Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) sử dụng tốt phương pháp trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài động cơ đốt trong dùng cho xe máy công nghệ 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 37 trang )

MỤC LỤC
I. Mở đầu………………………………………………………………...…..Trang 1
1.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………......…Trang 1
1. 2. Mục đích nghiên cứu…………………….…………………………....….Trang 1
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………........….Trang 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………........…Trang 2
1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết…………………………………….....……..Trang 2
1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn……………………………………….……..Trang 2
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...…………………………………….……Trang 2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….….Trang 2
2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan…………………………...Trang 2
2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan………………….…...…..Trang 3
2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan……………….…….Trang 3
2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học trực quan…………….…..Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………..……Trang
4
2.3. Sử dụng phương pháp trực quan………………………………………….Trang 5
2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản………………………………………………….Trang 5
2.3.2. Áp dụng phương pháp dạy học trực quan………………….…….……..Trang 13
2.4. Những kết quả ban đầu………………………………………….……....Trang 18
III. Kết luận, kiến nghị………………………………………………………..Trang
19
3.1. Kết luận………………………………………………………..….……Trang 19
3.2. Kiến nghị……………………………………………..………….……..Trang 20

1


I. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài.
Câu nói của một triết gia nổi tiếng “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu


tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khoa học” đã như ánh sáng soi đường
cho nhân loại để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay. Nên phương tiện
hết sức cần thiết để đi đến nhận thức là dụng cụ trực quan.
Tích cực hóa hoạt động của học sinh là hướng dạy học hiện nay, giáo viên
cần tạo điều kiện để học sinh tự tìm tịi, khai thác kiến thức, biết điều khiển kiến
thức của mình bằng các đồ dùng trực quan, nên đồ dùng trực quan trở thành yếu tố
quan trọng trong quá trình dạy học. Vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác
kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng phong phú giúp học sinh dễ dàng tiếp
nhận kiến thức.
Công nghệ là một môn học ứng dụng không chỉ cung cấp thơng tin kiến
thức mà cịn là mơi trường tốt để các em khám phá, tìm tịi những mảng kiến thức
thực tế thú vị. Đồng thời ở đó các em sẽ tìm thấy sở thích của bản thân giúp cho
công tác định hướng nghề nghiệp sau này. Nên việc giáo viên bộ mơn biết tìm tịi
sáng tạo và có những phương pháp giảng dạy linh hoạt thì vẫn đem lại hiệu quả
cao và gây nhiều hứng thú cho học sinh.
Từ những nội dung trên tôi đã lựa chọn đề tài “ Sử dụng tốt phương pháp
trực quan nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua bài : Động cơ đốt trong
dùng cho xe máy – Công nghệ 11”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn khoa học, đề xuất nội dung và các biện pháp sử
dụng đồ dùng dạy học trực quan có hiệu quả.
- Nghiên cứu những tiền đề lí thuyết và thực tiễn khoa học làm cơ sở cho
việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đề xuất nội dung và cách thức sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy bài:
Động cơ đốt trong dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
2


- Tiến hành thực nghiệm để đánh giá khả năng thực thi và hiệu quả của
những đề xuất.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề xuất phương pháp trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt trong dùng cho xe máy
– Công nghệ 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Nhóm nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
1.4.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở lứa tuổi THPT các em luôn muốn khám phá những điều mới lạ, muốn tự
mình tìm ra những điều mình cịn thắc mắc trong q trình nhận thức. Các em có
khả năng điều chỉnh các hoạt động của mình trong đó có hoạt động học tập, sẵn
sàng tham gia các hoạt động khác nhau nhưng cần phải có sự hướng dẫn, điều
chỉnh một cách khoa học và nghệ thuật của mỗi một giáo viên chúng ta.
Sử dụng phương pháp trực quan giúp cho học sinh quan sát, chiếm lĩnh các kiến
thức từ đó hình thành và phát triển tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho học sinh.
2.1.1. Bản chất của phương pháp dạy học trực quan:
Là cách thức hệ thống các cách sử dụng các phương tiện trực quan để học sinh
trực tiếp cảm giác, tri giác chúng, trên cơ sở đó phát hiện, khai thác và lĩnh hội
kiến thức.
Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú:
- Vật thật, sản phẩm mẫu ....gọi chung là vật phẩm kĩ thuật.
- Mơ hình, hình vẽ sơ đồ (tĩnh hoặc động)...gọi chung là vật tượng hình.
- Các thí nghiệm biểu diễn hoặc chứng minh.
- Các hành động, thao tác hoặc kĩ thuật.
3



