng sanh và chủng loại rất nhiều, cho nên họ thọ quả báo cũng khác nhau và rất phức tạp. Phật có rất nhiều pháp môn có thể phá trừ nhiều quả báo khổ và nguyên nhân đưa đến đau khổ. Ở trong nội dung giáo dục thứ tư, Phật đà nói rõ: Hiện tượng và bản thể của bất cứ sự vật nào đều là bất nhất, bất dị (không phải một không phải khác), bất tức bất ly (không phải gần không phải xa), viên dung vô ngại. Phật tánh của con người biến khắp trong không gian vô cùng và thời gian vô tận, dung nhiếp với nhau, không chỗ nào mà không có, và xưa nay vẫn thường tồn tại. Tánh linh (Phật tánh, chân như) này là bản thể của chư Phật, cũng là chân ngã của mỗi người. Vì tất cả sự vật không rời khỏi bản thể viên giác thanh tịnh, do đó thể tánh của si mê và trí tuệ, phiền não và giải thoát, sanh tử và Niết bàn hoàn toàn như nhau. Trí tuệ, giải thoát và Niết bàn vốn có đầy đủ trong tâm linh, hà cớ gì phí sức tạo tác hoặc hướng ra bên ngoài tìm cầu? Vì vậy, Như Lai Thế Tôn nói: Cảnh giới viên dung này có thể hành thiện một cách tự nhiên, giúp người khác một cách vô điều kiện, có thể thành tựu trí tuệ cao nhất. Cảnh giới này không có bất kỳ phiền não và si mê nào, trong lòng của chúng ta cũng không có vướng mắc bất kỳ danh tướng nào—Chúng ta cảm thấy không có khổ não để xả bỏ, cũng cảm thấy không có niết bàn để cầu, càng không có ý thức mình đang hành thiện. Cảnh giới này hoàn toàn không có sự ràng buộc của danh tướng, nhưng vẫn luôn có tác dụng tự lợi lợi tha và giáo hóa chúng sanh. Những gì vừa nói trên, chẳng qua chỉ là một số ít quan niệm quan trọng mà thôi. Nếu độc giả muốn hiểu thêm về tầng lớp và phương thức giáo pháp của Phật, mời quý vị đọc thêm Giáo Quán Cương Tông Khoa Thích, Thiên Thai Tứ Giáo Nghi, Hiền Thủ Ngũ Giáo Nghi, Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghi Phân Tề Chương, Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm yếu. 3. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC BIẾN HÓA NHIỀU NHẤT Theo kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp ghi rằng, Phật Thế Tôn không có dùng một phương thức giáo dục cố định nào, mà hoàn toàn tùy theo tư chất bẩm sinh, tập tính, nhu cầu và sở thích để vận dụng linh hoạt các phương pháp giáo dục thích hợp. Cho nên trong kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp gọi Ðức Phật là “đại dụng vô phương pháp Vương”, nghĩa là Bậc Thầy, bậc Ðại Ðạo Sư đạt được hiệu quả giáo dục to lớn mà không có một phương thức dạy học cố định..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> “Phương pháp giáo dục và nội dung giáo dục của Phật vô lượng vô biên như hư không. Thiên vạn loại chúng sanh khác nhau, sau khi được Phật dạy dỗ đều thấm nhuần rất nhiều lợi ích. Phật làm lợi ích cho chúng sanh hoàn toàn không có phương pháp cố định” (Ðồng Tư Trì ký) “Phương thức Phật giáo hóa phẩm cách chúng sanh không những không cố định, mà ngay cả phương thức gợi mở tâm trí chúng sanh, khuyên bảo chúng sanh cũng không phải nhất thành bất biến (đã hình thành thì không thể thay đổi), (Tam Luận Huyền Nghĩa)[50]. Phương thức giáo dục của Phật thực sự nhiều không thể kể hết. Ví dụ, kinh Thắng Man và kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng ghi rằng: Phương thức giáo dục của Như Lai Thế Tôn là tích cực chủ động, chứ không phải bị động. Phật không cần đợi đối phương đến thỉnh cầu, sau đó mới tiến hành giáo dục, mà lúc nào Phật cũng quan sát căn cơ của đối phương thành thục hay chưa và Phật chủ động giáo hóa. Nhưng có lúc Ðức Phật lại dùng phương thức “dạy mà không dạy” để