Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.83 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT VÀI KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG LÀM KIỂU BÀI SO
SÁNH VĂN HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG

Người thực hiện: Nguyễn Tú Ngọc Hà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HOÁ, NĂM 2018


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng, nghị luận văn học
ln là phần quan trọng và khó bởi dạng bài nghị luận văn học yêu cầu học sinh
vận dụng kiến thức tổng hợp để tạo lập văn bản nghị luận, đặc biệt là dạng bài:
so sánh văn học đối với học sinh hiện nay đang còn là một vấn đề nan giải.
Ngày 01/4/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã gửi Công văn
số 1656/BGDĐT-KTKĐCLGD về việc hướng dẫn tổ chức thi tốt nghiệp
Trung
học phổ thông (THPT) năm 2014, trong đó có nội dung: đề thi mơn ngữ văn
có hai phần: Đọc hiểu và làm văn trong đó tỷ lệ điểm của phần nghị luận
văn học chiếm 50% tổng số điểm bài thi. Cũng từ năm đó dạng câu hỏi nghị
luận văn học đưa vào đề thi bắt đầu có sự thay đổi chuyển từ nghị luận về


một tác phẩm văn học sang dạng nghị luận so sánh văn học( từ hai đoạn
trích, hai tác phẩm văn học trở lên).


Đặc biệt tại đề thi minh họa của Bộ giáo dục chuẩn bị cho kỳ thi
THPT Quốc gia năm học 2017- 2018, phần nghị luận văn học đã được ra
dưới dạng câu hỏi liên hệ, so sánh. Đây là xu hướng đổi mới kiểm tra đánh
giá sự ghi nhớ những kiến thức của học sinh chuyển sang kiểm tra đánh giá
năng lực. Như vậy dạng đề nghị luận liên hệ, so sánh đang thay thế cho dạng
câu hỏi tái hiện kiến thức. Có thể nói đây là sự đổi mới tích cực trong cách
ra đề Ngữ văn theo định hướng mới. Nếu dạng câu hỏi tái hiện kiến thức chỉ
có thể kiểm tra học sinh ở mức nhận biết, thông hiểu, có biết, hiểu, nắm
được những kiến thức văn học đã được dạy trong chương trình hay khơng thì
dạng câu hỏi nghị luận so sánh văn học đã nâng cao hơn một mức vận dung
thấp, vận dụng sáng tạo, kiểm tra, phát triển được năng lực so sánh, liên hệ
các tác phẩm văn học, các chi tiết hoặc tư tưởng của một tác phẩm. Có thể
thấy, bên cạnh việc ơn tập, rèn kỹ năng viết phần tự luận thì việc ơn tập và
rèn kỹ năng làm dạng bài nghị luận so sánh văn học là điều cần thiết phải
trang bị cho học sinh.
Kiểu bài nghị luận so sánh văn học là một dạng khá mới mẻ được
đưa vào đề thi THPT Quốc gia nên chưa được cụ thể hóa thành một bài học
riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thơng. Dạng này cũng
khơng có nhiều tài liệu, bài viết chun sâu để tham khảo. Chính vì thế mà
khơng ít giáo viên ôn thi THPT Quốc gia tỏ ra lúng túng khi hướng dẫn học
sinh làm bài. Điều đó cũng ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng, kết quả bài
thi của học sinh.
Nghị luận so sánh văn học là một trong hai phần bắt buộc có trong
một đề thi THPT Quốc gia. Phần này chiếm phần lớn số điểm tồn bài vì vậy
có vị trí rất quan trong bởi nó quyết định điểm cao hay thấp trong một bài
thi. Nếu học sinh làm sai hết phần này thì chắc chắn điểm tồn bài cịn lại dù

có tốt mấy cũng chỉ đạt khoảng 4,0 hoặc 5,0 điểm. Ngược lại nếu học sinh
làm tốt phần nghị luận so sánh, văn học các em sẽ có nhiều cơ hội đạt điểm
cao. Như vậy phần nghị luận so sánh, liên hệ văn học góp phần khơng nhỏ
vào kết quả thi mơn Văn cũng như tạo cơ hội cao hơn cho các em xét tuyển
Đại học. Có thể nói ơn tập và làm tốt phần nghị luận so sánh, văn học chính
là giúp các em đạt điểm cao cho bài thi của mình. Vì vậy việc ôn tập bài bản
để các em học sinh lớp 12 làm tốt phần nghị luận so sánh tác phẩm văn học,
làm tốt bài thi của mình càng trở nên cấp thiết.
Đối với học sinh trường THPT nhất là học sinh lớp 12, đây là phần
kiến thức mà các em đang rất quan tâm, mong muốn được các thầy cơ củng
cố để chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia. Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy
cũng như vai trò của một giáo viên tâm huyết với nghề, nhiều năm ơn thi Tốt
nghiệp, Đại học, đồng thời góp phần tháo gỡ những khó khăn trên, tơi đã lựa
chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm : “Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng
làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh lớp 12 Trung học phổ thơng”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thông qua việc hướng dẫn các em học sinh ôn luyện kiến thức lý
thuyết cách làm bài, luyện tập các dạng đề nghị luận so sánh văn học, tôi
muốn nâng cao chất lượng làm dạng bài so sánh, liên hệ tác phẩm văn học
của học sinh THPT nói chung nhất là các em học sinh lớp 12 chuẩn bị bước
vào kì thi THPT Quốc gia nói riêng . Vì thế khi nghiên cứu và thực hiện đề
tài này tôi đã hướng tới các mục đích cụ thể sau:
- Nắm vững những kiến thức lý thuyết cách làm bài so sánh văn học.
- Rèn kĩ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh
- Luyện tập một số đề nghị luận so sánh liên hệ tác phẩm văn học để
rèn kĩ năng làm bài
- Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU



