Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm người lái đò sông đà của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.64 KB, 20 trang )

1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Theo các nhà lí luận văn học, người đọc và q trình tiếp nhận là một
khâu quan trọng trong toàn bộ đời sống của một tác phẩm văn chương. Ở khâu
này, tác phẩm sẽ thoát li hẳn khỏi người sinh thành - tác giả để tự mình có một
cuộc sống riêng. Cuộc sống đó lâu dài hay ngắn ngủi, được tiếp nhận hay bị lãng
quên, tất cả đều phụ thuộc vào cảm nhận và đánh giá của người đọc. Đến lượt
mình, trình độ tiếp nhận tác phẩm văn chương của độc giả được đo đếm thông
qua khả năng “giải mã” những thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn đã dụng công gửi
gắm. Mà khả năng giải mã những thông điệp thẩm mĩ ấy lại có liên quan chặt
chẽ đến điểm nhìn, góc độ phân tích, tiếp cận tác phẩm. Vì thế, đề tài của tơi có
ý nghĩa như một đề xuất về cách tiếp cận văn bản nghệ thuật ngơn từ từ nhiều
góc độ phục vụ cho công tác giảng dạy trong nhà trường.
Bên cạnh đó, hiện nay đổi mới phương pháp dạy - học đang trở thành nhu
cầu tất yếu của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao
chất lượng dạy và học. Tự đổi mới cũng là con đường đưa giáo dục Việt Nam
hòa nhập với nền giáo dục hiện đại toàn cầu, tiến kịp nền giáo dục tiên tiến của
các quốc gia trên thế giới. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại hiệu
quả khá cao trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp dạy học tích hợp.
Phương pháp tích hợp cho phép giáo viên có thể kết hợp nhiều kỹ năng trong
một tiết dạy, vừa dạy kiến thức, vừa dạy kỹ năng sống, vừa dạy cách làm người.
Khơng những thế, tích hợp cịn là sự phối hợp nhiều môn khoa học hay các phân
môn trong cùng một bộ môn để làm cho tiết học trở nên phong phú đa dạng và
thu hút hơn đối với người tiếp nhận.
.
Từ góc độ thực tiễn, tơi chọn tác phẩm Người lái đị sơng Đà bởi đây là
một tác phẩm mới, khá tiêu biểu cho thể loại tùy bút (một tiểu loại của kí hiện
đại). Đó là những trang văn thể hiện sự tài hoa cá tính, độc đáo của văn hào
Nguyễn Tuân được dệt nên bằng câu chữ tuyệt diệu với sự kết hợp hài hòa của
chất nhạc, chất họa và vốn tri thức đa ngành vơ cùng phong phú. Thể loại kí đã


có từ lâu nhưng để tiếp nhận một cách sâu sắc thể loại này thì khơng hề đơn
giản. Do vậy, việc “giải mã” tác phẩm cũng chính là đi tìm về vẻ đẹp đặc trưng
của núi rừng Tây Bắc, đi tìm về với cốt cách tài hoa nghệ sĩ của nhà văn được
mệnh danh là “cái định nghĩa hoàn chỉnh về người nghệ sĩ”.
Mặt khác, việc tìm hiểu và đưa ra một cách tiếp nhận đối với một văn
phẩm chỉ mới được đưa vào giảng dạy ở nhà trường THPT sẽ có ý nghĩa nhất
định đối với người dạy và người học. Bởi vì theo ý kiến của rất nhiều giáo viên
và học sinh thì Người lái đị Sơng Đà vừa “khó dạy” vừa “khó học”. Giáo viên
và học sinh vốn quen thuộc với thơ hay truyện ngắn nhưng còn khá lạ lẫm với
thể kí hiện đại. Do đó việc tìm hiểu và thưởng thức một tác phẩm thuộc thể kí
cịn vấp phải những “rào cản” nhất định. Bởi vậy, để hiểu rõ những tầng ẩn
nghĩa sâu xa của tác phẩm, giáo viên không những phải nắm bắt rõ đặc trưng thể
loại mà cịn phải biết tích hợp với những kiến thức phân môn, liên môn học để
giúp học sinh thẩm thấu sâu sắc giá trị cũng như nét độc đáo của tác phẩm.
Hướng đến việc thực hiện được yêu cầu đó là một động lực khiến tôi nghiên cứu


2
đề tài “Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm Người lái đị sơng Đà theo
phương pháp tích hợp để giúp các em chủ động trong học tập và tiếp nhận tác
phẩm một cách khoa học hơn, sâu sắc hơn.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Học sinh lớp 12C4, 12C6 - Trường THPT Như Thanh năm học 20182019.
- Văn bản tùy bút “ Người lái đị sơng Đà” (Ngữ văn 12, cơ bản)
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát (thông qua dự giờ)
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu

- Phương pháp phân tích- tổng hợp, thống kê tốn học, so sánh....
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
1.5. Đóng góp mới của đề tài.
Với đề tài Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả
giờ dạy - học tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn, tơi đã tiếp
cận, soi rọi tác phẩm từ nhiều góc độ như góc độ lí luận văn học, lý thuyết thi
pháp thể loại, góc độ âm nhạc, hội họa, địa lý, lịch sử, điện ảnh…. để đổi mới
cách dạy tác phẩm. Mặt khác, qua đề tài với sự tích hợp cùng nhiều phân môn
khác nhau từ lý luận văn học đến văn học sử….., tơi giúp học sinh có một cái
nhìn sâu sắc, tồn diện hơn về tác giả và tác phẩm nhằm tạo tiền đề vững chắc
cho việc tiếp nhận văn bản Người lái đị sơng Đà Từ đó, tơi mong muốn mang
đến cho các em một khơng khí lớp học sơi nổi để các em hứng thú, tích cực, chủ
động hơn trong cách tiếp nhận một tác phẩm kí nói chung, tác phẩm Người lái
đị sơng Đà nói riêng. Tôi muốn chứng minh tác phẩm là một “tuyệt phẩm”
mang giá trị vô cùng phong phú và sâu sắc.


3
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2.1.1. Đặc điểm của tiếp nhận văn học.
Theo lý thuyết tiếp nhận văn học thì tiếp nhận một tác phẩm văn học của
học sinh là một q trình nhận thức có tính đặc thù, ln tồn tại những “khoảng
cách tiếp nhận”. Để rút ngắn khoảng cách tiếp nhận, học sinh cần được trang bị
một lượng tri thức văn học nhất định phù hợp để tham gia vào khám phá thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm. Đặc biệt với thể loại kí thì việc giúp các em tự trang
bị những tri thức ấy là một việc làm vơ cùng có ý nghĩa tạo nên chiếc cầu nối để
các em dễ dàng hơn khi đến với tác phẩm.
2.1.2. Dạy học tích hợp - nhu cầu tất yếu trong đổi mới phương pháp
giảng dạy ở nhà trường hiện nay.