hóa độ học trò. Ví dụ, Ðại Trí Ðộ Luận quyển 2 miêu tả, Ðức Phật vận dụng phương pháp “mặc tẩn” (lặng lẽ, gạt bỏ) và “bính khí” (vứt bỏ) để hóa độ một để tử có cá tính xấu ác khó sửa như Xa Nặc. Có lúc Ðức Phật dùng phương pháp mới mẻ, khác thường, đặc biệt để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ kinh Mạt La Vương ghi rằng, có một lần nọ, trong nước Mạt La có một hòn đá chắn ngang giữa đường đi, rất nhiều người dùng sức dời đi, nhưng đều bất động với hòn đá ấy. Lúc ấy Phật dùng thần lực di dời hòn đá ấy sang một bên, sau đó Phật giảng giáo pháp “tứ lực” để giáo hóa họ.. IX. CƠ HỘI GIÁO DỤC QUÝ BÁU. “Pháp Phật cao siêu lý rộng sâu, Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu. Con nay nghe đặng chuyên trì niệm, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.” Từ bài kệ khai kinh hay bài kệ tán dương giáo pháp ở trên, chúng ta có thể hiểu được rằng, việc nghe được pháp Phật khó đến mức nào. Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển hạ và Ðại Trí Ðộ Luận quyển 5 và quyển 38 ghi rằng, Như Lai Thế Tôn đã từng dùng hai ví dụ rất thú vị để hình dung sự lâu dài của một kiếp. Ðại Trí Ðộ Luận nói: Ví dụ cứ cách mỗi 100 năm có một người trường thọ, dùng chiếc khăn mềm mại lau một lần lên hòn đá lớn khoảng 40 dặm, mãi cho đến khi hòn đá ấy được lau bóng lên, một kiếp vẫn chưa hết. Lại ví dụ, có một cái thành lớn khoảng 40 dặm, chất đầy những hạt cải, cứ cách mỗi 100 năm lấy ra một hạt từ trong đống hạt cải ấy, mãi cho đến khi lấy ra hết những hạt cải trong thành ấy, một kiếp vẫn chưa hết. Một kiếp lâu dài như vậy, hà huống gì Phật pháp là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp thay! Kinh Niết Bàn quyển 2 và kinh Tạp A Hàm quyển 16 đều dùng thí dụ con rùa mù nổi lên gặp bộng cây để hình dung “đời người khó được”, “Phật pháp khó nghe”: Trong biển cả mênh mông có một khúc gỗ, khúc gỗ ấy nổi trên mặt biển và khúc gỗ ấy có một cái bộng, tùy theo gió và sóng mà bộng cây ấy trôi nổi không dừng trên mặt biển. Một con rùa mù sống rất thọ, cứ cách.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> mỗi 100 năm nó nổi lên một lần và muốn gặp bộng cây nổi trên mặt biển kia, thật sự trong cái khó lại còn cái khó khác. Nghe được Phật pháp còn khó hơn việc này! Trong quyển 12 kinh Niết Bàn lại hình dung con người sinh ra đời mà gặp được Phật còn khó hơn dùng hạt cải ném trúng đầu cây kim trong không gian. Kinh Tâm Ðịa Quán quyển 1 và kinh Niết Bàn quyển 14, đều ghi rằng: Từ lâu đời về trước Như Lai Thế Tôn đã từng làm Tuyết Sơn Ðồng Tử, lúc ấy không có Phật tại thế, nhưng Ngài Tuyết Sơn vì cầu 8 chữ sau của một bài kệ trong Phật pháp (bài kệ đó là: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, nghĩa là: Tất cả sự vật có sanh có diệt đều là hư huyễn vô thường. Không sanh không diệt mới là an lạc cứu cánh và tồn tại mãi mãi), mà hy sinh thân mạng, từ việc này đủ để thấy rằng nghe được Phật pháp thật đáng quý! Sau đây, chúng ta trích dẫn vài đoạn văn trong kinh điển để nói rõ Phật pháp đáng quý: [51]. “Như Lai Thế Tôn dùng lòng từ ái vô hạn và vô điều kiện làm điểm xuất phát, vì vậy Như Lai Thế Tôn đản sanh ở thế giới này, hoằng dương phương pháp giải thoát sanh lão bệnh tử và thành tựu trí tuệ viên mãn, giúp cho tất cả chúng sanh đều đạt được lợi ích chân thật. Ðây là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp!” (Kinh Vô Lượng Thọ) “Bất kỳ một câu pháp kỳ diệu nào của Phật, đều là ức kiếp khó gặp” (Bí Tạng Bảo Thước quyển trung) “Ta không tiếc thân mạng, mà chỉ trân quý Phật đạo