- Học sinh trung học phổ thông, học sinh lớp 12 chuẩn bị thi THPT
Quốc gia môn Ngữ văn. Trong ba năm ôn luyện dạng đề này tôi đã chọn 3
lớp để nghiên cứu: 12A2 (năm học 2015-2016)12A6 (năm học 2016-2017)
12A7 (năm học 2017-2018)
- Dạng câu hỏi nghị luận so sánh văn học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra, thực nghiệm.
PHẦN II: NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận
1.1.Khái niệm
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học do Hồng Phê chủ
biên thì “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau,
khác nhau hoặc sự hơn kém”.
Theo “Từ điển Tu từ - phong cách học - thi pháp học” của tác giả Nguyễn
Thái Hồ (NXB Giáo dục) thì “so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem
sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương
đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận
thức của người đọc, người nghe”.
Như vậy, so sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên
cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một
cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống , so
sánh trở thành một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận
thức, đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
Từ những khái niệm trên vận dụng vào việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học
cho học sinh, có thể thấy so sánh giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đối tượng (có
thể là những chi tiết, nhân vật, hình tượng, phong cách…) cảm nhận được

những mới mẻ, độc đáo của đối tượng cũng như những sáng tạo của nghệ sĩ.
Để rèn luyện và hướng dẫn học sinh thực hiện tốt phương pháp này nói riêng,
cảm thụ văn học nói chung, về phía học sinh, giáo viên cần đặt ra những yêu
cầu cụ thể.
Với phân môn Làm văn trong nhà trường phổ thông, khái niệm so sánh
văn học cần phải được hiểu theo hai lớp nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, so sánh văn học là một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập
lụân khác như: phân tích, chứng minh, bác bỏ, bình luận… đã được đưa vào
SGK Ngữ văn 11.
Thứ hai, nó được xem như một phương pháp, một cách thức trình bày khi
viết bài nghị luận văn học, tức là một kiểu bài nghị luận văn học. Tuy nhiên, so
sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng
một bài học độc lập trong chương trình ngữ văn THPT.
Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích yêu cầu, đến
cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết.
Trong chuyên đề này khái niệm so sánh văn học chủ yếu được hiểu theo
nghĩa là một kiểu bài nghị luận,
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế những năm gần đây, các kỳ thi học sinh giỏi cũng như thi THPT
Quốc gia môn Văn,thường xuất hiện dạng đề so sánh văn học. Mục đích so
sánh văn học là để thấy được điểm tương đồng và khác biệt nhằm làm sáng tỏ
những điểm mới, kế thừa của tác phẩm, hoặc đánh giá những chuyển biến
trong tư tưởng và phong cách của một cây bút trong những tác phẩm viết cùng


một đề tài, một chủ đề…ở nhiều thời điểm khác nhau. Có khi so sánh chỉ để
làm nổi bật một vài chi tiết, hình ảnh, từ ngữ nào đó của tác phẩm. Tuy nhiên
đây là dạng nghị luận mới nên gây khó khăn, lúng túng cho cả giáo viên và học
sinh
Đối với giáo viên trong phân phối chương trình, kiểu bài so sánh văn học

không hề được đưa vào nên chưa bao giờ nó được xuất hiện trong tiết Làm văn
như một bài học độc lập tương đương như những dạng bài khác hoặc được giới
thiệu qua các tài liệu tự chọn của Bộ Giáo dục. Vì vậy, việc “rèn kĩ nănglàm
kiểu bài so sánh văn học cho học sinh lớp 12 THPT” gặp phải khơng ít khó
khăn, nhất là tư liệu dạy học ít. Đặc biệt do phân phối chương trình và thời gian
trên lớp hạn chế, nên hầu hết giáo viên chỉ chú ý đi sâu, đào kĩ vào các vấn đề
trọng tâm của tác phẩm, khơng có điều kiện so sánh, đối chiếu tác phẩm này
với tác phẩm kia, nếu có cũng chỉ mang tính chất liên hệ, mở rộng chứ khơng
có thời gian để đối chiếu ở từng phương diện cụ thể. Vì thế, trong trong dạy
học môn ngữ văn ở trường PTTH, giáo viên và học sinh ít có thời gian bàn về
so sánh văn học.
Đối với học sinh cịn lúng túng, chưa có kĩ năng so sánh văn học, tài liệu
tham khảo ít, việc hướng dẫn của giáo viên về kiểu bài này còn khá mỏng và
hạn chế. Nên hầu hết học sinh thường gặp khó khăn, và rất ngại làm kiểu bài
nghị luận so sánh văn học do chưa nắm rõ kĩ năng làm bài.
Từ những nguyên nhân trên mà hầu hết học sinh rất lúng túng trước kiểu
bài so sánh văn học. Vì thế khi gặp đề bài này, học sinh chỉ biết đơn thuần cảm
thụ lần lượt hai đối tượng chứ không biết chỉ ra từng đặc điểm giống nhau và
khác nhau, đặc biệt rất hiếm trường hợp học sinh biết lí giải nguyên nhân giống
và khác nhau ấy là do đâu, dựa trên cơ sở nào để giải thích.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
• Biện pháp 1: Rèn kỹ năng nhận diện kiểu bài so sánh
Q trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả,
nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không
cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác
nhau của một nền văn học. Vì vậy ta có thể chia ra thành các kiểu bài so sánh
văn học như sau:
• .So sánh hai đoạn thơ, đoạn văn.
Ví dụ 1: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau: 
Tôi muốn tắt nắng đi 