- Các động hình mơ phỏng bằng máy tính.
Với mỗi loại phương tiện trực quan cần có cách thức sử dụng khác nhau để học
sinh có thể tiếp nhận và lĩnh hội được kiến thức tiềm ẩn trong đó.
2.1.2. Mục đích của phương pháp dạy học trực quan:
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học giúp học sinh quan sát với các mục
đích sau:
- Tiếp thu các kiến thức mới thơng qua các hình ảnh và mơ hình mà giáo viên
đưa ra.
- Vận dụng các kiến thức đã học cũng như kiến thức vừa tiếp thu để thực hành
lắp đặt tạo nên các mạch điện hoàn chỉnh.
- Quan sát để khắc sâu kiến thức.
2.1.3. Quy trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan:
Có thể tóm tắt quy trình thực hiện PPDH trực quan như sau:
- Giáo viên giới thiệu phương tiện trực quan (tên phương tiện, cấu tạo/ phương
pháp thể hiện các hiện tượng, sự vật...)
- Giáo viên nêu yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần khai thác, cần có được từ
phương tiện trực quan đó.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng và khai thác kiến thức từ
phương tiện trực quan thông qua các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề.
- Học sinh quan sát, nhận xét, rút ra kết luận về hiện tượng, sự vật qua phương
tiện trực quan đã quan sát (tùy điều kiện, có thể làm việc cá nhân hoặc
nhóm)
- Giáo viên tổng hợp và chốt kiến thức, kỹ năng cần thiết.
2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của nhóm phương pháp dạy học trực quan.
Các phương pháp dạy học trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho
các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức.
Chức năng đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự
kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để
khẳng định những kết luận có tính suy diễn và cịn là phương tiện tạo nên những

4


tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phuơng pháp dạy học trực quan góp
phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh.
Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia
của nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu,
làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tị mị khoa học của họ.
Tuy vậy, nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện
nhận thức mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập
trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm chí cịn làm hạn chế sự phát triển năng
lực tư duy trừu tượng của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Theo quan niệm giáo dục trước đây dụng cụ trực quan là phương tiện đề
giáo viên truyền thị kiến thức mới, minh họa cho kiến thức đã truyền đạt, cịn với
học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ. Theo quan niệm này thì đồ dùng
trực quan chưa phát huy được hết vai trị của mình.
Trong những năm gần đây, bộ mơn cơng nghệ đã được quan tâm hơn trước.
Có phịng học bộ môn, cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo cho
mơn học.
Tuy nhiên vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn trong đó khó khăn nhất là việc
dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng
trực quan, tuy đã triển khai nhưng hiệu quả đạt được không cao. Vấn đề này được
giải thích ở một số nguyên nhân sau đây:
Trước tiên là do quan niệm cho rằng môn công nghệ là môn học phụ, nên
việc quan tâm tới môn này không cao. Thời gian đầu tư cho việc dạy và học cịn ít,
tâm lí khơng thấy quan trọng nên chỉ học mang tính chất đối phó.
Thứ hai là do cơ sở vật chất tuy đã có đầu tư nhưng vẫn cịn thiếu so với u
cầu giáo dục. Ít khi các em được tham quan thực tế, như nhà xưởng, các chi tiết
máy móc thiết bị nên kiến thức tiếp nhận của các em chủ yếu là qua sách vở.

