Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

DOI NET TIEU SU HOA THUONG SU TO THAP NHAT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.71 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Viên. Tinh – Mât Viên Dung. Thành. Mãn. Tưu. Hanh. Chân. Nguyên. Tâm. Tô. Tô. Quay. Lưu. Gót. Dâu. Vê. Thơm. Cõi. Cho. Tây. Hâu. Phương. Thê. Sáng Mãi Một Vầng Trăng (1950 - 2002 ) ĐÔI NÉT VỀ TIỂU SỬ TỔ THẬP NHẤT Hòa thượng. : Thượng VIÊN hạ THÀNH. Ngày sinh: 15/7. 1950 nhằm ngày 1/6 năm Canh Dần. Thị tịch: 18h40’ 31/5. 2002 nhằm ngày 20/4 năm Nhâm Ngọ..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> I.. Trụ thế: 53 tuổi. Đạo tuế: 41 Tăng lạp: 32 Pháp hiệu : Thuần Hòa. Pháp tự: Nguyệt Trí. Thế danh: Phùng Xuân Đào. Xả huyễn quy chân nhục thân tại: Chân Tịnh Bảo Tháp. Nam mô Ngũ luân Chân Tịnh Bảo tháp, Krut phái, Kim Cương Thượng sư, Ma ha Sa môn Tỷ khiêu Bồ tát giới, Hòa thượng Thượng Viên hạ Thành, Hiệu Thuần Hòa, Tự Nguyệt Trí, Thế danh Phùng Xuân Đào giác linh thiền tọa hạ. XUẤT THÂN. Quê nội làng Kẻ xã Thượng Cát ven sông Hồng thuộc Đan Phượng – Hà Đông, nay là Từ Liêm – Hà Nội. Tổ tiên gốc Đường Lâm Sơn Tây, hậu duệ của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Phùng Hải. Đến thời Tiền Lê 980 - 1005 ông Tổ họ là Phùng Tăng Huy di cư đến làng Kẻ lập nghiệp. Sinh ra trong một gia đình Nho học, tín tâm Tam Bảo được giáo dục theo nếp sống văn hóa Đông Phương trong sự đùm bọc trở che của bà nội và chú ruột. Quê ngoại xã Đắc Sở huyện Hoài Đức - Hà Tây (nay là Tp Hà Nội). Thân phụ là cụ Phùng Xuân Chỉ đã qua đời khi HT còn rất nhỏ. Thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Thìn hiện vẫn sinh sống tại quê nhà. (4/2012) II. QUÁ TRÌNH XUẤT GIA HỌC ĐẠO, TÌM CẦU GIỚI PHÁP, SAM HỌC. Tổ quyết chí xuất gia - phát túc siêu phương tìm thầy học đạo năm 12 tuổi. “Chú ơi! Xin chú hiểu lòng tôi Giờ phút chia tay đã tới rồi Vẫn biết gia phong cần giữ đấy Nhưng vì chân lý phải đành thôi Cỏ hoa tuế nguyệt thường thay đổi Dâu biển xưa nay vẫn lở bồi Nay nếu không đi cầu chính pháp Sợ sau sẽ phải hối muôn đời” Tháng 1 – Nhâm Dần - 1962. “Sáng nay làng xóm tiễn chân đi.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Nhìn lại quê hương biết nói gì Vầng ác chưa lên còn tối đất Bụi hồng chửa bợn tấm thanh y” Tháng 6 - Nhâm dần -1962. Chùa Cao Lá - Khánh Sơn tự, nơi Tổ bước chân đầu tiên nhập đạo. “Ra khỏi rừng lim chợt thấy chùa Thông reo hòa lẫn tiếng chuông khua Gió thơm nghi ngút mùi hương xạ Mát rợn tâm can trận gió lùa” Tháng 9 – Giáp Thìn – 1964. Ngôi chùa thứ hai Tổ đến là chùa Pháp Bảo Tạng - Pháp tràng Phật Ấn - Chùa Đỏ Hà Đông: “Đương mỏi thì trông thấy Pháp tràng Mấy tầng lâu các vẻ phong quang Chắc là Phật hóa ra cho nghỉ Để khách hoàn hương đỡ vội vàng” Tháng 5 - Ất Tỵ - 1965. Nơi đây Ngài đã được Sư Tổ Thích Thanh Chân - Hương sơn động chủ đời thứ 10 thu nhận làm đệ tử chính thức. “Chao ôi đã đến được Hương Sơn Chút hết bao nhiêu nỗi oán hờn Mưa pháp, gió từ nhuần thấm mát Cõi lòng chan chứa một nguồn ơn”. Tháng 5 – Ất Tỵ - 1965. Hà Tây nơi Tổ được chư tôn Thiền Đức Tăng truyền trao giới thân tuệ mệnh để có hành trang độ sinh trên bước đường giải thoát. Năm Kỷ Dậu - 1969 (19 tuổi) Tổ được truyền thụ Sa di giới. Năm Nhâm Tý – 1972 ( 22 tuổi) đăng đàn thụ Tỷ khiêu giới (giới Cụ Túc). Viên mãn Tam đàn tại tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Đông - Sơn Tây - Hòa Bình) Nhận thấy Tổ chuyên cần đèn sách, hành trì giới luật là pháp khí của Thiền môn Sư Tổ Đệ Thập đã cho Tổ xuống núi sam học lớp Trung Cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ Hà Nội năm 1973-1976. Tại đây Tổ đã trau dồi đèn sách, dùi mài kinh luật làm các công việc trước tác, dịch thuật, biên soạn giáo án, giảng dạy….