Cho màu đừng nhạt mất; 
Tôi muốn buộc gió lại 
Cho hương đừng bay đi. 
(Vội vàng– Xuân Diệu, Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục 2011) 
Tôi buộc lịng tơi với mọi người 
Để tình trang trải với trăm nơi 
Để hồn tôi với bao hồn khổ 
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. 
(Từ ấy– Tố Hữu, Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục 2011) 
Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị nén lấy hũ rượu cứ uống ừng ựng từng
bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát,
nhưng lịng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng...” (Vợ chồng APhủ - Tơ Hồi) 
“ Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng
tỉnh ra. Tỉnh ra chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng
thấy hơi cháo hành. Hắn ơm mặt khóc rưng rức...” ( Chí Phèo - Nam Cao)


1.2 . So sánh các vấn đề nội dung tư tưởng của tác phẩm (hoặc đoạn trích).
Những đề văn thuộc dạng này có thể u cầu phân tích, so sánh các
phương diện, nội dung tư tưởng như: giá trị hiện thực, tư tưởng nhân đạo, chủ
nghĩa yêu nước…
Ví dụ 1: Cảm hứng quê hương đất nước trong các bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu và đoạn trích Đất nước (trích Trường ca mặt đường khát vọng) của
Nguyễn Khoa Điềm.
Ví dụ 2: Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao qua truỵên ngắn “Chí Phèo”
và Kim Lân qua truyện ngắn “Vợ nhặt”.
1.4. So sánh các vấn đề về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (hoặc
của đoạn trích)

Đề bài có thể u cầu phân tích, so sánh các phương diện hình thức nghệ
thuật như nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngơn từ, nghệ thuật kết truyện…và cũng có thể là
tồn bộ các yếu tố thuộc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ 1: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong “Vợ nhặt” của
Kim Lân và “Chữ người tử tù”của Nguyễn Tuân.
Ví dụ 2: So sánh cách kết thúc hai tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
và Chí Phèo của Nam Cao. 
Ví dụ 3: So sánh cái kết trong tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao) với sự
xuất hiện trở lại của “cái lò gạch cũ” và cái kết trong Vợ nhặt (Kim Lân) với
hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
1.5.So sánh về các hình tượngvăn học
Có thể là hình tượng nhân vật, hình tượng thiên nhiên, hình tượng cái
“tơi” trữ tình hoặc một hình tượng nào đó trong thế giới nghệ thuật của tác
phẩm.
Ví dụ 1: Cảm nhận về vẻ đẹp người con gái Việt Nam thời chiến qua
hai nhân vật Chiến trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của
Nguyễn Thi và Dít trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Ví dụ 2: So sánh nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”
và nhân vật ông lái đị trong tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” để làm rõ sự
khác biệt trong cách xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Tuân trước
và sau Cách mạng tháng Tám 1945
1.6.So sánh về các chi tiết trong tác phẩm
Dạng đề này thường hướng đến các chi tiết trong tác phẩm văn xi
Ví dụ 1: Cảm nhận của anh(chị) về hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong
“Chí phèo” (Nam Cao) và nồi cháo cám của bà mẹ Tứ trong tác phẩm “ Vợ
nhặt” của Kim Lân.
Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngồi kia vui
vẻ q” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp Thị Nở (Chí Phèo
- Nam Cao) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi” mà nhân

vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xn (Vợ chồng A Phủ -Tơ Hồi).
2. Biện pháp 2: Rèn kỹ năng so sánh:
- So sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, cùng một bình diện để tránh
khập khiễng.
- So sánh trên nhiều cấp độ: nhỏ nhất là giữa các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh;
lớn hơn là các nhân vật, sự kiện, tác phẩm, tác giả và phong cách…
- So sánh thường đi đôi với nhận xét, đánh giá thì so sánh đó mới trở nên sâu
sắc.
Để thực hiện tốt các thao tác so sánh địi hỏi học sinh:
+ Phải có vốn tri thức rộng về văn chương kết hợp với trí tụê sắc sảo và
năng khiếu liên tưởng, tưởng tượng.
+ Phải có khả năng nắm vấn đề cụ thể, chi tiết đồng thời có khả năng khái
quát, tổng hợp.


ép.

+ So sánh để làm nổi bật đối tượng, phải tự nhiên, phù hợp không gượng

Như vậy, kiểu bài so sánh văn học ít nhất phải từ hai tác phẩm (hoặc hai
đoạn trích) trở lên. Đối với kiểu bài này, người làm bài phải biết phân tích các
đối tượng trong thế so sánh để tìm ra những chỗ giống nhau, khác nhau, từ đó
hiểu rõ hơn về cái hay, cái đẹp của các tác phẩm, nét độc đáo trong phong cách
của mỗi tác giả…
Kiểu bài này đòi hỏi người làm bài phải có kiến thức lí luận văn học, kiến
thức về văn học sử (tác phẩm và tác giả) phong phú và phải có năng lực khái
quát tổng hợp vấn đề cao. Trong quá trình rèn luyện kỹ năng làm bài cho học
sinh, nếu chúng ta biết chọn và đưa ra nhiều đề văn thuộc dạng này không chỉ
giúp các em củng cố được thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nâng cao vấn
đề mà còn là cơ hội để các em biết xâu chuỗi và vận dụng một cách nhuẫn

nhuyễn các kiến thức đã học, phát huy năng lực sáng tạo của các em.
3.Biện pháp 3: Rèn kỹ năng nhóm các tác phẩm có chung đề tài, chủ đề.
3.1.Nhóm các tác phẩm
GV có thể hướng dẫn HS tập hợp các tác phẩm đã học thành những đề tài,
chủ đề lớn, nhỏ: Đất nước, tình u, người lính, số phận con người, vẻ đẹp tâm
hồn người phụ nữ…
Có thể nhóm một số tác phẩm theo chủ đề, đề tài như sau:
Về nhân dân, đất nước:
- Đất nước (Nguyễn Đình Thi)
- Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)
- Việt Bắc (Tố Hữu)
Về người phụ nữ, người nông dân:
- Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi)
- Vợ nhặt (Kim Lân)
- Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn Minh Châu)…
Về người lính:
- Tây Tiến (Quang Dũng)
- Việt Bắc (Tố Hữu)
- Đất nước (Nguyễn Đình Thi
Cảm hứng nhân đạo:
- Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
- Chí Phèo (Nam Cao)
- Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi)
- Vợ nhặt (Kim Lân)
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
- Tây tiến (Quang Dũng)
- Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
- Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
3.2 Rèn kỹ năng tự thiết lập bộ đề
Sau khi nhóm các tác phẩm theo chủ đề, đề tài, giáo viên nên yêu cầu học