Thứ ba là ở một số trường chưa có giáo viên đúng chuyên ngành giảng dạy,
một số giáo viên dạy Vật lí kết hợp cả cơng nghệ, tuy nhiên sẽ có phần hạn chế.
5


Thứ tư do mơn Cơng nghệ chưa tổ chức kì thi các cấp nên việc để phát huy
tính tích cực của người học gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, có tổ chức
cuộc thi khoa học kỹ thuật cho nhiều ngành, lĩnh vực tuy nhiên cịn khó với học
sinh, các đề tài cịn có sự tham gia của giáo viên nhiều.
Thứ năm là do ý thức, trách nhiệm của mỗi giáo viên, khi họ có chun mơn
vững, u nghề, có phương pháp giảng dạy tốt, ln biết làm mới bài giảng của
mình thì học sinh trên lớp sẽ hào hứng, thú vị với môn học. Và đồ dùng trực quan
là một công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy học đó.
Thực trạng sử dụng đồ dùng trực quan đối với dạy học trước đây.
2.3. Sử dụng phương pháp trực quan vào việc dạy bài: Động cơ đốt trong
dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng phương pháp trực quan.
- Lựa chọn thận trọng các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy
học sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học.
- Giải thích rõ mục đích trình bày những phương tiện trực quan, phương tiện
kỹ thuật dạy học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng.
- Các phương tiện đó cần chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, cần giải thích rõ ràng
những hiện tượng, diễn biến quá trình và kết quả của chúng, hướng dẫn học sinh
quan sát để phát hiện nhanh những dấu hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Cần chuẩn bị đủ hoặc thừa số lượng phương tiện trực quan, phương tiện kỹ
thuật dạy học phù hợp với nội dung của tiết học và số lượng học sinh. Không lạm
dụng quá nhiều phương tiện gây sự phân tán trong quá trình học của học sinh.
- Để học sinh quan sát có hiệu quả cần xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm
vụ quan sát, hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được. Từ đó
học sinh có thể rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái qt và biểu đạt những

kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác.
- Bảo đảm cho tất cả học sinh quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ,
nếu có thể thì phân phát các vật thật cho họ. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát
cần dùng các thiết bị có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh
sáng, tới những quy luật cảm giác, tri giác.
6


- Chỉ sử dụng những phương tiện dạy học khi cần thiết. Sau khi sử dụng
xong nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của học sinh.
- Đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của học sinh.
- Đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và
phương tiện kỹ thuật dạy học. Có bốn hình thức phối hợp như sau:
+ Hình thức thứ nhất: Dưới sự chỉ đạo bằng lời của giáo viên, học sinh quan
sát trực tiếp các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, chính họ rút ra những thuộc tính,
những mối quan hệ của chúng, những kết luận khơng cần suy luận.
+ Hình thức thứ hai: Trên cơ sở quan sát các đối tượng và dựa vào tri thức
đã học của học sinh, giáo viên dẫn dắt họ biện luận, nêu ra các mối liên hệ giữa
những hiện tượng bằng các biện pháp quy nạp, từ đó rút ra kết luận.
+ Hình thức phối hợp thứ ba là biện pháp minh hoạ đối với những hiện
tượng đơn giản. Bằng lời nói giáo viên thơng báo trước những hiện tượng, sự kiện,
kết luận rồi sau đó trình bày phương tiện trực quan nhằm minh hoạ điều đã trình
bày. Hình thức này ngược với trường hợp thứ nhất.
+ Hình thức thứ tư là hình thức có tính chất suy diễn. Với nội dung phải
nghiên cứu phức tạp thì giáo viên bằng lời nói mơ tả diễn biến của hiện tượng, kích
thích học sinh tái hiện những tri thức đã học có liên quan đến hiện tượng để giải
thích hiện tượng đó. Tiếp đó, giáo viên trình bày phương tiện trực quan để minh
hoạ nhằm khẳng định những điều đã trình bày của mình. Hình thức phối hợp này
ngược với hình thức thứ hai.
Hai hình thức phối hợp đầu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động nhận

thức tích cực hơn hai hình thức phối hợp sau. Song phải căn cứ vào tính chất nội
dung, trình độ tri thức và trình độ phát triển của học sinh mà lựa chọn hình thức
nào cho thích hợp.
Việc soạn giáo án là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của giờ
dạy và có tính chất bắt buộc đối với mọi giáo viên trước lúc thực hiện giờ lên lớp.
Đó là điều hiển nhiên mà ai cũng biết thế nhưng vấn đề này vẫn đang còn phải trao
đổi thêm. Hiện nay trên trang giáo án điện tử của mạng Internet của tất cả các môn
học đều có các giáo án sẵn và thế là một bộ phận giáo viên đã tải về sử dụng,
không dành nhiều thời gian nghiên cứu, không trăn trở nhiều cho việc chuẩn bị
phương án giảng dạy vì thế hiệu quả của giờ dạy còn nhiều hạn chế. Mặc dù
7