vô thượng” (phẩm Khuyến Trì kinh Pháp Hoa) “Chúng con làm thế nào báo đáp ân đức sâu nặng của Như Lai Thế Tôn? Chúng con nghe những lời dạy bảo của Như Lai, được lợi ích vô cùng, đây là việc vui mừng biết bao!” (Phẩm Tín Giải kinh Pháp Hoa). “Giả như có người nói: Tìm một câu Phật pháp, có thể làm tăng thêm đạo hạnh cho ngươi để từ bi với chúng sanh, bây giờ nếu ngươi đi vào hầm lửa lớn, nhẫn chịu sự thống khổ, ta sẽ đem câu Phật pháp này truyền cho ngươi! Bồ tát nghe câu nói này, bèn nghĩ rằng: Ta có câu giáo pháp này của Phật, có thể giúp tăng trưởng đạo hạnh từ bi đối với chúng sanh. Dù cả đại địa này đều là lò lửa, ta vẫn bằng lòng từ trên không trung nhảy xuống, hà huống gì là hầm lửa kia!...” (Kinh Hoa Nghiêm quyển 35) Theo kinh Pháp Hoa phẩm Chúc lụy ghi rằng, Phật pháp là do Phật đã trải qua vô lượng kiếp không ngừng nỗ lực tu tập mà thành[52]. Ðức Phật đã từng nói: Nếu có đệ tử của Phật nghe được kinh Pháp Hoa, trong lòng cảm thấy hoan hỷ vô cùng, sau đó tận lực diễn thuyết cho cha mẹ hay bạn bè nghe. Những người bạn này sau khi nghe xong lại giáo hóa người khác, như vậy truyền đến 50 lần. Người thứ 50 đó nghe được, nếu cũng tùy hỷ tán thán kinh Pháp Hoa, công đức của người ấy nhiều hơn so với người bỏ cả thời gian 80 năm đem những việc vui chơi bố thí cho người khác: Công đức bố thí tài vật này không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần ức công đức tùy hỷ kinh Pháp Hoa. (Phẩm Tùy Hỷ Công Ðức kinh Pháp Hoa) Ðây là nguyên nhân “bố thí chân lý quý hơn bố thí tài vật”..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Phật đã từng đặc biệt nhấn mạnh pháp thí và tài thí có năm điểm khác nhau như sau: 1. Pháp thí lợi người lợi mình, tài thí chưa chắc lợi cả hai. 2. Pháp thí có thể làm cho tâm thanh tịnh và trí tuệ phát sanh, nhưng tài thí lại dễ tăng trưởng tình sắc. 3. Pháp thí có thể đoạn trừ vô minh một cách triệt để, tài thí chỉ khắc phục phần nào tham ái. 4. Pháp thí có thể giúp chúng sanh giải thoát tất cả khổ não, nhưng tài thí chỉ có thể giải thoát một phần nhỏ khổ não. 5. Quả báo của pháp thí là không cùng tận. Nhưng tài thí lại có hạn. Phật pháp trân quý như vậy! Thảo nào người xưa, lúc viết kinh Phật, mỗi lần viết một chữ là lễ ba lạy. Ðiêu khắc tượng Phật, mỗi lần khắc cũng lễ ba lạy.. Ðại Trí Ðộ Luận quyển 16 và quyển 49 đều ghi rằng, mấy đời về trước, Ðức Phật là một vị Bồ tát Dược Pháp, đã từng vì cầu Phật pháp mà phát tâm nguyện lột da của mình làm giấy, lấy xương làm bút, lấy máu làm mực để viết bài kệ của chư Phật đã thuyết.. Kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, trong phẩm Bồ Tát Ba Luân ghi rằng: Ðã từng có vị Bồ tát vì nhớ đến Phật và những giáo pháp của Phật và cảm thán rằng mình không có gì tốt để cúng dường Phật. Lúc ấy vị Bồ tát ấy vừa gặp được một vị phú hào muốn mua tủy xương để điều chế thuốc trị bệnh. Thế là vị Bồ tát ấy lấy tủy xương của mình bán cho vị phú hào kia, dùng tiền có được mua các loại hoa cúng dường Phật.. X. HOÀN CẢNH GIÁO DỤC KỲ DIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC SÂU XA 1. HOÀN CẢNH GIÁO DỤC KỲ DIỆU Hoàn cảnh giáo dục của Phật rất đặc thù. Theo kinh Bát Nhã và kinh Pháp Hoa ghi rằng, khi Phật thuyết kinh điển đại thừa và đạo lý thâm diệu đều có hoàn cảnh giáo dục nhất định. Ví dụ: Trước hết Phật nhập định quán sát căn cơ của chúng sanh, sau đó chư thiên rải hoa cúng dường, đại địa hiện ra sáu loại chấn động, trên thân Phật phóng ra các loại hào quang, khiến cho chúng sanh trong pháp tòa đều sanh lòng hoan hỷ, sau đó Phật Thế