sinh tự thành lập các đề văn cảm thụ trong thế đối sánh (thiết lập ngân hàng
đề).
Cách làm như sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thiết lập các đề
theo dạng: cùng viết về một đề tài….nhưng mỗi tác phẩm, tác giả lại có những
cách khám phá, thể hiện mới mẻ đặc sắc…chứ không đơn thuần: nêu cảm nhận
của anh/chị về hai nhân vật, hai đoạn văn, đoạn thơ, hai chi tiết, hai hình
ảnh….
Từ đó, các em sẽ thấy rằng các tác phẩm khi được đặt trong thế đối sánh
thì các đối tượng nên cùng loại (gần nhau) để nhận thức được những điều khác
biệt. Tuy nhiên cần xác định được điểm chung, tiêu chí và mục đích của sự đối
sánh trước khi ra đề, sẽ tránh sự khập khiễng, gượng ép khi đặt các đối tượng


cảm thụ quá khác xa nhau trong một đề văn.
4.Biện pháp 4: Rèn kỹ năng làm bài so sánh văn học
4.1.Rèn kĩ năng phân tích đề:
Phân tích đề là một trong những khâu quan trọng quyết định chất lượng
bài văn. Vì vậy, giúp học sinh có được kĩ năng này giáo viên cần trang bị cho
học sinh những kĩ năng cụ thể như:
4.1.1- Rèn kỹ năng phân tích các đối tượng và so sánh để thấy được nét
chung, nét riêng
Ví dụ 1: Cùng viết về đất nước và nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp nhưng tác phẩm: “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi và
“Việt Bắc” của Tố Hữu là hai thế giới hình tượng riêng, hai giọng điệu trữ tình
riêng, chứa đựng những nỗi niềm riêng của mỗi hồn thơ. Anh/chị hãy phân tích
hai bài thơ trong quan hệ đối sánh để chỉ ra nét riêng của mỗi tác phẩm.
Học sinh biết cách phân tích từng đối tượng so sánh sau đó nhận xét đánh
giá về những điểm tương đồng và khác biệt của các đối tượng so sánh.
4.1.2. Kỹ năng xác định yêu cầu của đề:
Trước hết, cần xác định đối tượng cảm thụ - đối sánh, phạm vi kiến thức

cần huy động sao cho đúng và trúng.
Muốn vậy cần rèn cho các em thói quen đọc kĩ đề, gạch chân những từ
ngữ quan trọng. Có thể đưa ra một loạt đề cảm thụ trong thế đối sánh cùng về
hai tác giả, tác phẩm, chỉ thay đổi cách hỏi, câu lệnh để rèn cho học sinh kĩ
năng xác định trọng tâm vấn đề.
Trước một đề văn cần đặt các câu hỏi: Tại sao đề lại yêu cầu cảm thụ các
đối tượng đó trong thế đối sánh? giữa chúng có những điểm gì chung lớn nhất
(cùng đề tài, cảm hứng, thể loại, giai đoạn…)sự khác biệt nổi bật giữa chúng?
từ sự giống và khác nhau ấy, đề văn muốn chúng ta khẳng định vấn đề gì? (về
đặc điểm giai đoạn, trào lưu, bản chất nghệ thuật, sự sáng tạo của người nghệ
sĩ, tiến trình phát triển của lịch sử văn học?..) Những câu hỏi ấy sẽ giúp học
sinh xác định mục đích, yêu cầu của đề văn và thâm ý của người ra đề.
4.1.3. Rèn kỹ năng xác định thao tác nghị luận cơ bản:
Một bài văn cần phối hợp rất nhiều thao tác nghị luận song cần lưu ý học
sinh xác định đâu là thao tác nghị luận chính, đâu là thao tác nghị luận bổ trợ.
Trong bài nghị luận so sánh văn học thao tác cơ bản là phân tích và so sánh. Có
nhiều học sinh chỉ nặng về đối sánh mà quên mất cảm thụ , có học sinh thì
ngược lại. Xác định được thao tác chính học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ
thống luận điểm hợp lí và khoa học cho bài viết.
4.1.4. Rèn kỹ năng xác định phạm vi giới hạn đề ( phạm vi tư liệu)
Các em cần xác định đúng phạm vi giới hạn đề thuộc đoạn trích( tác
phẩm) nào để định hướng sử dụng phạm vi tư liệu dẫn chứng đúng tránh lan
man ,xa đề .
4. 2. Rèn kĩ năng lập ý - lập dàn ý:
4.2.1.Các bước lập ý:
Bước 1: Trước hết, cần phân tích đối tượng thành nhiều bình diện để cảm
thụ đối sánh. Trên đại thể, hai bình diện bao trùm là nội dung tư tưởng và hình
thức nghệ thuật. Tuỳ từng đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách
ra các khía cạnh nhỏ khác nhau. Cách chia tách phải căn cứ vào đặc trưng loại
thể hoặc các khía cạnh của nội dung tư tưởng: ngơn từ, hình ảnh, chi tiết, kết