Khái niệm tích hợp (integration) được hiểu là sự hợp nhất, sự hoà nhập,
sự kết hợp. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu
cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các
môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống
nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong
các môn học hoặc các hợp phần của bộ mơn đó. Trong thực tế có khá nhiều loại
tích hợp như tích hợp theo phân mơn, đa môn và xuyên môn. Người giáo viên
phải biết lồng ghép kiến thức nhiều phân môn, nhiều môn để tạo sự phong phú
cho bài dạy.
Tích hợp là một thuật ngữ khá mới nhưng đã trở thành một nhu cầu tất
yếu của thời đại và cũng là xu hướng chính của nền giáo dục hiện đại. Nó xuất
phát từ yêu cầu đưa học sinh trở thành đối tượng trung tâm trong giờ học cũng
như trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Mặt khác, việc dạy học tích hợp cho
phép học sinh chủ động sáng tạo trong tiếp nhận, phối kết hợp nhiều yếu tố
trong một bài học cũng như vận dụng những hiểu biết của mình để tìm hiểu,
khai thác tác phẩm văn học. Nó góp phần xố bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín,
tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống. Dạy học tích hợp thực sự là
một phương pháp mới mẻ, có tính hiệu quả cao trong việc giảng dạy ở trường
THPT hiện nay.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Thực trạng của giáo viên.
Trong những năm gần đây trước xu thế vận động đổi mới của thế giới,
nền giáo dục Việt Nam cũng đang khoác lên mình một tấm áo mới năng động
hơn, nhạy bén hơn với thời cuộc. Tinh thần đổi mới giáo dục được các thầy cơ
giáo hưởng ứng nhiệt tình, nhiều thầy cơ đã khơng ngừng tìm tịi đổi mới trong
từng tiết dạy thắp lên ở các em ngọn lửa của lòng nhiệt huyết, đam mê văn
chương. Song không phải ai cũng ý thức được vai trò của sự đổi mới do đó sự
thay đổi trong phương pháp dạy và tính hiệu quả chưa cao, ít nhiều cịn thiếu
tính đồng bộ.
Hơn nữa nguồn tài liệu hướng dẫn đổi mới và các trang thiết bị dạy học

trong nhà trường còn hạn chế cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng học
sinh chưa mấy mặn mà với mơn ngữ văn. Khơng chỉ có vậy, nhiều giáo viên
chưa thấy được vai trò quan trọng của thể loại kí nên đơi khi cịn dạy mang tính


4
chiếu lệ, chưa thực sự đầu tư tâm huyết và thời gian. Mặt khác, có những thầy
cơ chỉ chú trọng phần khai thác nội dung mà xem nhẹ tính chất thể loại, chưa có
cách dạy thu hút được học sinh. Thiết nghĩ mỗi thầy cô cần thay đổi cách nghĩ,
cách dạy để biến mỗi giờ dạy văn học thành một giờ học hứng thú và ý nghĩa.
2.2.2. Thực trạng của học sinh.
Người lái đị sơng Đà là một tác phẩm kí mang đậm dấu ấn tùy bút hiện
đại được mạnh dạn đưa vào nội dung giảng dạy Ngữ văn 12, THPT chương trình
mới. Và nó nhanh chóng trở thành một trong những bài học trọng tâm để học
sinh thi THPT Quốc gia. Chưa có được chiều dài thời gian tiếp xúc và chiều sâu
thẩm thấu cảm nhận như những tác phẩm khác trong chương trình Ngữ văn 12
nên bài kí của Nguyễn Tuấn luôn là một thách thức đối với cả người dạy và
người học. Học sinh còn lạ lẫm với những sáng tác nghệ thuật theo thể kí. Giáo
viên thì phải tự tìm tư liệu để lĩnh hội thấu đáo tác phẩm, lại phải tìm cách diễn
đạt sao cho thật dễ hiểu đối với học sinh. Chính vì vậy, việc tích hợp kiến thức
liên mơn, phân mơn đặc biệt là kiến thức về thể loại là hết sức cần thiết.
Từ những thực trạng trên, tôi vô cùng trăn trở và mạnh dạn đề ra một số
biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy-học tác phẩm
Người lái đị sơng Đà để biến tiết học trở thành một giờ khám phá thú vị cũng
như giúp học sinh hiểu hơn về tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Vài nét về Nguyễn Tn và vị trí của văn phẩm “Người lái đị sông
Đà”.
2.3.1.1. Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam

hiện đại. Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội
trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn. Quê ông ở làng Nhân Mục
(thường gọi nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội. Thân sinh của nhà văn là cụ Nguyễn An Lan (tức cụ Tú Hải Văn)
- “một nhà nho ơm nỗi bất đắc chí” với thời cuộc. Nguyễn Tn “đã được ni
dưỡng trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, với những phong tục nề nếp, với
cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần và biến đổi, ngổn ngang vì sự
xâm nhập của văn minh máy móc và hàng hóa từ phương Tây ào đến”. Hồn
cảnh gia đình và mơi trường ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, cá tính và
sáng tác của nhà văn sau này.
Nguyễn Tuân bắt đầu sáng tác từ những năm 30 của thế kỉ XX. Trước Cách
mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thường viết về đề tài chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp
vang bóng một thời và đời sống trụy lạc. “Chủ nghĩa xê dịch” trở thành một đề
tài quen thuộc trong các sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân, xuyên suốt
qua các tác phẩm: Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút II. Dù
viết về đề tài nào thì ở nơi mạch nước ngầm của trang sách, vẫn là lòng yêu
nước thiết tha, tinh thần dân tộc sâu sắc. Ở Nguyễn Tuân, lòng yêu nước mang
màu sắc của dân tộc. Ông là nhà văn rất mực tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp và
thể hiện cái đẹp của thiên nhiên đất nước, của văn chương nghệ thuật, của văn
hóa phong tục và của tâm hồn Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn
Tuân quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ vang bóng một thời. Tập “Vang


5
bóng một thời” gồm 11 truyện ngắn lần lượt đăng trên các tạp chí Tao
đàn và Tiểu thuyết thứ bảy từ năm 1939, Nhà xuất bản Tân Dân, Hà Nội in lần
đầu năm 1940 là minh chứng cho quan niệm ấy. Vẻ đẹp với Nguyễn Tn lúc
này nó chỉ cịn vương sót lại ở những con người kiệt xuất và hiếm hoi như ông
Huấn Cao trong Chữ người tử tù (Vang bóng một thời).
Khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, Nguyễn Tuân với lòng yêu nước