<span class='text_page_counter'>(4)</span> “Bao kiếp xa xưa đắm lục trần Hôm nay phản vọng được quy chân Nương thuyền Bát Nhã qua dòng ái Nhờ nước dương chi đoạn khổ luân Gió mát trăng thanh kết bạn lữ Hoa đàm đuốc tuệ mượn tu thân Những toan yên phận miền sơn dã Lại xót sinh linh gấp bội phần”. Tháng 4 – Nhâm Tý – 1972. Các tác phẩm, dịch phẩm mà Tổ lưu lại hậu thế như: - Ðại bi nghi quỹ. - Bức tranh quê hương. - Du già nghi quỹ . - Chuẩn đề nghi quỹ. - Truy môn cảnh huấn. - Lục độ Ta ra. - Chùa Hương ngày nay. - Phạm võng Giới kinh. - Danh thắng chùa Thầy. - Lược sử các tông phái Phật giáo. - Truyện Phật bà chùa - Xuân Thu lễ tụng. Hương. - Quan Âm Thị Kính. - Văn khấn nôm truyền thống. - Bầu trời cảnh Bụt. - Khoá lễ Phổ môn. - Kỷ niệm chùa Hương. - Thiền môn thi ký. - Bút ký bên cửa trúc. - Giáo án Kinh Kim Cương ... Cùng học với Tổ thời này, nay là HT Thượng Thanh hạ Nhiễu, HT Thượng Thanh hạ Duệ, HT Thượng Bảo hạ Nghiêm… nhờ sự tinh tấn về học vấn và giới luật nên Tổ được tuyển chọn vào khóa đầu tiên của trường Cao cấp Phật học (nay là Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) từ khóa đầu tiên (1981-1985) và tốt nghiệp năm 1985. III. HỒI KÝ TRÙNG TU THẮNG TÍCH HƯƠNG SƠN. Sau khi sam học xong, Tổ trở về sơn môn Hương Tích - cùng với Sư Tổ Đệ Thập và huynh đệ đồng môn trùng tu sơn môn. Ngày 17/2/1989 (12/1. Kỷ Tỵ) Sư Tổ Đệ Thập: Hòa Thượng thượng Thanh hạ Chân viên tịch (Tháp Hương Quỳnh). Ngày 4/3/1989 tại Pháp đường Tổ đã thành lập Ban Xây dựng chùa Hương..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Ngày 18/3/1989 (11/2. Kỷ Tỵ) Tổ cùng với Ban Xây dựng trùng tu lại Tam Bảo Thiên Trù. Ngày 2/2/1993 (11/1. Quý Dậu) khánh thành Tổ đường, Điện Mẫu, cổng Nam Thiên Môn ... Sau hơn 10 năm khu thắng tích Hương Thiên đã trở lại nét phong quang. IV. QUÁ TRÌNH PHỤNG SỰ ĐẠO PHÁP – DÂN TỘC.  Năm Quý Hợi - 1983: Tổ được Tỉnh hội cử làm Chánh Văn Phòng kiêm Phó Thư Kí tỉnh hội.  Năm Giáp Tý - 1984 (1985): đáp lại lời thỉnh cầu tha thiết Tổ đã kiêm nhiệm trụ trì Thánh Tích Chùa Thầy xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội). Tu bổ và phát triển thánh tích ngày một trang nghiêm tú lệ. Thành lập Trường Hạ xứ Đoài. Xiển lập hưng long pháp môn Mật tạng, vốn đã được khởi dựng bởi Đức Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh 1000 năm.  Năm Ất Sửu - 1985: Tổ là giảng viên của Trường Cao Cấp Phật Học (Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội).  Năm Đinh Mão - 1987: Đại hội Phật giáo Việt Nam kỳ III, Tổ được tấn phong giáo phẩm Thượng tọa và được suy cử vào Hội Đồng Trị Sự TW Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.  Năm Mậu Thìn - 1988: Đại hội Phật giáo tỉnh Hà Tây, Tổ được Tỉnh hội suy cử làm Phó ban Trị sự Kiêm chánh Thư kí Tỉnh hội.  Tại các Đại giới đàn, Tổ được cung thỉnh làm Yết Ma - A Xà Lê sư và Tôn Chứng sư.  Năm Nhâm Thân - 1992: nhân duyên cát tường hội đủ, theo lời mời riêng của ông John (Đại sứ Anh tại Bhutan lúc bấy giờ), Tổ đã viếng thăm Vương quốc Bhutan để hạnh ngộ bậc Kim Cương Thượng sư truyền thừa Drukpa là Đức Giáo chủ Je Khenpo và thọ nhận các Giáo pháp Quán đỉnh cốt tủy của truyền thừa Drukpa từ bậc Thầy của mình để hướng dẫn các đệ tử và Phật tử thực hành giáo pháp tinh túy và chân chính của Kim Cương thừa..