cấu, âm hưởng, giọng điệu, đề tài, chủ đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật.
Bước 2: Nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Học sinh
cần có sự phát hiện chính xác, có tiêu chí so sánh rõ ràng, diễn đạt thật nổi bật,
rõ nét, tránh chung chung, mơ hồ.
Bước 3: Đánh giá, nhận xét, lí giải nguyên nhân của sự giống và khác
nhau. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn rõ ràng, nền lí luận vững chắc, kiến
thức văn học sâu rộng, tránh những suy diễn tuỳ tiện, chủ quan, thiếu sức


thuyết phục.
4.2.2.Cách thức trình bày ý:
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3
phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại
có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích,
thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xi.
Các cách làm bài dạng đề so sánh văn học: thường có hai cách: 
- Cách nới tiếp : Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và
khác nhau
- Cách song song : Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt
phân tích từng luận điểm kết hợp với việc lấy song song dẫn chứng của cả
hai văn bản minh họa.
* Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp: Đây là cách làm bài phổ biến của
học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và đào
tạo định hướng trong đáp án đề thi đại học - cao đẳng. Bước một lần lượt
phân tích từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội dung và nghệ thuật,
sau đó chỉ ra điểm giống và khác nhau. Cách này học sinh dễ dàng triển khai
các luận điểm trong bài viết. Bài viết rõ ràng, khơng rối kiến thức nhưng
cũng có cái khó là đến phần nhận xét điểm giống và khác nhau học sinh
không thành thạo kĩ năng, nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã
phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện. Mơ hình khái quát của kiểu

bài này như sau:
Mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Thân bài
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác
lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
- Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
- So sánh: 
+ Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình
diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết
hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và
thao tác lập luận so sánh)
+ Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện:
bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc
trưng thi pháp của thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
*Cách 2: Phân tích song song: được hiểu song hành so sánh trên mọi bình
diện của hai đối tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy
chặt chẽ, lôgic, sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề học sinh mới tìm được
luận diểm của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của
cả hai văn bản để chứng minh cho luận điểm đó.
- Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Ứng dụng cách viết này học sinh khơng
phân tích lần lượt từng tác phẩm như cách một mà phân tích so sánh song
song trên các bình diện: Xuất xứ - cảm hứng - hình tượng - chất liệu và

giọng điệu trữ tình
- Mơ hình khái qt của kiểu bài này như sau:
Mở bài:


- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh 
Thân bài:
-Giới thiệu vị trí, sơ lược về hai đối tượng cần so sánh.
-So sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa hai hay nhiều đối tượng
theo từng tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi tiêu chí tiến
hành phân tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được điểm giống, điểm khác.
Học sinh có thể dựa vào một số tiêu chí sau để tìm ý (tất nhiên tùy từng đề
cụ thể có thể thêm, hoặc bớt các tiêu chí).
+ Về nội dung: Đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm (tầm vóc, vai trị, ý
nghĩa của hình tượng), cảm hứng, thơng điệp của tác giả…
+ Về hình thức nghệ thuật: Thể loại, hệ thống hình ảnh, ngơn từ, nhịp
điệu, giọng điệu, biện pháp, nghệ thuật..
+ Lí giải vì sao có điểm giống, điểm khác này, nguyên nhân chủ yếu:
+ Do hoàn cảnh lịch sử
+ Do hoàn cảnh sống của mỗi cá nhân.
+ Do sự chi phối của ý thức hệ và thi pháp hệ thống quan điểm thẩm mĩ.
+ Do cá tính của tác giả.
+ Cơ sở lí luận văn học: Mỗi tác phẩm là số phận của một cá nhân cụ thể,
tác phẩm muốn tồn tại phải có cái khác người, độc đáo, có sự sáng tạo.
Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu 
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Cách này hay nhưng khó, nó khắc phục được tất cả các nhược điểm của cách
thứ nhất địi hỏi học sinh phải có tư duy chặt chẽ logic để tách vấn đề, khơng

có sự tinh tế trong việc lựa chọn các yếu tố để cảm thụ thì bài viết hoặc sẽ rối
hoặc thiên về liệt kê so sánh đối chiếu khô cứng. Thường những học sinh giỏi,
có năng khiếu mơn văn làm theo cách này.
* Hai cách làm bài của kiểu đề so sánh văn học là vậy, mỗi cách làm đều có
mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Trong thực tế không phải đề nào chúng ta
cũng có thể áp dụng theo đúng khn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên.
Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể mà ta áp dụng theo cách nào
và áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp.
Tuy nhiên, khi triển khai đề so sánh văn học đối với đề thi đại học, cao đẳng,
chúng ta triển khai theo cách làm thứ nhất để phù hợp với đông đảo đối tượng
học sinh phổ thông cũng như đáp án của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1.Kiểm chứng
1.1.Đối tượng kiểm chứng: Học sinh lớp 12A6, 12A7. Đây là 2 lớp có
lực học khá, giỏi và tương đối đồng đều. 100% đạt học sinh khá giỏi, trong đó
45% học sinh giỏi, 100% học sinh thi khối C, D. Nên các em nhận thức, tiếp
thu rất nhanh. Đây là điều kiện rất thụân lợi cho giáo viên.
1.2.Thời gian kiểm chứng: Qua một số tiết viết bài và trả bài trong năm
học 2017-2018.
1.3.Nội dung kiểm chứng:
Đề 1: Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh bát cháo hành trong truyện
“Chí Phèo” (Nam Cao) và nồi cháo cám trong truyện “Vợ nhặt” (Kim
Lân).
§Ị 2: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
 Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
 Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
   
(Tây Tiến – Quang Dũng)



Và:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
 Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
 Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

(Việt Bắc- Tố Hữu)