chúng ta có trình độ Đại học nhưng điều đó khơng có nghĩa là việc hiểu và giảng
dạy chương trình phổ thông là một việc quá dễ dàng. Chúng ta đã từng chứng kiến
có những giáo viên gần về hưu nhưng một số điều trình bày trong sách giáo khoa
hiểu vẫn khôngthấu đáo. Dù sự giao lưu trao đổi giáo án giữa những người làm
công tác giảng dạy hiện nay rất thuận lợi thì việc mỗi người tự mình trăn trở xây
dựng phương án giảng dạy cho riêng mình là điều cực kì quan trọng khơng ai thay
thế được. Tuy nhiên để có một giáo án có chất lượng cũng không phải là điều dễ
dàng.Sau đây tôi xin được trao đổi thêm về vấn đề này.Tiến trình của việc soạn
giáo ánđược thực hiện theo các bước sau:
- Bước 1: đọc kĩ sách giáo khoa, tóm tắt cuối bài, câu hỏi và bài tập mà sách giáo
khoa đưa ra: Tóm tắt chính là những kiến thức cốt lõi, câu hỏi và bài tập là những
yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của bài cần đạt được.
- Bước 2: xác định mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài: Có
người cho rằng, các kiến thức có trong bài cứ khai thác cho hết, thế là đạt mục tiêu
bài học. Đó chỉ là quan niệm có tính chất đơn giản. Thực tế đây là điều rất quan
trọng quyết định hướng đi của tiết dạy. Nếu xác định đúng bài giảng sẽ trở nên
ngắn gọn, tinh giản, vững chắc, đạt được mục tiêu, nếu xác định không đúng bài

giảng sẽ trở nên ôm đồm, dàn trãi, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc
hoạ không rõ nét, phân bố hợp lý, mất nhiều thời gian vào các kiến thức khơng
trọng tâm, khơng hồn thành được khối lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt
được mục tiêu bài học. Vậy làm thế nào để xác định đúng mục tiêu, kiến thức
trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài. Điều nàyđòi hỏi phải đọc kĩ nội dung sách giáo
khoa và xác định vị trí của bài trong hệ thống kiến thức của chương, của giáo trình.
Trong đó tóm tắt sách giáo khoa, câu hỏi và bài tập cuối bài là gợi ý tốt về kiến
thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi mà học sinh phải nắm được sau khi học.
- Bước 3: Đọc tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng thời gian
không Sách giáo khoa viết rất cơ đọng và súc tích. Nếu khơng dành thời gian thích
đáng cho việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn
sơ, ít có sức thuyết phục và dễ mắc phải lỗi về mặt kiến thức, điều này thể hiện rõ
trong các trường hợp thầy giáo giảng giãi các kiến thức, vận dụng kiến thức vào
thực tế. Việc đọc các tài liệu tham khảo về nội dung liên quan đến bài giảng giúp
chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến thức, điều đó làm cho việc trình bày bài
giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác, sâu sắc.Tuy nhiên, trong giờ
giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của
bài, của cấp học. Có giáo viên để thể hiện bài giảng sâu bằng cách đưa vào bài
giảng quá nhiều ví dụ, nhiều kiến thức phức tạp, thậm chí dùng cả kiến thức đại
học. Điều đó chỉ làm cho bài giảng trở nên ơm đồm gây rối trí mất thời gian vơ ích
8


của học sinh và đương nhiên không đạt được mục tiêu của bài học. Bài giảng sâu
được thể hiện ở chỗ là người thầy làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, nắm được
bản chất của kiến thức và vận dụng được các kiến thức của bài học để trả lời các
tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra. Khi soạn bài phải lưu ý đến tính
thực tiễn, xác định xem những kiến thức nào của bài cần có những ví dụ minh hoạ
hoặc vận dụng để giải quyết các tình huống lý thuyết, tình huống thực tiễn và bài
tập đặt ra. Điều này vừa là yêu cầu của bài giảng vừa làm tăng tính sinh động của