Tôn bắt đầu giảng kinh[53]. Trong quyển 1 kinh Bảo Tích miêu tả: Khi giảng kinh ở núi Kỳ Xà Quật trong thành Vương Xá, Phật Thế Tôn đã từng dùng thần lực, khiến tất cả các động vật như sư tử, cọp, sói, voi, ngựa, gấu, chim khổng tước, chim anh vũ, chim ưng, chim uyên ương… xa lìa những phiền não tham dục và sân hận. Lúc ấy, tất cả động vật không những không tàn sát ăn thịt nhau, mà còn vui đùa với nhau. Khắp nơi trong núi đều có hương hoa, khắp nơi đều có hạt dẻ ngon và suối ngọt. Rất nhiều loài chim nhỏ reo hót, thiên nữ ca vịnh tán thán. Nhiều Thiên chủ và Thiên đế biến ra rất nhiều mây lành, rải xuống thiên hoa, bảo vật, áo thơm, bảo cái và cờ phướng đẹp đẽ để bố trí đạo tràng. Lúc ấy có 9500 vị đệ tử, 8000 vị đại Bồ tát và mười mấy ức thiên chúng ở tại.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> đạo tràng kính cẩn chờ đợi sự giáo huấn của Phật, có người chấp tay lễ bái, có người yên lặng khấn cầu, có người chí thành chiêm ngưỡng, có người kiền thành phủ phục… Những cảnh tượng trang nghiêm, thật sự là giấy trắng mực đen khó mà hình dung!. Trong phẩm Thần Lực quyển 6 của kinh Pháp Hoa, Phật hiện mười loại thần tích để bố trí hoàn cảnh giáo dục: 1. “Phật hiện đại thần thông, với tướng lưỡi rộng dài, đến cõi Phạm thiên”—biểu thị rằng lời nói của Phật không hư vọng. Theo kinh Phật ghi rằng, vô số đời về trước cho đến nay Phật đều nói lời chân thật, nên lưỡi vừa mỏng vừa khéo léo, đưa ra có thể chạm đến trán. Người có lưỡi dài có tài nói chuyện rất hay. 2. “Mỗi lỗ chân lông đều phóng ra vô số hào quang, mỗi một hào quang đều biến chiếu khắp mười phương thế giới”—biểu thị trí tuệ cứu cánh nhất của Như Lai Thế Tôn. 3. “Sau đó thu lại tướng lưỡi rộng dài, và khánh khái (ho) lên mấy tiếng”—Âm thanh nhẹ gọi là khánh, âm thanh nặng gọi là khái. Khánh khái có hai cách giải thích. Một là tượng trưng cho sự thông suốt, trôi chảy, lưu loát, để biểu thị Phật pháp quyền cơ nhị đế, thông suốt vô ngại. Hai là đem ý nghĩa những lời muốn nói, biểu thị đem pháp bảo này truyền cho Bồ tát để làm lợi ích cho chúng sanh đời sau. 4. “Bật ngón tay”—biểu thị thấy việc thiện tùy hỷ theo. 5. “Hai loại âm thanh này chuyển biến khắp thế giới mười phương chư Phật, cả đại địa hiện ra sáu loại chấn động”—biểu thị pháp của Phật có thể phá trừ triệt để vô minh phiền não. 6. “Những chúng sanh ở thế giới kia… do thần lực của Phật đều thấy thế giới Ta bà này có vô số vạn ức Phật Bồ tát…”—biểu thị đạo lý của mỗi một vị Phật đều tương đồng. 7. “Chúng sanh thấy được những hiện tượng này, trong lòng rất vui mừng. Lúc ấy chư Thiên trên không trung xướng rằng: Xuyên qua vô số hệ thiên hà, có một thế giới gọi là thế giới Ta bà. Thế giới ấy có một vị tôn Phật gọi là Thích Ca Mâu Ni. Hiện nay đang chuẩn bị diễn thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho hàng Bồ tát, diệu pháp này từ bi với tất cả chúng sanh, cho nên quý vị nên cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni” —biểu thị bộ kinh này và giáo pháp sau này sẽ được truyền bá rộng rãi. 8. “Những chúng sanh sau khi nghe được âm thanh trên không trung, đều chấp tay hướng về thế giới Ta bà, niệm: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật…”—biểu thị tán thán, lễ bái Phật. 9. “Dùng các vật quý như hương hoa, anh lạc, cờ phướng… rải xuống thế giới Ta bà. Những vật được rải xuống giống như mây tụ lại, biến thành màng, biến khắp và che trên đỉnh mỗi vị Như Lai”—biểu thị bố thí là đạo lý quan trọng trong Phật pháp. 10. “Lúc ấy mười phương thế giới thông suốt vô ngại, giống như đồng với cõi Phật vậy”—biểu thị lý và thể trong thời gian vô cùng không gian vô tận đều tương đồng với nhau. Về nghĩa đầy đủ của mười loại thần tích này, mời độc giả xem thêm Pháp Hoa Văn Cú quyển 10. 2. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC KỲ DIỆU.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Trong Ðại Trí Ðộ Luận ghi rằng, Ðức Phật có thể vận dụng sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp một cách linh hoạt và khéo léo để giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh dùng các cảm quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để ngộ đạo. Thí như, có người nghe xong những đạo lý Phật thuyết mà ngộ đạo, có người thấy thân Phật phóng hào quang mà ngộ đạo, có người ngửi được mùi vị từ lỗ chân lông trên thân Phật mà ngộ đạo, có người nhớ Phật và nhớ lời Phật dạy mà ngộ đạo… Có lúc Ðức Phật xuyên qua bố thí để giúp đối phương đắc đạo, có lúc Phật dùng thần thông để giúp đối phương đắc đạo, có lúc Phật hiển hiện cơ trí linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh để giúp đối phương ngộ đạo. (Ðại Trí Ðộ luận quyển 34)[54]. Càng thần kỳ hơn nữa, sau khi Thế Tôn nhập các loại thiền định, mỗi lỗ chân lông trên thân đều phóng ra vô lượng hào quang, biến chiếu khắp nơi trong vũ trụ, và trong mỗi một hào quang hiện ra hoa sen nghìn lá, trên mỗi đóa hoa sen đều có một vị Phật hóa thân, lỗ chân lông của mỗi vị Phật hóa thân lại phóng ra vô lượng hào quang, trong mỗi một hào quang lại hiện ra hoa sen nghìn cánh, trên mỗi đóa hoa sen lại có một vị Phật hóa thân… suy diễn như vậy đến vô cùng tận. Những vị Phật hóa thân này tùy theo căn cơ, tính cách, phẩm chất của chúng sanh trong thế giới mà họ đang ở, vận dụng những phương thức khác nhau để giáo dục chúng sanh. (Ðại Trí Ðộ Luận quyển 21)[55]. 3. NỘI DUNG GIÁO DỤC HUYỀN DIỆU SÂU XA Sự huyền diệu sâu xa trong kinh Phật thực sự khó hình dung. Thí dụ như, trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa ghi rằng, chỉ riêng bộ kinh Pháp Hoa đã có “Tích môn thập diệu” và “Bản môn thập diệu”. Tích môn (bao gồm 14 phẩm trước trong kinh Pháp Hoa) thập diệu bao gồm: 1. Cảnh diệu—Chỉ lý cảnh. Ðối với lý thể mà nói, tâm Phật và tâm chúng sanh tam vô sai biệt (Tam vô sai biệt: Chỉ một tâm thể Thánh phàm như nhau; Phật vô sai biệt: Chỉ thập phương chư Phật liễu ngộ pháp mười giới, mười như thị mà thành chánh giác, tức là liễu ngộ những thứ trong bản tâm, liễu ngộ những điều mà chúng sanh còn mê lầm. Nhân quả mê ngộ tuy khác nhau nhưng về thể thì không hề sai biệt; chúng sanh vô sai biệt: Chỉ chín giới chúng sanh đều có đủ pháp mười giới, mười như thị, những điều mà chư Phật liễu ngộ và những điều mà bản tâm sẵn có, về thể không có sự sai biệt). Về phương diện sự tướng thì chỉ Phật với Phật mới có thể thấu rõ thật tướng các pháp. 2. Trí diệu—Trí tuệ mà Thế Tôn đạt được vi diệu nhất. 3. Hành diệu—Diệu trí viên mãn của Phật Thế Tôn đưa đến hành vi rất vi diệu. 4. Vị diệu—Cảnh giới Phật chứng và Phật đã trải qua những cảnh giới ấy (từ Thập trụ cho đến Thập địa), huyền diệu vô cùng. 5. Tam diệu pháp—Ðức Phật trình bày lý (chân tánh), tuệ và định đều kỳ diệu không thể nghĩ bàn. 6. Cảm ứng diệu—Chúng sanh có cơ duyên, hành vi và nguyện lực thích hợp, Phật Thế Tôn bèn dùng phương thức kỳ diệu tiến hành cảm hóa. Giống như mặt trăng chiếu khắp trên mặt nước và ánh sáng lấp lánh trên mặt nước ở nhiều nơi khác nhau, thật diệu không thể nghĩ bàn. 7. Thần thông diệu—Phật Thế Tôn tùy cơ nghi, tùy phương tiện giáo hóa chúng sanh, tự tại vô ngại, diệu bất khả tư nghì..