Hướng dẫn làm đề 1:
Tìm hiểu đề
- Dạng đề: nghị luận so sánh hai hình ảnh, trong hai tác phẩm .
- Đối tượng nghị luận: Hình ảnh bát cháo hành trong truyện “Chí Phèo” (Nam
Cao) và nồi cháo cám trong truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân).
- Thao tác: Tổng hợp: phân tích, chứng minh, so sánh…
- Phạm vi dẫn chứng: Tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Chí Phèo ( Nam Cao)
Lập dàn ý

Mở bài:
- Giới thiệu về đề tài nông thôn và người nơng dân
- Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành
- Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám
II. Thân bài:
• Khái quát về tác giả tác phẩm:
- Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng. Ông có tài kể
chuyện tự nhiên hấp dẫn, ngơn ngữ uyển chuyển, gần với lời ăn tiếng nói của
quần chúng, có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật. Nhiều tác phẩm thơ văn của
ơng thấm đượm ý vị triết lí trữ tình. Tác phẩm "Chí Phèo", truyện ngắn đặc sắc
của Nam Cao. Truyện ngăn “Chí Phèo” nói lên số phận bi thảm của người nông

dân nghèo, lương thiện bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu
manh, tội lỗi khơng cố lối thốt.
- Kim Lân là cây bút chun về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một
cách chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu
sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong  những sáng tác xuất sắc của Kim
Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói
khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sớng và niềm tin của con người Việt
Nam.
2. Phân tích hình ảnh bát cháo hành:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh bát cháo hành mà Thị Nở nấu cho Chí Phèo xuất hiện
ở phần giữa truyện: Chí say rượu, gặp Thị Nở trong đêm trăng thơ mộng bên
vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở Chí Phèo. Sau hơm đó, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành
mang sang cho hắn.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
+ Thể hiện tình yêu thương, sự chăm sóc ân cần mộc mạc của Thị Nở dành cho
Chí
+ Là hương vị của hạnh phúc, tình u muộn màng mà lần dầu tiên Chí được
hưởng.
+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hờn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động
mạnh, khiến Chí ăn năn, hơi hận về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó
khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội
được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức
nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí.
 – Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu
sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.


+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm

hố của tình người.
3. Phân tích hình ảnh nồi cháo cám:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên
đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.
* Ý nghĩa:
- Về nội dung:
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn
trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo
đói, cực khổ và thảm cảnh của người nơng dân trong nạn đói khủng khiếp năm
1945.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ:
Trong bữa cơm ngày đói bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, bà gọi cháo cám là “chè
khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con. Bà là người mẹ nhân hậu,
thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân,
tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám
cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sớng cho thị. Cịn thị thơng cảm thấu hiểu gia
cảnh nhà chồng, đón nhận bát cháo cám như đón nhận ân tình của người mẹ
nghèo, “thị điềm nhiên và vào miệng”.Vợ Tràng đã thực sự sẵn sàng cùng gia
đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
- Về nghệ thuật:
Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả
Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn, góp phần thể hiện giá trị
nhân đạo, nhân văn của tác phẩm: vẻ đẹp tình người trong nạn đói.
4. So sánh:
a. Điểm giống nhau :
+ Biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung.
+ Qua đó, thể hiện sâu sắc bi kịch của nhân vật, và tái hiện lại hiện thực xã hội:
bi kịch bị tha hoá, bị cự tuyêt quyền làm người (bát cháo hành) .Dù Chí muốn
lương thiện nhưng cách duy nhất là cái chết để không bị tha hóa nhân cách của
chính mình. Bát cháo cám: thể hiện hiện thực tàn khốc của nạn đói (cám vốn là

thức ăn của con vật thế nhưng giờ đây lại trở thành món ăn quý giá, đặc biệt của
một gia đình).
=> Cái nhìn hiện thực độc đáo chan chứa tinh thần nhân đạo.
+ Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của
tình yêu thương con người của các nhà văn.
b. Điểm khác nhau:
+ Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo
nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua
đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vơ nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến
cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao về tiền đồ của người
nông dân trước cách mạng.
+ Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm
chất tốt đẹp của người dân lao đợng trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người
nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như
vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
5. Lí giải sự khác biệt:
+ Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà
văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân trước
cách mạng. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
6. Đánh giá:
Bên cạnh những điểm tương đồng trong cái nhìn đầy nhân đạo và nghệ thuật


miêu tả tâm lý nhân vật tài tình của nhà văn, mỗi chi tiết nghệ thuật lại hiện lên
với vẻ đẹp khác nhau, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của cốt truyện,
đem đến cho người đọc những áng văn bất hủ, giàu giá trị. Nam Cao và Kim
Lân chính là những "hóa công" đã xây nên hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đầy ý
nghĩa này.
III. Kết bài:

- Khái quát lại những điểm giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Đánh giá, mở rộng vấn đề.
…………………………………………………………………………………….
Hướng dẫn làm đề 2:
Tìm hiểu đề
- Dạng đề: nghị luận so sánh hai đoạn thơ trong hai tác phẩm.
- Đối tượng nghị luận: Cảm nhận về đoạn thơ Tây Tiến và đoạn thơ Việt
Bắc( Nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng trong kỉ niệm )
- Thao tác: Tổng hợp: phân tích, chứng minh, so sánh…
- Phạm vi dẫn chứng: Tác phẩm Tây Tiến( Quang Dũng) và Việt Bắc( Tố Hữu)
Lập dàn ý

Mở bài:
 - Giới thiệu về đề tài thiên nhiên trong thơ ca.
• Giới thiệu về thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và trong
Việt Bắc của Tố Hữu.
II.Thân bài:
• Khái quát về tác giả tác phẩm
- Quang Dũng  là một nghệ sĩ đa tài, tên tuổi của ông gắn liền với thi phẩm “Tây
Tiến”. Bài thơ Tây Tiến ra đời năm 1948, trích trong tập “Mây đầu ơ” là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ là nỗi
nhớ lớn của tác giả về thiên nhiên và đồng đội Tây Tiến. Bốn câu thơ bộc lộ nỗi
nhớ thiên nhiên miền tây - chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến.
-  Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của thi ca cách mạng Việt
Nam. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời vào tháng 10-1954 khi Trung ương
Đảng rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đơ Hà Nội. Bài thơ là tình cảm cách
mạng sâu nặng của những người cán bộ kháng chiến với chiến khu và những kỉ
niệm kháng chiến. Bốn câu thơ là nỗi nhớ về núi rừng Việt Bắc – cội nguồn
kháng chiến.
• Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng.