vốn đã sâu sắc ngay lập tức mở rộng tâm hồn đón nhận niềm vui mới. Chính
Cách mạng Tháng Tám đã giúp ơng thốt khỏi những bế tắc trong cuộc sống và
trong sáng tác nghệ thuật, đem đến cho ông một nguồn cảm hứng sáng tạo mới.
Nguyễn Tuân đã hồi sinh, say mê trong niềm vui lớn của đất nước. Sau cách
mạng Nguyễn Tuân tìm thấy cái đẹp ngay trong hiện tại và có ở nhân dân đại
chúng, ở người công nhân cầu đường, ở ông lái đò sông Đà (Túy bút Sông Đà),
ở anh lính cao xạ hay ở cơ dân qn trên trận địa pháo (Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi...). Họ là những con người bình thường mà vĩ đại. Nó đánh dấu những
chặng đường mới của Nguyễn Tuân trên con đường nghệ thuật gắn bó với dân
tộc, với nhân dân.
Nguvễn Tuân là nhà văn có một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo.
Ông tiếp cận với thiên nhiên và con người chủ yếu ở phương diện văn hóa nghệ
thuật, phương diện tài hoa nghệ sĩ. Bởi thế, Nguyễn Tuân được mệnh danh là
nhà văn “duy mĩ”, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ơng là người có cá
tính mạnh mẽ, có lối sống tự do phóng túng và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá
nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu với một cá
tính “Ngơng” độc đáo. Văn nhân còn là một cây bút tài hoa và uyên bác trong
việc dựng người, dựng cảnh, trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong
những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm.
Ơng uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau để làm phong phú thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương.
Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi hiện
đại, là “phù thủy ngơn từ”. Ơng có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ
chức câu văn xi giàu giá trị tạo hình, có nhạc điệu và biết “co duỗi nhịp
nhàng”. Nguyễn Tuân là nhà văn có giọng điệu riêng. Giọng văn của Nguyễn
Tuân vừa trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại, đầy góc cạnh.
Với gần năm mươi năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngịi bút đầy tài
năng của mình, Nguyễn Tn đã có những đóng góp to lớn, có một vị trí quan
trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học
đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc;

đem đến cho nền văn xuôi văn Việt Nam hiện đại một phong cách tài hoa và độc
đáo. "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh
Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một
"huyền sử" - huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu".
2.3.1.2. “Người lái đị sơng Đà” – một đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn
Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945
Người lái đị sơng Đà là tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong
tập Tùy bút Sông Đà năm 1960. Đó là thành quả chuyến đi gian khổ và hào
hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm


6
1958 – 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà
chủ yếu để tìm kiếm “chất vàng mười” trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của
thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ “vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn con
người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện những
nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn. Đó là một cơng
trình khảo cứu cơng phu nhưng cũng là một áng văn giàu tính thẩm mĩ.
Viết Sông Đà nhà thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương.
Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một gợi cảm mênh mang” về
sông quê, về con người Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc
lưu” trên bình diện nghệ thuật. Ta thấy đây là sự đồng điệu trong tâm hồn những
người nghệ sĩ lớn bởi Maxim Gorky nói "cái bình thường là cõi chết của nghệ
thuật". Nam Cao trong "Đời thừa" cũng từng viết: "Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi
và sáng tạo những gì chưa có". Và Nguyễn Tn chính là một cái Tơi riêng
khơng thể lẫn lộn trong “Người lái đị sơng Đà”.
2.3.2. Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm “Người lái đị sơng Đà”.
2.3.2.1. Giải pháp 1: Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh

chuẩn bị bài học.
Để có một bài giảng hồn chỉnh và hấp dẫn lơi cuốn, học sinh tiếp nhận
tác phẩm một cách chủ động sáng tạo thì khâu chuẩn bị được xem như một phần
quan trọng khơng thể thiếu. Vì vậy, trước khi dạy văn bản “Người lái đị sơng
Đà” tơi đưa ra một số cách để học sinh chuẩn bị bài như sau:
2.3.2.1.1.Biện pháp thứ nhất: Giao cho học sinh trả lời một hệ thống
câu hỏi bám sát sách giáo khoa đồng thời lồng vào các câu hỏi mở.
Đi vào cụ thể, hệ thống câu hỏi mà tôi sử dụng để hướng dẫn học sinh
khai thác đoạn trích theo nhóm như sau:
Phần 1: Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm (Nhóm 1)
+Tại sao nói Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ vơ cùng độc đáo với khát vọng suốt
đời đi tìm cái đẹp?
+Tùy bút Người lái đị sơng Đà được Nguyễn Tuân thai nghén và sáng tạo như
thế nào?
+Anh/chị hiểu gì về thể tùy bút- một tiểu loại của thể kí?
+Tìm và chỉ ra những nét chính trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
Phần 2: Vẻ đẹp hình tượng con sơng Đà (nhóm 2)
+ Cảm nhận ý nghĩa câu đề từ để thấy được nét độc đáo của con sơng Đà so với
các dịng sơng khác trên đất nước ta và mối duyên văn chương giữa sông Đà và
Nguyễn Tn?
+ Diện mạo của sơng Đà có gì đặc biệt?
+Tính cách hung bạo của sông Đà được bộc lộ qua những hành động nào? Hãy
làm sảng tỏ qua các đoạn văn cụ thể.
+Tại sao nói con sơng Đà tuy có hung bạo nhưng đơi khi lại rất thơ mộng, trữ
tình, dịu dàng? Hình ảnh ấy được tác giả so sánh với vẻ đẹp của ai?


7
Phần 3: Vẻ đẹp hình tượng ơng lái đị (nhóm 3)
+Tại sao nói ơng lái đị là một “nghệ sĩ” trong nghệ thuật chèo đò vượt thác?

+Vẻ đẹp tâm hồn của ơng lái đị sau cuộc chiến sinh tử với thác đá sau Đà được
Nguyễn Tuân khắc họa như thế nào?
+ Hãy chỉ ra điểm mới mẻ trong quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân sau
1945 qua hình tượng ơng lái đị trong sự đối sánh với hình tượng Huấn Cao
trong Chữ người tử tù (trích Vang bóng một thời)
Phần 4: Nét đặc sắc trong tùy bút Nguyễn Tuân (nhóm 4)
+ Một tùy bút đặc sắc như vậy chỉ có thể là kết quả, là tổng hồ của những tình
cảm và phẩm chất nào ở Nguyễn Tuân?
+ Hãy chỉ ra những nét độc đáo trong cách viết kí của Nguyễn Tuân so với
Hoàng Phủ Ngọc Tường?
2.3.2.1.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp với cơng nghệ thơng tin hướng
dẫn các em tìm tài liệu tham khảo trên mạng internet để bổ trợ kiến thức.
Thời đại công nghệ thông tin là thời đại cho phép học sinh không chỉ
chuẩn bị bài bằng sách vở mà cịn có thể mở rộng vốn hiểu biết của mình bằng
cách tìm hiểu thơng tin trên mạng. Tuy nhiên, nhiều thầy cơ ít chú trọng đến vấn
đề này. Riêng với tôi, khi tiến hành hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho bài học tôi
thường hướng dẫn học sinh tham khảo trước các cuốn sách, các bài viết về tác
giả, tác phẩm trên mạng internet. Học sinh chỉ cần gõ Google rồi gõ Nguyễn
Tuân hoặc Người lái đị sơng Đà hoặc tùy bút, kí….và tìm đọc các bài viết về
tác phẩm.
2.3.2.2. Giải pháp 2: Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc
hiểu văn bản tác phẩm.
Để giúp học sinh có một hành trình khám phá văn bản đầy thú vị, tôi đã ứng
dụng một số biện pháp cụ thể như sau:
2.3.2.2.1. Biện pháp thứ nhất: Tích hợp với kiến thức phân mơn.
*Tích hợp với Lý luận văn học để cung cấp cho học sinh những kiến thức
lý luận cơ bản về thể loại kí.
Hành trình tiếp nhận “đứa con tinh thần” của mỗi nhà văn là một hành trình
khám phá thú vị nhưng cũng địi hỏi người đọc có những định hướng tiếp nhận phù
hợp dựa vào đặc trưng thể loại của tác phẩm. Để giúp học sinh dễ hiểu hơn và hứng