<span class='text_page_counter'>(6)</span>  Năm Quý Dậu - 1993: Tổ được bầu làm Ủy viên Thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung Ương GHPGVN, phó ban Từ Thiện TW và phó ban Hoằng Pháp TW, phó Ban giáo dục Tăng Ni ...  Từ năm Giáp Tuất - 1994: Tổ tham gia HĐND tỉnh Hà Tây các Khóa V, VI, VII.  Năm Đinh Sửu - 1997: Tổ là Phó Hiệu Trưởng thường trực Trường cơ bản Phật học Hà Tây kiêm Phó ban Thường trực Tỉnh hội.  Năm Mậu Dần - 1998: Tổ cùng chư tôn Đức TW thành lập Ban Trị sự tỉnh Phú Thọ kiêm Phó ban Giáo dục Tăng Ni TW GHPGVN. Đặt nền móng xây dựng ngôi chùa Nghĩa Lĩnh tại xã Hy Cương, Việt Trì.  Năm Tân Tỵ - 2001 (.../...) : Tổ đã làm lễ động thổ, Đại trùng tu, xây dựng chùa Tam Giang – Đại Bi tự, phố Bạch Hạc, phường Bạch Hạc, Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ. Tổ đã dùng trí tuệ và tấm lòng từ bi, bình đẳng của mình để hài hòa trách nhiệm phụng sự Đạo pháp và phụng sự Dân tộc làm lợi ích cho chúng sinh. Tổ đã được Nhà Nước trao tặng : Huân chương Lao động hạng ba, Huy chương Vì sự nghiệp bảo tồn văn hóa dân tộc, huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp Nhân đạo và nhiều bằng khen khác nữa. . . Với tâm nguyện Bồ Tát, Tổ đã thắp lên ngọn đèn Kim Cương thừa vốn đã truyền vào Việt Nam cách đây 10 thế kỉ và đã kết duyên lành với các Bậc Thượng sư truyền thừa Drukpa. V. VIÊN TỊCH. “Hương Tích ngàn năm mãi ngát hương Chùa Thầy đạo hạnh sáng tròn hương Hà Tây Phật học còn in bóng Phú Thọ hoằng khai đẹp Phật đường. 53 năm diệu ánh trăng 53 năm đạo Viên Thành 53 năm Thuần Hòa nhân thế 53 năm Nguyệt Trí thanh. ”.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Trên bước đường giải thoát chúng sinh, những tưởng rằng Tổ còn tiếp tục ở đời để vầng trăng trí tuệ soi sáng lâu hơn nữa, để dẫn dắt Tăng Ni Phật tử tu tập. Nhưng bệnh duyên chợt đến, thuận lẽ vô thường, 18 giờ 40’ ngày 31 tháng 5 năm 2002 (20/4. Nhâm Ngọ) Tổ thu thần thị tịch, trả thân tứ đại cho trần gian mộng ảo. Trụ thế 53 năm, tuổi đạo 41 và 32 Tăng lạp. 32 năm tùy duyên hóa độ chúng sinh thực hành Bồ Tát đạo, Tổ đã để lại cho Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni Phật tử Việt Nam, Phật giáo Hà Tây quê lụa, Phật giáo đất Tổ Vua Hùng một tấm gương đạo hạnh trang nghiêm, một hiện thân Bồ Tát Đại sĩ, một Hiền Tăng thanh tịnh từ hòa. Kể từ đây Tổ lâng lâng nhẹ gót, cõi Sa Bà hôm nay đã vắng bóng, cõi Cực Lạc ngày nay đã thêm hoa. Cuộc đời đạo hạnh của Tổ là một bậc tài đức vẹn toàn, một bậc Kim Cương Thượng sư chốn sơn môn chốn Tổ Hương Tích. Đạo hạnh ấy, vầng trăng trí tuệ ấy vẫn sẽ còn sáng mãi trong lòng Tăng Ni Phật tử, Tùng lâm Pháp lữ, môn đồ hậu học chúng con.. NHÂN ĐẠI LỄ HÚY KỴ ĐỆ THẬP CHU NIÊN Hậu học đời thứ 14 Tùng Lâm Hương Thiên, chùa Cây Thị PHÁP ĐIỆT. TK THÍCH GIÁC THƯỜNG THÀNH TÂM KÍNH BÁI.

<span class='text_page_counter'>(8)</span>

×