- Nội dung: Thiên nhiên hùng vĩ dữ dội ở con đường hành quân nhiều gian khổ.
Nhiều từ láy được huy động để diễn tả sự hiểm nguy: “Khúc khuỷu, thăm thẳm,
heo hút”. Phép nhân hóa “súng ngửi trời” diễn tả tinh tế độ cao. Phép tương
phản đối lập diễn tả cảnh đèo cao, dốc thẳm, rừng dày “Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống”.
- Thiên nhiên trữ tình, thơ mộng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ
được dệt nên bởi những thanh bằng gợi cảm giác êm ả, nhẹ nhàng khoan khối.
Hình ảnh thơ gợi vẻ đẹp nên thơ lãng mạn.
- Nghệ thuật: thể thơ thất ngơn cân đối hài hịa giữa các thanh bằng trắc; phép
nhân hóa, tương phản, cách sử dụng từ láy tượng hình…
3. Cảm nhận về đoạn thơ trong Việt Bắc của Tố Hữu 
- Nội dung: Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết, khôn nguôi về những trận đánh của
thiên nhiên và con người Tây Bắc. Thiên nhiên, đất trời, núi rừng Việt Bắc đã
trở thành những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của quân và dân ta.
Nó vừa bao vây quân thù, vừa che chở cho bộ đội. Thiên nhiên gắn bó hài hịa
với con người cùng chung mất mát đau thương, cùng chung lưng đấu cật chống
kẻ thù chung “Nhớ khi giặc đến giặc lùng - Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây”.


- Con người và thiên nhiên tạo thành một thế trận trùng điệp dồn kẻ thù vào “lũy
sắt dày”, vào “mênh mông bốn mặt sương mù”.
- Thiên nhiên là hậu phương vững chắc và cũng là người bạn chiến đấu của con
người.
- Nghệ thuật: Thể thơ lục bát truyền thống, phép tu từ nhân hóa, hình ảnh thơ
ngơn ngữ thơ giàu tính tạo hình.
• So sánh:
- Giống nhau: Hai đoạn thơ đều bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, sâu nặng về thiên
nhiên hùng vĩ, tươi đẹp của núi rừng trong thời kỳ chống Pháp mà người lính
tiền chiến đã đi qua. Đều được viết bằng bút pháp lãng mạn cách mạng.
- Khác nhau:

+ Thiên nhiên trong Tây Tiến thiên về diễn tả sự khắc nghiệt, dữ dội. Là khó
khăn gian khổ mà người lính phải vượt qua trên chặng đường hành quân.
+ Thiên nhiên trong Tây Tiến mang hai vẻ đẹp hài hịa: hùng vĩ và lãng mạn.
+ Thể thơ thất ngơn cũng góp phần làm cho bức tranh thơ thể hiện được những
nét trên.
+ Thiên nhiên trong Việt Bắc thiên về miêu tả sự gần gũi và đồng lòng với con
người Trong Việt Bắc, thiên nhiên có chiều hướng gắn với hiện thực cuộc kháng
chiến khi ta dựa thế rừng núi để đáp trả lại kẻ thù.
+ Thể thơ lục bát biến hóa linh hoạt mang lại một thiên nhiên hùng vĩ nhưng
cũng thật gần gũi.
4. Lí giải sự khác biệt: Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” trong những năm
đầu kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh người lính cịn nhiều khó khăn gian khổ.
Hồn thơ Quang Dũng lãng mạn hào hoa. Bài thơ “Việt Bắc” được Tố Hữu viết
sau kháng chiến chống Pháp. Hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ trữ tình chính trị.
III. Kết bài: - Khái qt lại nội dung, nghệ thuật của hai đoạn thơ.
- Đánh giá, mở rộng vấn đề.
2. Kết quả kiểm chứng
Qua điều tra cho thấy kết quả như sau:
Lớp Kết quả khảo sát
Bài viết
Số học sinh biết phân tích đề
40%
Số học sinh biết xác định các bình diện so sánh
50%
12A6 Số học sinh biết so sánh điểm giống và khác
60%
Số học sinh biết lí giải nguyên nhân
5%
Số học sinh biết đánh giá khái quát vấn đề
50%

Số học sinh biết phân tích đề
60%
Số học sinh biết xác định các bình diện so sánh
40%
12A7 Số học sinh biết so sánh điểm giống và khác
50%
Số học sinh biết lí giải sự khác biệt
5%
Số học sinh biết đánh giá khái quát vấn đề
50%
3. Phân tích kiểm chứng
Với kết quả kiếm chứng ở trên chúng ta dễ dàng nhận thấy những con số
khá chênh lệch. Điều đó chứng tỏ việc rèn kĩ năng so ánh văn học cho học sinh
là rất cần thiết và thu lại kết quả đáng kể. Rõ ràng, khi nắm được phương pháp,
có kĩ năng các em sẽ rất thụân lợi trong việc giải quyết một đề bài kiểu so sánh
trong văn học. Do giáo viên hồn tồn có thể n tâm khi học sinh bước vào
các kì thi, nhất là thi đại học, cao đẳng và thị học sinh giỏi các cấp.
4. Kết quả
4.1.Những vấn đề quan trọng nhất của SKKN
Có thể thấy, trong phương pháp rèn kĩ năng làm văn cho HS không thể
thiếu phương pháp rèn kĩ năng so sánh văn học.
Rèn kĩ năng so sánh văn học sẽ giúp học sinh nắm vững nội dung văn


bản, nâng cao khả năng tự cảm thụ, khơi gợi khả năng sáng tạo, kích thích sự
say mê tìm tịi ở HS.
Rèn kĩ năng so sánh văn học chính là cách giúp HS tiếp cận với đề thi đại
học, cao đẳng và đề thi các cấp một cách tốt nhất.
Rèn kĩ năng so sánh văn học còn giúp GV đào sâu, tìm tịi kiến thức, say
mê với chun mơn.