giờ dạy. Tuy nhiên các dẫn chứng đưa ra chỉ cần vừa đủ, thật sự điển hình, tránh
đưa quá nhiều làm cho bài giảng ôm đồm, mất thời gian không cần thiết.
- Bước 4: Lựa chọn phương pháp giảng dạy.Phương pháp giảng dạy cần được vận
dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của bài. Dù dùng phương pháp nào đều
phải thể hiện được phương châm: lấy học sinh làm trung tâm, rèn luyện khả năng
tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Rèn luyện qua việc đọc thông tin, nghiên cứu
hình vẽ, đồ thị, biểu đồ, thí nghiệm trong sách giáo khoa từ đó rút ra các kết luận
cần thiết phục vụ nội dung bài dạy. Quan sát các hiện tượng trong tự nhiên và xã
hội để rút ra các kết luận về mặt kiến thức hoặc để giải thích nó. Những điều này
chính là điểm mới trong phương pháp dạy học hiện nay.
Trong quá trình soạn giáo án nên cố gắng tìm cách chuyển đổi nội dung bài
dạy thành các tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh khám phá kiến thức. Điều
này vừa là yêu cầu của phương pháp dạy học vừa làm tăng tính sinh động của giờ
dạy. Trong thực tiễn chúng ta thấy rằng, có những bài, những nội dung kiến thức
khó chuyển thành các tình huống có vấn đề, quả đúng như vậy. Tuy nhiên trong
trường hợp đó địi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm tịi,
cân nhắc sẽ giúp chúng ta thu được nhiều cơ hội thành cơng. Sự tâm huyết, làm
việc có trách nhiệm, kiên trì quán triệt tinh thần nêu trên chúng ta sẽ dần dần có
khả năng chuyển đổi các nội dung phức tạp thành các tình huống có vấn đề ngày
càng dễ dàng. Tuy nhiên các câu hỏi đặt ra phải hợp lý, có tính định hướng, có tác
dụng phát huy trí lực học sinh, tránh sử dụng các câu hỏi vụn vặt, q đơn giản ít
có ý nghĩa làm tốn thời gian và vơ ích.
- Khi soạn giáo án khơng q lệ thuộc vào cách trình bày trong sách giáo khoa:
Nói chung các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên
ở một số bài có thể được trình bày theo cấu trúc khác tùy vào phương án giảng dạy
của giáo viên, thể hiện ở các điểm như: sắp xếp lại trình tự các phần, thêm hoặc
bớt một số mục, một số kiến thức cần thiết. Nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể đưa ra
cách trình bày các kiến thức phức tạp trong sách giáo khoa một cách tương đối đơn
giảnlàm giảm bớt sự căng thẳng, nặng nề, khó khăn cho học sinh trong q trình
tiếp thu kiến thức. Giờ giảng phải thể hiện được các yêu cầu đã nêu trong giáo án,

9


sinh động, phân bố thời gian hợp lý, đảm bảo tinh giản vững chắc, phát huy được
tính tích cực của học sinh
- Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: Việc tạo cho giờ dạy có tính
sinh động có ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến cùng một bài
dạy được trình bày với cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự khác nhau
trong trạng thái tâm lí mà có lớp giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu hào
hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ
giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu
quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt,
đó là những bài giảng khơng có hồn. Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất
nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình
bày, lịng u nghề, tinh thần trách nhiệm đối với học sinh. Thầy giáo phải ln có
tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ dạy, có lịng bao dung, xử lí
một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống khơng bình thường mà
học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời giảng của thầy sẽ khơi
dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh.
- Phân bố thời gian hợp lý với yêu cầu từng phần, từng đơn vị kiến thức làm cho
bài giảng hài hòa cân đối.
- Tinh giản thể hiện ở chỗ: các nội dung kiến thức được trình bày ngắn gọn, vừa
đủ, khơng đưa vào các vấn đề phức tạp không cần thiết, không phù hợp với u
cầu bài dạy và trình độ học sinh. Các ví dụ và hình ảnh minh họa cho bài giảng
phải thật điển hình số lượng vừa đủ, nếu đưa vào quá nhiều giờ giảng sẽ trở nên
ôm đồm nặng nề, tốn phí thời gian khơng cần thiết, đồng thời hạn chế thời gian
diễn giải kiến thức. Có giáo viên tưởng rằng đưa được nhiều tranh ảnh, ví dụ sẽ
làm cho sự thành công của bài giảng tăng lên. Thật là nhầm lẫn, giờ dạy tinh giản
còn thể hiện ở chỗ là dành nhiều thời gian cho kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt
lõi cịn kiến thức khơng phải trọng tâm khơng cần dành nhiều thời gian để giảng