thú hơn trong q trình khám phá tác phẩm Người lái đị sơng Đà, tôi sẽ vận dụng
các kiến thức từ phân môn lý luận văn học để cung cấp cho các em những kiến
thức lý luận chung nhất nhằm tạo “bước đệm” trước khi tìm hiểu tác phẩm.
- Khái niệm: Kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau
giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ
yếu là văn xuôi tự sự. Do nội dung và cách ghi chép mà các nhà lý luận chia ra
ba loại kí: Kí tự sự, kí trữ tình, kí chính luận. Các yếu tố của các thể loại khác
nhau luôn đan xen trong một tác phẩm.
- Phân loại: Trong thể kí lại bao gồm nhiều tiểu loại:
Tiêu chí
Ký tự sự
Ký trữ tình
Ký chính luận
Tiểu
- Kí sự, phóng sự, - Nhật kí, bút kí, tùy - Tiểu phẩm văn học,
truyện kí, hồi kí, du bút.
loại
tạp văn, tạp kỹ…


8
Đặc
điểm

kí, tản văn:
Kí tự sự chủ yếu
ghi lại những diễn
biến khách quan của
cuộc sống và con
người thông qua

những sự kiện. Người
viết kí có quyền bình
luận, phân tích nhưng
chủ yếu vẫn là tiếng
nói của sự sống đang
vận động, phát triển.

Đối với loại kí trữ
tình nghiên về phần
ghi nhận những cảm
xúc và suy nghĩ của
nhà văn trước hiện
thực khách quan,
hoặc xen kẽ kết hợp
giữa bình luận, suy
tưởng, miêu tả và kể
chuyện. Chất cảm
xúc trữ tình chiếm
một vị trí quan trọng.

Ở thể kí chính
luận, có sự kết hợp
chặt chẽ giữa tư duy
hình
tượng
của
người nghệ sĩ với tư
duy chính luận. Qua
kí chính luận nhà
văn đặt ra nhiều vấn

đề để giới thiệu, bình
luận, chứng minh.

- Giáo viên cũng cần chỉ ra cho học sinh thấy sự khác biệt
giữa truyện và kí để các em khơng bị nhầm lẫn về thể loại.
Tiêu chí
Đề tài

Truyện
Thường phản ánh vấn đề sự
hình thành tính cách của cá
nhân trong tương quan với
hồn cảnh.


Kí thường hướng đến các vấn đề
như kinh tế, xã hội, chính trị, và
phong hóa, đạo đức của chính
mơi trường xã hội hoặc vẻ đẹp
thiên nhiên.
Cốt truyện Truyện có cốt truyện rõ ràng.
Kí thường khơng có cốt truyện.
Thể loại
Truyện dài, truyện vừa, truyện - Kí tự sự
ngắn, tiểu thuyết…
- Kí trữ tình
- Kí chính luận
Nghệ
Tác phẩm truyện có một xung
Tác phẩm kí khơng có một xung

thuật
đột thống nhất và phát triển
đột thống nhất, phần khai triển
lôgic với các phần: mở đầucủa tác phẩm chủ yếu mang tính
thắt nút- mở nút.
miêu tả, tường thuật.
- Để giúp học sinh hiểu thêm về tùy bút, giáo viên phải giúp học sinh
phân biệt giữa tùy bút, bút ký và kí sự để tránh những cách hiểu chung chung mơ
màng về tiểu loại bút kí.
Tiêu
chí
Tiểu
loại
Nội
dung

Tùy bút

Bút kí

Kí sự

Kí trữ tình

Kí trữ tình

Kí tự sự

Tùy bút ghi lại những suy
nghĩ, cảm xúc, hồi tưởng

của nhà văn về bất cứ
vấn đề gì khơng theo một

Bút kí thiên về ghi lại
một cảnh vật nhà văn
mắt thấy tai nghe trong
các chuyến đi. Nó tái

Ghi lại những
người và việc
có thật của đời
sống,
không


9
khuôn khổ nhất định hay hiện con người và sự thêm một chút
một hệ thống chặt chẽ mà việc một cách sinh gì thuộc chủ
tuỳ theo dịng cảm xúc, động qua đó biểu hiện quan
người
dịng suy nghĩ nhất thời, trực
tiếp
khuynh viết.
để ngọn bút đưa đi từ liên hướng cảm thụ của tác
tưởng này sang liên giả và mang màu sắc
tưởng khác.
trữ tình.
Nghệ
Ngơn ngữ giàu tính chất Kết hợp linh hoạt các Hình ảnh chân
thuật

trữ tình, nặng về những ý phương thức nghị luận, thực,
khách
nghĩ riêng tư sâu sắc, tự sự, trữ tình. Thể loại quan. Ngơn từ
thâm trầm và lơi cuốn văn học này là thể loại mang tính kể,
người đọc. Lời văn cũng trung gian giữa tùy bút tả nhiều hơn là
phóng khống, thoải mái. và kí sự.
bộc lộ cảm xúc.
*Tích hợp với văn học sử để đối sánh tác phẩm kí của Nguyễn Tuân
với các nhà văn khác nhằm tìm ra “tạng chất” riêng ở văn nhân.
- Soi chiếu vị trí của tác phẩm trong cái nhìn lịch đại: Trong lịch sử văn
học từ nghìn xưa đã có những tác phẩm kí như Sử kí của Tư Mã Thiên cách đây
mấy nghìn năm vừa là tác phẩm sử học vừa có thể coi là kí. Ở Việt Nam, những
tác phẩm kí nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ sớm như Thượng kinh kí sự, Vũ trung
tùy bút. Những năm 1930-1945, kí chứng kiến sự phát triển mạnh của các tác
phẩm phóng sự viết về các tệ nạn xã hội mà Ngô Tất Tố (với Việc làng, Tập án
cái đình), Tam Lang với Tơi kéo xe, Vũ Trọng Phụng với Vỡ đê … là những nhà
văn tiêu biểu. Trong văn học cách mạng, thể loại kí bắt đầu từ sáng tác
của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 của thế kỷ XX. Sau Cách mạng Tháng Tám
đến nay có nhiều tác phẩm kí có giá trị như truyện và kí sự của Trần Đăng,
Nhật kí Ở rừng của Nam Cao, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Sống
như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi và đặc biệt là
Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân. Tất cả đều là những tác phẩm vừa thấm
đẫm chất hiện thực vừa đậm chất tài hoa văn chương của người viết song tác
phẩm Người lái đị sơng Đà được xem như một đỉnh cao của kí trữ tình hiện đại.
- Soi chiếu tác phẩm trong cái nhìn đồng đại: Để hiểu rõ hơn tạng văn
Nguyễn Tuân, chúng ta cần thấy được sự khác biệt giữa văn phong Nguyễn
Tuân và các nhà văn khác trong đó tiêu biểu phải kể đến Hoàng Phủ Ngọc
Tường với “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
Nguyễn Tn
Hồng Phủ Ngọc Tường