4.2.Hiệu quả thiết thực của SKKN
2.1.Hiệu quả
Rèn kĩ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh thật sự cần thiết
và phù hợp với cách ra đề thi các cấp hiện nay. Vì vậy, chúng ta hồn tồn có
thể thực hiện trong các giờ viết bài hai tiết ở lớp hoặc ở nhà đối với HS THPT,
nhất là lớp 12 dựa trên phân phối chương trình. Và tiết trả bài chính là thời gian
để giáo viên rèn kĩ năng so sánh cho học sinh.
Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh cũng là cách để GV trau dồi
kiến thức, tăng cường khả năng học hỏi, say mê với chuyên môn, đổi mới
phương pháp giảng dạy và ra đề kiểm tra.
Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh cịn là cách kích thích sự tìm
tịi, sáng tạo ở HS, khiến các em miệt mài, say mê, ngày càng u thích mơn
Văn hơn.
2.2.Khả năng áp dụng
Đối tượng: Việc rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh hoàn toàn phù
hợp với điều kiện dạy học của GV và HS hịên nay, nhất là kì thi THPT Quốc
gia và đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học ngữ văn ở cá trường THPT.
Phạm vi: GV có thể thực hiện bình thường ở tại lớp học, trong giờ học
thêm, thực hiện vào những tiết trả bài hoặc tự chọn trong chương trình lớp 10,
11, 12.
Nguồn tư liệu tích luỹ : chỉ cần phát động trong tổ chuyên môn, giáo viên
xây dựng ngân hàng đề về dạng bài so sánh văn học. Các tư liệu có thể dựa
vào mạng Internet, đề thi và đáp án đại học, cao đẳng hàng năm, kiến thức về
tác giả, tác phẩm, lí luận văn học…vv, sau đó GV lựa chọn tích lũy và sử dụng
trong quá trình giảng dạy.
Giải pháp này là lâu dài. Nếu chúng ta tích luỹ trong nhiều năm, chúng ta
sẽ chủ dộng trang bị cho môn học những tư liệu dạy học hiệu quả để nâng cao
chất lượng dạy học phục vụ tốt cho các kì thi đặc biệt là thi THPT Quốc gia sắp
tới.
PHẦN III: KẾT LUẬN

Rèn kĩ năng làm làm kiểu bài nghị luận so sánh văn học cho học sinh
là rèn khả năng tư duy logic, tư duy khoa học, khả năng cảm thụ các tác
phẩm văn học, sự nhạy cảm trước những vấn đề của đời sống xã hội. Cơng
việc đó khơng chỉ làm trong ngày một, ngày hai mà phải là một quá trình lâu
dài địi hỏi sự kiên trì và rất nhiều tâm huyết của giáo viên.Trên đây chỉ là
“Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng làm kiểu bài nghị luận so sánh văn học
cho học sinh lớp 12 THPT”, để qua đó giúp các em có thêm kiến thức, niềm
tin để đối mặt với kì thi THPT Quốc gia. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng để
khơi gợi hứng thú đối với phần làm văn nghị luận so sánh văn học, ngồi lí
thuyết gọn nhẹ, dễ hiểu, các kỹ năng được chia nhỏ để học sinh rèn luyện từng
phần một cách thuần thục thì một việc khơng kém phần quan trọng là giáo viên
cần tìm những đề bài hay đảm bảo tính vừa sức, nhưng vẫn kích thích sự sáng
tạo, tạo cơ hội cho học sinh được phát biểu những suy nghĩ riêng, được nói
bằng tiếng nói của riêng mình. Có thế thì việc học văn, làm văn nghị luận so
sánh văn học trong các trường THPT mới có kết quả cao.
Tơi tin tưởng rằng với nhiệt tình, tâm huyết của giáo viên và sự cố


gắng, khả năng sáng tạo của học sinh thì chất lượng môn Ngữ văn sẽ ngày
càng nâng lên. Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi trong q
trình giảng dạy. Tơi hy vọng sẽ giúp học sinh say mê và hứng thú học văn
hơn.
Kính mong sự góp ý chân thành của các đồng chí, đồng nghiệp.
Tơi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hoá,ngày 28 tháng 5 năm 2018
Người viết


Nguyễn Tú Ngọc Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, 2000
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn
học,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
3.Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt , trung tâm từ điển học, 2003
4. Nguyễn Văn Hạnh, Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo
dục,1999
5. Phan Trọng Luận, phương pháp dạy học văn, NXB Giáo dục, 2001
6. Nguyễn Thị Thanh Hương, Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở
trường THPT, NXB Giáo dục, 1998
7. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học và học văn, NXB Giáo dục, 1990
8 . Nguyễn Thanh Hùng, Hiểu văn dạy văn. NXB Giáo dục, 2002.
9. Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học,
Bộ GD&ĐT. Dự án Việt -Bỉ - NXB Đại học sư phạm.
10. Nguyễn Duy Kha (chủ biên), Ơn thi THPT Quốc gia mơn Ngữ văn,
NXB Giáo dục, 2015
11. 580322222231802898Trần Đình Sử, Quan niệm đọc văn,

www.vanhoanghean.com.vn




×