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> 8. Thuyết pháp diệu—Phật Thế Tôn diễn thuyết các pháp môn khác nhau, khiến cho chúng sanh đều ngộ nhập tri kiến Phật, đó là diệu không thể nghĩ bàn. 9. Quyến thuộc diệu—Phật Thế Tôn vừa xuất hiện ở đời, đại Bồ tát khắp nơi đến ủng hộ, có vị Bồ tát vì nguyện xưa mà sanh đến, có vị ứng hiện mà đến, đều gọi là quyến thuộc và đều diệu không thể nghĩ bàn . 10. Lợi ích diệu—Phật thuyết pháp, giúp chúng sanh đều khai ngộ bản tính, nhập vào tri kiến Phật, thành tựu trí tuệ, giống như trận mưa phải thời, các loại cây cỏ lớn nhỏ trên đại địa đều được lợi ích, thật là kỳ diệu không thể nghĩ bàn. (Pháp Hoa Huyền Nghĩa phần 2 quyển 2) Về “Bản môn thập diệu”, vẫn là mười bốn phẩm sau của kinh Pháp Hoa, nói về những đặc trưng của pháp thân bản nhân, bản quả và bản địa của Phật. “Bản môn thập diệu” bao gồm: 1. Bản nhân—Ðó là cái nhân sở tu lúc ban đầu khi mới phát tâm Bồ đề tu đạo Bồ tát. 2. Bản quả—Cái nhân sở hành viên diệu lúc ban đầu khế hợp được với cứu cánh Thường Lạc Ngã Tịnh, đó chính là bản quả. 3. Quốc độ—Bản đã thành quả, ắt có nước y chỉ, nay đã tích tại cõi đồng cư, hoặc tại ba cõi, ở giữa cũng có bốn cõi, bản Phật cũng phải có cõi, mà thế giới Ta bà hiện nay là bản quốc độ diệu. 4. Cảm ứng—Ðã thành quả rồi tức là có 25 tam muội bản thời sở chứng, thệ nguyện từ bởi cơ cảm tương quan, có thể tức tịnh mà chiếu, nên nói là bản cảm ứng. 5. Thần thông—Cũng là hợp với vô ký hóa thiên mà xưa kia đã chứng được và các đức từ bi của bản thời dùng thần thông mà kinh động các chúng sinh đầu tiên đáng độ, cho nên gọi là bản thần thông. 6. Thuyết pháp—Tức là xưa kia ngồi ở đạo tràng mới thành chánh giác, sơ chuyển pháp luân bốn lần biện luận về pháp đã thuyết, nên gọi là bản thuyết pháp diệu. 7. Quyến thuộc —Những người được nghe thuyết pháp ở bản địa, như các Bồ tát từ đất vọt lên, Di Lặc chẳng quen, đó chính là bản quyến thuộc. 8. Niết Bàn—Niết bàn đoạn đức bản thời sở chứng cũng là ứng thân bản thời ở hai cõi đồng cư và phương tiện, có duyên đã độ, xướng lên rằng nhập diệt, tức là Niết bàn bản thời. 9. Thọ mạng—Ðã nói nhập diệt thì có thọ mạng xa gần dài ngắn. 10. Lợi ích—Bản nghiệp nguyện thông ứng quyến thuộc tám phen mười phen nhiêu ích. (Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển 7). XI. HIỆU QUẢ GIÁO DỤC NỔI BẬT.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có đoạn ghi rằng, Phật nói từ lúc Ngài thành Phật đến nay, thường thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, đến nay đã độ vô số chúng sanh thành tựu Phật đạo[56].. Phàm là chúng sanh mà Phật gặp, Phật luôn quan sát căn cơ và tính hướng của chúng, sau đó dùng các phương thức giáo dục, khiến cho chúng sanh đều được an lạc và trí tuệ. (Mời xem thêm kinh Pháp Hoa quyển 5). Kinh Ma Ha Ma Da và kinh Ðịa Tạng có ghi sự tích Phật thuyết pháp cho mẫu thân. Kinh Tịnh Phạn Vương Nê Hoàn có ghi sự tích Ðức Phật giáo hóa phụ vương. Trung Bản Khởi kinh có ghi sự tích Phật giáo hóa Da Du Ðà La và gia tộc họ Thích.. Trong kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả đã ghi rằng, sự tích Ðức Phật giáo hóa Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất v.v… cho đến một nghìn hai trăm năm mươi vị thường tùy để tu tập chứng quả A La Hán. Trong kinh Bổn Hạnh ghi rằng Phật Thế Tôn giáo hóa Phú Lâu Na như thế nào và 32 đệ tử của Na La Ðà cho đến Bạt Ðà La, Ưu Ba Tư Na… hơn 250 người. Trong kinh Phổ Diệu ghi sự tích Phật hóa độ Ưu Lâu Tần Già Diệp, Na Ðề, Kiệt Di… hơn nghìn người.. Trong