- Đều có sở trường về thể kí và tác phẩm đều thấm đẫm chất trữ tình.
- Đi tìm cái đẹp và thể hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo
được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dịng sơng.
Giống - Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác am hiểu kiến thức của nhiều ngành
và khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú.
- Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề.
- Có tình u q hương đất nước thiết tha.
Văn phong Nguyễn Tuân thể hiện Ẩn trong câu chữ biến hóa là vẻ
sự uyên bác, tài hoa. Ông khai thác đẹp lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri


10

Khác

kho cảm giác và liên tưởng phong
phú nhằm tìm cho ra những chữ
nghĩa có khả năng làm lay động
người đọc nhiều nhất. Ơng ln
nhìn sự vật, hiện tượng ở nhiều góc
độ để khám phá, phát hiện; vận
dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực,
tổng hợp cảm nhận của các giác
quan để khám phá đối tượng. Tất cả
làm nên phong cách Nguyễn Tuân
vừa độc đáo vừa phong phú.
Nguyễn Tuân với Người lái đị
sơng Đà: Nghiêng về phát hiện và
diễn tả những hiện tượng đập mạnh
vào giác quan người đọc


thức và cả chất phong tình, tài
hoa, lãng mạn từ tâm hồn Hồng
Phủ Ngọc Tường. Có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú
về triết học, văn hóa, lịch sử, địa
lí.... Tất cả được thể hiện qua lối
hành văn hướng nội, súc tích, mê
đắm và tài hoa.
Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ai
đã đặt tên cho dịng sơng?: Thiên
về chất thơ trữ tình, dịu ngọt.

*Tích hợp với đặc trưng thể loại thơ trữ tình để thấy vẻ đẹp đậm chất thơ
của dòng Đà giang.
Dựa trên căn cứ vào thứ ngơn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ nhất
của ngôn ngữ thơ ca mà ta có thể thấy tùy bút thấm đẫm chất thơ. Thứ nữa là
ngơn từ, hình ảnh của tác phẩm rất giàu giá trị tạo hình, giàu xúc cảm được biểu
hiện qua một thế giới ngôn từ vừa lấp lánh sắc màu vừa ấm áp cảm xúc.
Nguyễn Tuân là cây bút "suốt đời đi tìm cái đẹp", sơng Đà đến với ngịi
bút ơng như một mối dun kỳ ngộ. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, con sơng đã lặng
lẽ ghi dấu vào trái tim người nghệ sĩ với nét độc đáo của riêng nó:
Chúng thủy giai đơng tẩu
Đà giang độc bắc lưu
Dịng chảy ngược của dịng sơng Tây Bắc lại chảy vào từng trang tùy bút
của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân không chỉ kì cơng miêu tả vẻ độc đáo của sơng
Đà mà cịn say mê đắm đuối vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của nó. Từ trên cao nhìn

xuống "Con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa “dịng
sơng như một áng tóc trữ tình” là sáng tạo nghệ thuật độc đáo không những gợi
lên vẻ dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa và kiều diễm của sơng Đà mà cịn bộc lộ
chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Ta chỉ thấy con sông mang dáng
vẻ của thiếu nữ xuân sắc đang bng hờ mái tóc làm dun, làm dáng giữa cánh
rừng hoa ban, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói say đắm lịng người. Hình ảnh
so sánh độc đáo ấy cịn gợi nhớ đến dịng sơng trữ tình, diễm lệ đã in sâu trong
những trang văn, trang thơ. Đó là Hương giang "như người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoang dại" trong nét vẽ của Hồng Phủ
Ngọc Tường. Là con sơng dun dáng như “áng tóc huyền” dưới chân núi Dục
Thúy trong ngịi bút thơ Nguyễn Trãi.
Đối với Nguyễn Tuân, “con sông Đà thật gợi cảm”. Khi đi từ trong rừng
ra, lâu này mới gặp lại, chợt thấy sông Đà “đằm đằm ấm ấm như một cố nhân”.


11
Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ “cái miếng sáng lóe lên màu nắng
tháng ba Đường thi: Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Câu văn gợi cho ta
nhớ tới những câu thơ trong Hoàng Hạc lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng
Lăng của Lý Bạch. Và người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan, háo hức
của mình. “Chao ơi, trơng con sơng vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Ngòi bút tài hoa nghệ sĩ đã khắc họa diện
mạo sống động của sông Đà, tâm trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ cũng chan
chứa, lan tỏa khắp câu văn.
Người nghệ sĩ tài ba Nguyễn Tuân xuất thần hai câu văn đẹp như một
điệp khúc của thơ ca: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích". Đó chính là những vần thơ rất đẹp mà Nguyễn
Tn đã đề lên sóng nước sơng Đà. Dưới lịng sơng, “những đàn cá dầm xanh

thi thoảng quẫy vọt lên, bụng trắng như bạc rơi thoi”. Những hình ảnh so sánh
độc đáo kết hợp với nhịp điệu nhẹ nhàng đã đưa những câu văn xuôi của
Nguyễn Tuân vút lên như những vần thơ mềm mại, du dương; như nét vẽ thanh
thoát, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào chất thơ và chất họa, vẻ đẹp của dịng nước
sơng Đà hiện lên như một bức tranh kì thú, như những thước phim huyền ảo.
Người nghệ sĩ như đưa người đọc vào thế giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh
vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa
sức sống tươi non căng đầy. Có thể nói, khám phá vẻ đẹp sơng Đà trong trang
văn Nguyễn Tuân, ta càng thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: “Thế giới không
phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là
một lần thế giới lại được tạo lập.”
Ngoài ra, ơng cịn đưa vào tác phẩm của mình cả tri thức về văn học với
những câu thơ của Wladyslaw Broniewski, Nguyễn Quang Bích, Lý Bạch, Tản
Đà để góp phần khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp sông Đà; đồng thời, khốc cho
nó chút sắc màu bí ẩn qua câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh.
Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm những câu thơ hay về sông Đà để
học sinh thấy được chất thơ vời vợi tốt lên từ vẻ đẹp của dịng sơng khiến bao thi
sĩ ngây ngất.
Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà
Nước là bầu là bạn
Tơi nhìn nước trên sơng
Gắng hiểu dòng dưới đáy
Sau ánh mắt lặng yên
Vui buồn đâu dễ thấy
Sơng Đà quen thuộc ấy
Nói hết cùng tơi chưa?
(Vũ Quần Phương)
2.3.2.2.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp kiến thức liên môn để thấy được
vẻ đẹp phong phú, đa dạng của dịng Đà giang.

*Tích hợp với kiến thức địa lí để hiểu thêm về đặc điểm tự nhiên của dịng
sơng Đà.


12
Khi giảng dạy tác phẩm, để giúp học sinh hình dung rõ nét hơn về thủy
trình của sơng Đà, giáo viên nên sử dụng bản đồ sông Đà từ nhiều góc độ và
hình ảnh của một số địa danh được nhắc đến trong tác phẩm.