kinh Ngọc Da Nữ ghi rằng Phật Thế Tôn giáo hóa người phụ nữ kiêu mạn như thế nào. Kinh Nguyệt Quang Ðồng Tử đã nói sự tích Ðức Phật giáo hóa 96 loại ngoại đạo. Kinh Quán Phật Tam Muội đã nói Phật Thế Tôn giáo hóa đứa trẻ 5 tuổi, bà lão lớn tuổi, dâm nữ, năm vị ác nữ và 16 vị long tử. Kinh Pháp Cú ghi rằng Phật giáo hóa 500 hộ ngư dân, đồ tể, thợ săn ở trong làng như thế nào, mà còn nói rõ Phật điều phục 500 con voi say hung dữ như thế nào, làm thế nào giáo hóa vua A Xà Thế…. Trong Kinh Luật Dị Tướng có ghi lại những sự tích Phật Thế Tôn giáo hóa người quét đường, người gánh phân, người ăn xin, trưởng giả Lư Chí, vua A Chất và 500 kẻ đạo tặc. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi câu chuyện Phật Thế Tôn giáo hóa Vi Ðề phu nhân như thế nào. Kinh Trung A Hàm có ghi câu chuyện Phật giáo hóa gia đình Ma Nạp Ðô Ðề Tử như thế nào. Trong kinh Bần Cùng Lão Công có ghi câu chuyện Phật giáo hóa một người già 200 tuổi. Trong kinh Việt Nan có ghi sự tích Phật Thế Tôn giáo hóa đứa trẻ mù. Trong kinh Thái Hoa Vi Vương ghi lại sự tích Phật giáo hóa mấy mươi vị nam nữ hái hoa như thế nào. Trong kinh Tạp Bảo Tạng có ghi sự tích Phật Thế Tôn giáo hóa 500 vị bắn cung giỏi. Trong kinh Bách Duyên đã ghi rằng, Phật Thế Tôn giúp đỡ con trai con gái có tánh xấu con của Vương phi, chim anh vũ và 500 con bò dữ. Trong kinh Nhân Vương Hộ Quốc ghi rằng, Ðức Phật đã giáo hóa vua, đại thần, tướng lãnh của 16 nước yêu nước yêu dân như thế nào và gợi mở tâm trí cho họ. Trong kinh Tạo.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Tượng có ghi sự tích Phật giáo hóa vua Ưu Ðà Diên. Kinh Vương Ma Kiệt có ghi sự tích Ðức Phật giáo hóa vua chúa Nan Quốc. Kinh Thắng Quang Vương Sở Vấn có ghi sự tích Ðức Phật giáo hóa vua Thắng Quang nước Kiều Tát La như thế nào. Trong kinh Mật Tích Kim Cang có ghi sự tích Phật Thế Tôn giáo hóa Phạm vương La Kế như thế nào. Kinh Lăng Già có ghi Phật giáo hóa chư vị Bồ tát như thế nào. Kinh Lăng Nghiêm có ghi sự tích Ðức Phật giáo hóa Ma Ðăng Già nữ như thế nào. Trong kinh Ðại Vân Luân Thỉnh Vũ có ghi sự tích Phật Thế Tôn giáo hóa chúng sanh ở Long cung. Trong kinh Niết Bàn có ghi Ðức Phật dùng thần lực giáo hóa 300 nghìn vị lực sĩ. Trong kinh Tiêu Ðạm có ghi Phật giáo hóa chúng Tịnh Cư Thiên làm thế nào để tiêu trừ tai nạn. Trong kinh Thỉnh Quán Âm ghi rằng, Phật dạy quốc dân nước Côn Xá Ly phương pháp giải thoát bệnh khổ.. Trong kinh Hiền Ngu có ghi sự tích Ðức Phật giáo hóa đông đảo quần chúng ở nước Xá Vệ, như giáo hóa trẻ con, người lớn, hung thủ giết người, thầy trò các đạo sĩ ngoại đạo v.v…đều có ghi rõ một cách rõ ràng. Trong kinh Phổ Diệu có ghi sự tích Phật giáo hóa thay đổi phong tục tập quán cũ. Mãi cho đến ngày trước khi nhập Niết Bàn Phật vẫn tha thiết ân cần dạy dỗ tất cả chúng sanh mà không bao giờ mệt mỏi. Thậm chí đến giờ phút quan trọng, chính Phật thế Tôn ra tận chiến trường để hóa giải những trận đấu không cần thiết. Ví dụ như, vua A Xà Thế vì nghe Ðức Phật nói một câu, mà bỏ đi ý định tấn công nước Lược Bạt Kỳ. Lại có một lần, hai dân tộc đang tranh giành quyền sử dụng nước sông Lô Tứ Ni Hòa, trong lúc họ tranh giành nhau đến nỗi khó hóa giải được nữa, chuẩn bị điều động vũ khí, ngay lúc này Phật Thế Tôn lại đến hóa giải trận xung đột này. Phật Thế Tôn đã từng làm cho nhiều quốc gia được quốc thái dân an, nhân dân mỗi người được sắp đặt đâu vào đấy, giúp đỡ quan tâm lẫn nhau, và không có hiện tượng hành vi phạm pháp. Hễ nơi nào Phật đến, mọi người đều giác ngộ hưởng thụ vật chất vô thường