Bản đồ sông Đà dưới dạng vẽ đồ họa

Bản đồ sơng Đà từ vệ tinh

Tình u cuộc sống, lịng ham hiểu biết về con sơng, cây cầu của non
sơng đất nước cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của
Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi
tiết được nói tới trong văn mình. Dịng sơng Đà có thể được tái hiện rất trữ tình,
thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong
từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lí khi đưa ta về với thượng
nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam sau đó chan hịa vào sơng Hồng,
chảy trên đất Việt 500 cây số trong tổng chiều dài 883 nghìn thước mét, khi kể
ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ
Vạn n về xi”.

Vượt thác sơng Đà
Ơng cũng cho thấy sự am hiểu về sơng ngịi Việt Nam khi khám phá
những dịng nước dữ dội cuộn xốy tít đáy hay những thạch trận đá khắp sông
Đà là thách thức lớn với những người qua sông. Việc vận dụng kiến thức Địa lí
cịn giúp học sinh hiểu địa hình Việt Nam, các dịng sơng hầu hết ở thượng
nguồn đều là vùng núi cao, nhiều vực thẳm, rừng già khiến cho nước chảy xiết

dữ dội. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành “Mặt sông quãng ấy lúc đúng ngọ mới
thấy mặt trời”, “vách đá chẹt lịng sơng như một cái yết hầu” thật chính xác.
Ơng quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném


13
nhẹ hịn đá sang bờ bên kia. Đó là “thác nước” với âm thanh dữ dội, đầy những
tiếng réo gào. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa”. Con sông luôn hung hăng, ưa gây
sự luôn chờ đợi người lái đị sơng Đà để giáng tai họa vào cho họ. Hình ảnh
“Nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió…. Những động từ
mạnh, lặp lại nói đến sự tiếp diễn của hành động “xô” được diễn ra trên một
không gian dài như con sơng và hành động đó dữ dội khơng chỉ ở trong lịng mà
cả trên mặt sơng: “Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như địi nợ xt…
*Tích hợp với kiến thức lịch sử để hiểu thêm về vẻ đẹp và lịch sử của
dịng sơng Đà.
Quả thật, khi miêu tả dịng sơng Đà, Nguyễn Tn đã đứng trong vai trò
của nhiều nhà khoa học: một người chuyên nghiên cứu lịch sử biết dịng sơng
dưới thời Pháp thuộc có một “cái tên Tây lếu láo” do chúng tự đặt là “sơng
Đen”; một nhà chính trị khi biết “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước tiên ở
Tây Bắc”, trở thành “cơ sở bàn đạp ở Tây Bắc” xuyên vào lòng địch...
Nguyễn Tuân hiểu rõ các thời kì lịch sử khác nhau gắn với Sông Đà từ
thời tiền sử, thời Hùng Vương, thời vua chúa phong kiến, thời kháng chiến, thời
xây dựng chủ nghĩa xã hội…Sơng Đà từ đời Lí, đời Trần đến đời Lê vẫn cứ lặng
tờ như thế hai bên bờ sơng. “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện tại mà
hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường
sắt Phú Thọ-Yên Bái-Lai Châu”.
*Tích hợp với kiến thức văn hóa để giúp học sinh hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn
và đời sống sinh hoạt của người bên dịng sơng Đà.

Đó là những cảnh sinh hoạt của ơng lái đị sau khi vượt qua thác đá sơng
Đà. Đó là hình ảnh ơng đị đốt lửa trong hang đá sưởi ấm, nướng ống cơm lammột loại cơm được nướng trong ống nứa thơm ngon của đồng bào Tây Bắc. Ông
thư thái ngồi thưởng ngoạn vẻ đẹp của sông Đà và bàn về cá anh vũ, cá dầm
xanh – những lồi cá q hiếm trên sơng Đà. Đó là đời sống tinh thần phong
phú, tự do tự tại của người lao động vùng Tây Bắc. Những khó khăn hiểm nguy
của cuộc mưu sinh không khiến họ trở nên chai sạn đi mà ngược lại họ vẫn
mang một tâm hồn “tao nhân mặc khách”, tâm hồn tinh tế của một thi sĩ. Vẻ đẹp
của ơng lái đị – vừa dũng cảm phi thường, vừa tài hoa nghệ sĩ chính là vẻ đẹp
của con người nơi đây – “chất vàng mười Tây Bắc” đã qua thử lửa được Nguyễn
Tuân khám phá và tái hiện trên trang viết.
*Tích hợp với kiến thức âm nhạc để thấy được chất nhạc của sông Đà
Nguyễn Tuân đã vận dụng các kỹ thuật thanh nhạc để hịa tấu nên bản
nhạc mang tên “sơng Đà”. Đó là bản hợp âm dữ dội của thác đá: “Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào”,
“Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách
ví von mới lạ, độc đáo cùng ngơn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp
điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy
âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi,


14
người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng
thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sơng nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái
biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột
trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau đó, ngịi bút tinh tế của Nguyễn
Tn lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật
ven sông Đà ở hạ lưu. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lơi
kéo tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá

đập nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ
có trong khơng gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến”
và làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên
một chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ
“lặng tờ” vốn dĩ.
*Tích hợp với hội họa để thấy được chất họa đậm nét qua ngôn từ của
tác phẩm.
Đối với Nguyễn Tuân những trang kí của ông không chỉ thấm đẫm chất
thơ mà còn giàu chất hội họa. Qua ngịi bút tinh tế, sơng Đà hiện hữu với những
đường nét, màu sắc hài hòa đa dạng tạo nên một hình ảnh trọn vẹn về dịng sơng
đặc trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Để giúp học sinh hiểu thêm giá
trị ấy, giáo viên cần cung cấp các kiến thức hội họa cho học sinh. Đường nét và
màu sắc là hai yếu tố chủ đạo trong hội họa. Hiểu được điều đó, nhà văn tái hiện
vẻ đẹp sông Đà qua những đường nét khá phong phú. Nguyễn Tuân bằng những
hiểu biết về những môn nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa đã tạo
hình sơng Đà “tn dài như một áng tóc trữ tình”, hay “ngoằn ngoèo như một
cái dây thừng”; sử dụng nghệ thuật điêu khắc khi miêu tả “có chỗ vách đá thành
chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu”...Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi!
Nước đã dữ, đá thác cịn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được Nguyễn
Tn phát huy để tạo dáng hình cho từng khn mặt đá: đá to đá nhỏ “Mặt hịn
đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”, lại có “những hịn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu
cái mặt xanh lè”. Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong
truyền tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông
đã để tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí,
khó ưa thì cái dữ dằn của nước sơng lại vơ tình phát huy tác dụng của nắng
khiến nó mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sơng trắng
xóa”, “lịa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào
đầu sóng”, lại “loang lống như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
chạy”, hay “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao

đọc những dịng mơ tả của Nguyễn Tn, ta lại liên tưởng đến chiếc váy lộng
lẫy của Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Và có lẽ lúc này, dịng sông
cũng đẹp như thế! Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta
thương thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác:
“Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước sơng Đà không xanh màu xanh canh
hến của sông Gâm, sông Lơ. Mùa thu nước sơng Đà từ từ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượu bữa”. Thảo nào Nguyễn Tn khơng xót xa và phẫn nộ
cho được khi “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi


15
bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Cách tạo
hình của Nguyễn Tuân thật tài hoa với tuyệt phẩm sông Đà.
Tác giả tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven sông Đà
khi đã về đến hạ lưu: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm”, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi
thoi”. Cịn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Một bức
tranh có hồn và đầy sức sống được dựng bởi ngòi bút văn chương tài hoa bậc
thầy của Nguyễn Tuân.
*Tích hợp với kiến thức của ngành sân khấu điện ảnh để thấy vẻ đẹp
đa chiều của sông Đà.
Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là tác phẩm âm nhạc, hội họa,
điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn khi thì “Ngồi trong khoang
đị” quay cảnh đá bờ sơng, chẹt lịng sơng, khi thì “ngồi tàu bay” chiếu ống kính
xuống để bao qt tồn cảnh. Cịn với những cảnh q nguy hiểm, không thể
quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí tưởng tượng để “ngồi vào một
cái thuyền thúng trịn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy
hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận cảnh “một cái mặt giếng

mà thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thủy tinh khối đúc
dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người
đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với độc giả. Điều
này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm nổi.
*Tích hợp kiến thức của ngành quân sự, võ thuật để thấy vốn hiểu biết
phong phú và kỹ năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để miêu
tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng thấy
trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến
binh đá” hung ác và lão luyện. Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi “tuyến
giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai phục”,
“dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh địn âm vào chỗ hiểm”…; đánh trận
cũng rất xơng xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo
mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền “có giỏi
thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng cịn có sự hợp sức của nước thác cũng
hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh khơng kém: “Mặt nước hị la vang dậy… ùa
vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà
đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy
thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông lão……nước thanh la não bạt”… Thế
này thì ơng lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng. Nhưng
chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị “bắt nạt”.
Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc binh pháp
của thần sơng thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm
trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song tồn” lần lượt bẻ
gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn cơng. Từng động tác của ơng mới nhanh gọn,
dứt khốt làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”, “phóng


16
thẳng”… Ngơn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng mới

mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vơ cùng chính xác đã được sử dụng để miêu
tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận dụng
để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ơng lái “nắm chặt
lấy được cái bờm sóng… ơng đị ghì cương lái”, “thuyền như một mũi tên tre
xun nhanh qua hơi nước”…Có thể nói, với vốn hiểu biết phong phú về quân
sự và võ thuật, Nguyễn Tuân đã tái hiện trận chiến có một khơng hai giữa con
sơng tự nhiên với con người nhỏ bé từ đó khẳng định sự xảo quyệt hung bạo của
sông Đà và ngợi ca vẻ đẹp trí dũng của người lái đị sơng Đà.
*Tích hợp với mơn giáo dục cơng dân để giáo dục cho học sinh những
bài học đạo đức, nhân cách và ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Từ tác phẩm Người lái đị sơng Đà, giáo viên phải lồng vào phần liên hệ
mang tính giáo dục, nhắc nhở các em lòng yêu quê hương, đất nước, trách nhiệm
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ chỗ giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của sông Đà
của thiên nhiên Tây Bắc để giúp học trò nhận thức được cần phải trân trọng, gìn
giữ những vẻ đẹp của non sơng gấm vóc. Mặt khác, qua bài học ta cũng cần giáo
dục các em ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường, đặc biệt là giữ gìn những
dịng sơng xanh- sạch- đẹp. Vì đó là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước cũng là
dịng sơng văn hóa- dịng sơng lịch sử. Ý thức giữ gìn và bảo vệ sơng Đà cũng
như những dịng sơng khác giúp cho việc tơ điểm thiên nhiên đất nước tươi đẹp
và giúp mỗi chúng ta có một mơi trường sống trong sạch, lành mạnh hơn.
* Tích hợp với công nghệ thông tin để làm phong phú bài dạy (trình
chiếu các video, hình ảnh, giáo án điện tử).
Trong q trình giảng dạy việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin sẽ giúp giáo
viên giảng dạy một cách chủ động tích cực hơn và cũng góp phần khơng nhỏ
trong việc tạo hứng thú cho học sinh. Đối với tác phẩm Người lái đị sơng Đà,
khi giảng dạy ta có thể đưa các loại hình ảnh, video sau:
- Hình ảnh:+Đưa hình ảnh Nguyễn Tuân, bản đồ Sông Đà và Tây Bắc
+Đưa hình ảnh bìa các tác phẩm của Nguyễn Tuân
+Đưa các hình ảnh được nhắc đến trong tác phẩm
- Video: +Video giới thiệu về sông Đà và Nguyễn Tuân

+Video giới thiệu sông Đà trên nền bài hát Tiếng gọi sông Đà
- Giáo án điện tử: Để làm phong phú sinh động tôi thường thiết kế giáo án điện tử ở
dạng dễ hiểu nhất cho học sinh nhưng vẫn đầy đủ ý. Từ việc được nghe giảng,
được xem các hình ảnh sẽ giúp học sinh hứng thú hơn trong tiếp nhận nhằm khắc
phục trạng thái “ngại học” ở các em.


17

Một số hình ảnh về sơng Đà
2.3.2.3. Giải pháp thứ 3: Tích hợp trong q trình củng cố bài học.
Để củng cố bài học, tôi sử dụng một trong các cách như đưa ra hệ thống câu
hỏi trắc nghiệm kiểm tra mức độ tiếp nhận ở học sinh, sử dụng ý nghĩa thông điệp
của tác phẩm như một đề nghị luận mở hoặc tổ chức trị chơi “ơ chữ văn học”…
2.3.2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm
1. Nét nào sau đây là phong cách nghệ thuật tiêu biểu của Nguyễn Tuân.
a. Chất thơ, chất trữ tình thấm đượm.
b. Tính triết lí.
c. Tính chất tài hoa, uyên bác.
d. Năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
=>đáp án C
2. Khi phản ánh con người, Nguyễn Tuân thường khám phá ở phương diện:
a. Đạo đức.
b. Lối sống.
c. Quan điểm, lập trường.
,
d. Tài hoa nghệ sĩ.
=>đáp án D
3) Cảm hứng của tập tùy bút “sông Đà” được khơi gợi từ:
a. Hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp ở Tây Bắc.

b. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc.
c. Hình ảnh con sơng Đà.
d. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở Tây Bắc.
=>đáp án D


18
4. Con sơng Đà dưới ngịi bút Nguyễn Tn là một sinh thể có tính cách:
a. Hung bạo.
b. Trữ tình.
c. Hung bạo và trữ tình.
=>đáp án C
5. Trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn hình dung sơng Đà:
a. Có diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
b. Là cố nhân.
c. Như một thiếu nữ kiều diễm (tn dài như một áng tóc trữ tình).
d. Cả ba hình dung trên.
=>đáp án D
6) Sơng Đà “cái trùng vi thạch trận” biến hóa xảo quyệt nhưng người lái đò
vẫn vượt qua được. Yếu tố nào ở người lái đị giúp cho ơng chiến thắng con
sơng hung bạo đó:
a. Sự bình tĩnh chủ động của người “nắm chắc binh pháp của thần sông thần
đá”.
b. Vượt thác sông Đà là niềm đam mê nghề nghiệp.
c. Tinh thần dũng cảm.
d. Tất cả các yếu tố trên.
=>đáp án D
7) Nét đặc sắc trong nghệ thuật của tùy bút “Người lái đị sơng Đà” là:
a. Trí tưởng tượng phong phú.
b. Vốn từ ngữ dồi dào, tri thức uyên bác.

c. Câu văn đa dạng, cách nói tu từ độc đáo.
d. Cả ba điểm trên.
=>đáp án D
8) Giá trị của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đối với người đọc:
a. Đem đến những hiểu biết lí thú, bổ ích về nhiều lĩnh vực.
b. Thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ.
c. Bồi đắp tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống lao động, tôn vinh người lao
động.
d. Cả ba giá trị trên.
=>đáp án D
2.3.2.3.2. Biện pháp thứ hai: Sử dụng ý nghĩa thông điệp của tác phẩm
như một đề nghị luận mở.
Từ vẻ đẹp của dịng sơng Đà và tình yêu Tây Bắc của Nguyễn Tuân, anh
(chị) hãy phát biểu quan niệm của mình về tình yêu quê hương, đất nước?
2.3.2.3.3. Biện pháp thứ ba: Sử dụng trị chơi ơ chữ văn học
- Giáo viên chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi và các ô chữ . Sau khi dạy xong
bài, giáo viên giành 5 phút để củng cố tác phẩm bằng trị chơi “Ơ chữ văn học”:
+Giáo viên chia học sinh làm 4 đội, mỗi đội cử ra một đội trưởng
+Hình thức chơi: mỗi khi giáo viên đưa ra một ô chữ và đặt câu hỏi thì
các đội trưởng sẽ đại diện cho đội mình trả lời bằng hình thức giơ tay. Khi giáo
viên hơ bắt đầu, đội nào giơ tay nhanh hơn đội đó sẽ thắng.


19
+Kết quả: Đội nào trả lời được nhiều ô chữ nhất đội đó sẽ thắng. Mỗi ơ
chữ tương ứng với 5 điểm. Nếu trả lời được ơ hàng dọc thì được 10 điểm.

B
T


I
I

N
C
H


U
H
B
H

A
N

Y
U

P
A
N
G

S
Ê
N
N
H
S

G
C

Ơ
N
G
L
Á
I
Đ


N
B
B
Ĩ
P
N
Á
I

G
Á

N

Đ
C
O
H


À

H

2.4. Kết quả của việc ứng dụng sáng kiến:
Qua một thời gian nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy
học văn bản Người lái đị sơng Đà để thử nghiệm kết quả tôi cho học sinh làm
bài kiểm tra tại lớp 12C4 và 12C6
Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng Sơng Đà trong tùy bút “Người lái
đị sơng Đà” từ đó tìm ra thơng điệp thẩm mỹ của tác phẩm?
Kết quả bài làm thu được ở hai lớp 12C4 và 12C6 như sau
+ Trước khi ứng dụng SKKN:
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp
Sĩ số
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL TL%
12C4
40
5

12,5
15
37,5
18
45,0
2
5,0
12C6
45
4
8,9
16
35,6
19
42,2
6
13,3
+ Sau khi ứng dụng SKKN:
Kết quả
Lớp

Sĩ số

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL%
SL

TL%
SL
TL%
SL TL%
12C4
40
12
30,0
23
57,5
05
12,5
0
0
12C6
45
10
22,2
22
48,9
13
28,9
0
0
Kết quả bài làm cho thấy, tỉ lệ học sinh trả lời câu hỏi đầy đủ, lô gic, sáng
tạo đạt giỏi, khá là 87,5% ở 12C4 và chiếm tới 71,1% ở 12C6. Tỉ lệ học sinh có
kết quả trung bình gần như rất thấp chỉ chiếm 12,5% ở 12C4 và 28,9% ở 12C6.
Như vậy, có thể thấy việc ứng dụng sáng kiến đã thực sự có được hiệu quả nhất
định. Các em đã cảm thấy đam mê, hứng thú hơn rất nhiều với cách dạy - học
tích hợp này. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục sáng tạo đổi mới tạo ra những

cách dạy hấp dẫn cho học sinh.


20
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Đổi mới phương pháp dạy học là một “hành trình” khơng ít những khó
khăn và thử thách song cũng là một hành trình đầy thú vị bởi qua đó người giáo
viên thể hiện được tâm huyết và sự sáng tạo của mình trong vai trò người hướng
dẫn học sinh khám phá kho tàng tri thức của nhân loại. Từ vai trò quan trọng ấy,
thầy cơ phải giúp các em hình thành niềm đam mê với văn chương và tự rút ra
cho mình những bài học quý báu về đạo đức, về cách làm người. Muốn vậy,
giáo viên phải biết khơi dậy khả năng sáng tạo của học sinh, biến mỗi giờ học
thành một “giờ khám phá” để các em thể nghiệm tài năng và tư duy của mình.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
tôi nhận thấy việc ứng dụng phương pháp tích hợp trong giảng dạy là vô cùng
cần thiết giúp học sinh hiểu sâu sắc, thấu đáo tác phẩm cũng như tránh được
cảm giác ngại học. Mặt khác, với cách học này các em tỏ ra năng động và tích
cực hơn, mạnh dạn hơn. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm nằm ở tính khả thi
của nó trong thực tế giảng dạy. Với một bài kí vừa “khó dạy” vừa “khó học”
như Người lái đị sơng Đà những kinh nghiệm này theo tơi là khá hữu ích. Nó
giúp người dạy dễ dàng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của bài kí, thẩm thấu
được cái tài hoa, uyên bác trong tùy bút Nguyễn Tuân. Từ những thành công
bước đầu sẽ là nguồn cổ vũ động viên không nhỏ để tôi tiếp tục ứng dụng cho
học sinh trong những năm tiếp theo nhằm góp một phần nhỏ bé vào “hành trình”
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy và học bộ mơn Ngữ văn
nói riêng hướng tới xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
3.2. Kiến nghị:
*Đối với nhà trường:
- Nên có phịng học chức năng để học sinh thuận lợi hơn trong học tập.

- Cân đối kinh phí để tăng thêm các đồ dùng dạy học trong thư viện nhà trường,
hỗ trợ thêm kinh phí cho giáo viên sử dụng phương pháp mới trong dạy học.
* Đối với sở GD và ĐT:
Mở rộng đối tượng tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, không chỉ
tập huấn cho tổ trưởng mà các giáo viên khác cũng được bồi dưỡng.
Đây là sáng kiến kinh nghiệm tôi đã ứng dụng trong dạy học Ngữ văn song
chắc hẳn cịn có những hạn chế. Kính mong Hội đồng khoa học và các đồng
nghiệp góp ý thêm để sáng kiến ngày càng hồn thiện.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm là do tôi viết, không copy của ai.
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 06 năm 2019
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hà



×