hư huyễn, và phát tâm cầu tìm chân lý từ bi với chúng sanh, nghiên cứu lãnh vực tinh thần thâm sâu vi diệu.. Trong kinh Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến và trong kinh Ðại Niết Bàn quyển 1, chúng ta có thể thấy rõ mấy trăm nghìn đệ tử hoài niệm sự giáo hóa dạy dỗ của Phật Thế Tôn. Phàm là, thấy dung mạo và oai nghi của Phật, nghe được âm thanh của Phật, ngửi được mùi hương trên thân của Phật, tiếp xúc được ánh sáng hào quang trên thân Phật, tư duy thể hội giáo pháp mà Phật đã thuyết… những người này đều có thể hiểu rõ chân lý thâm sâu vi diệu, vĩnh viễn sẽ không thoái lui, mãi cho đến khi thành Phật[57]. Rất nhiều người sau khi tiếp nhận sự giáo dục của Phật đều lập chí tu tập đạt được trí tuệ vô thượng, từ bi với vô lượng chúng sanh. (Mời xem thêm Phẩm Hóa Thành Dụ kinh Pháp Hoa) Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, trong quyển 4 có ghi rằng, Phật Thế Tôn vì có thể diệu ứng quần cơ mà cho sự giáo dục thích hợp, do đó Phật Thế Tôn có thể khiến tất cả chúng sanh giải trừ được tà kiến và hoài nghi. Trong kinh Niết Bàn quyển 2 miêu tả rằng: Có nhiều đệ tử nói lúc trước họ vốn không có lòng tin và tuệ căn, vì nhận được sự giáo dục của Phật, cho nên mới có thành tựu phi phàm..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Trong quyển Thế Giới Tôn Giáo Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia of Word Religion) có nói: Lúc Ðức Phật nhập Niết bàn, ngoài hàng nghìn hàng vạn chúng sanh thiên giới và nhân loại đang thương xót tưởng niệm ra, còn có vô số sư tử, cọp, mi lộc, thỏ, chim… đang cảm kích thâm ân giáo hóa của Phật. (Mời xem thêm Thế Giới Tông Giáo Bách Khoa Toàn Thư, trang 229) Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða quyển 2 nói: Có một lần Phật thuyết pháp khiến cho mười vạn ức chúng sanh chứng đắc bản thể vạn vật bất sanh bất diệt, vì thế có thể dung nạp tất cả chân lý, đạt được niềm tin bất thoái chuyển. (Kinh Ma Ha Bát Nhã, phẩm Thiệt Tướng). XII. NỘI DUNG GIÁO DỤC CỨU CÁNH NHẤT Vì Phật Thế Tôn nói rõ một cách thứ tự chân tướng của vạn vật trong vũ trụ, cho nên giáo pháp mà Ðức Phật nói có thể khiến mọi người đoạn trừ triệt để tất cả phiền não và khổ đau, đạt được trí tuệ và phẩm đức viên mãn.. Giáo pháp của Ðức Phật không những tinh túy nhất, tính gia giảm cao (giàu tính đàn hồi), mà còn dẫn dắt đệ tử dần dần thông đạt trạng thái (cảnh giới) chí chân, chí thiện, chí mỹ, khiến cho mọi người có một cuộc sống an lạc, hạnh phúc.. Giáo pháp của Thế Tôn vô cùng vô tận, khiến cho mọi người giải thoát khỏi những mâu thuẫn, phiền não, tự tư, ích kỷ, và đi đến vô ngã, sau đó đi lại đến đại ngã vạn vật đồng nhất thể, vạn pháp bình đẳng. Ðây chính là cảnh giới cao nhất (trạng thái cao nhất) mà Ðức Phật nói con người và sinh vật khác có thể đạt tới—Niết bàn bất sanh bất diệt, mãi mãi an lạc hạnh phúc.. Cho nên, trong kinh Hoa Nghiêm quyển 51 nói rằng: Giáo pháp của Phật là chân lý vi diệu nhất, viên mãn nhất, cứu cánh nhất trong tất cả chân lý. Phật pháp là chân lý làm lợi ích viên mãn cho tất cả chúng sanh. Do đó trong kinh Phật nói: [58] “Nội dung giáo dục của Phật Thế Tôn là tối thượng thừa, tối diệu thừa, thuần thiện thừa…” (Kinh Ðại Bảo Tích, quyển 28). Trong kinh Trung A Hàm cũng nói: Phật pháp có thể khiến cho con người có thể giải thoát tất cả trói buộc và khổ đau. “Tất cả khổ não đều tiêu trừ, thân tâm cũng không còn lo lắng gì, đây chính là cảnh giới vĩnh hằng thanh tịnh an lạc nhất” (kinh Trung A Hàm quyển 31).

<span class='text_page_counter'>(58)</span>

×