giải, khai thác,thậm chí có thể cho học sinh tự học, tự đọc. Lưu ý rằng có nhiều
kiến thức bài dạy khơng phải trọng tâm lại dễ trình bày, dễ nêu vấn đề, có nhiều ví
dụ và hình ảnh minh họa đã làm cho một số giáo viên tập trung nhiều thời gian vào
đó làm cho nội dung trọng tâm phân bổ ít thời gian vì thế khắc họa một cách mờ
nhạt hoặc khơng hoàn thành bài giảng. Kết thúc giờ dạy thầy giáo và học sinh phải
có cảm giác thoải mái, nhẹ nhõm mới thực sự thành công. Nếu thầy giáo và học
sinh phải làm việc cật lực, vội vã thì dù những điều thầy trình bày được chuẩn bị
rất cơng phu thì hiệu quả giờ dạy vẫn thấp.

10


- Vững chắc thể hiện: dạy đủ, đúng, sâu các kiến thức trọng tâm, học sinh hiểu và
vận dụng được các kiến thức giải quyết được các tình huống lý thuyết, bài tập và
thực tiễn đặt ra
- Trình bày bảng hợp lý: đảm bảo hài hoà giữa trả lời của học sinh với lời giảng và
việc ghi bảng của thầy. Điều này tưởng như đơn giản nhưng thực tế không ít giáo
viên thực hiện không thành công. Lỗi thường mắc phải trong trường hợp này là:
thầy giáo nêu câu hỏi, học sinh trả lời, thầy giảng giải, phân tích xong và cuối cùng
là ghi bảng. Cung cách này tạo ra sự khập khểnh, khơng hài hồ, khơng ăn khớp
giữa hoạt động của thầy và trò, tốn thời gian và làm cho giờ giảng giảm bớt tính
sinh động.
Sau khi tiến hành giờ dạy cần rút kinh nghiệm bổ sung bên cạnh giáo án để
các giờ dạy sau kế thừa được ưu điểm và tránh được các nhược điểm của giờ dạy
mình đã trãi qua. Nói chung nếu để tâm, sau một giờ dạy chúng ta đều nhận ra
được những điểm thành công và chưa thành công. Tuy nhiên do nhiều lý do mà
chúng ta không ghi lại, qua thời gian dần dần quên đi, năm sau khi trở lại các tiết
đó lại phải làm từ đầu, những nhược điểm của năm trước chúng ta tiếp tục mắc
phải, chất lượng giờ dạy của năm sau so với năm trước không khác nhau bao
nhiêu. Qua thời gian trình độ chun mơn nghiệp vụ sẽ không thay đổi là mấy.

Rút kinh nghiệm cần lưu ý các điểm sau:
- Phân bố thời gian ở các phần.
- Tính hợp lý của hệ thống câu hỏi dẫn dắt.
- Tính rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác trong những lời diễn giảng của thầy.Sự tinh giản và vững chắc của giờ dạy.
- Sự hợp lý, hài hòa giữa câu hỏi của thầy, trả lời của học sinh, lời giảng và ghi
bảng của thầy.
- Khả năng hiểu bài của học sinh và tính sinh động của giờ dạy. Từng nội dung đó
phải chỉ ra được ưu, nhược điểm. Đặc biệt là nhược điểm phải đưa ra phương án
khắc phục. Là những người trực tiếp làm công tác giảng dạy, chúng ta biết rằng, để
có một giờ dạy tốt quả khơng dễ chút nào. Dù là người có năng lực giỏi, tận tụy và
tâm huyết với nghề nghiệp vẫn khơng dám nói rằng, tất cả các giờ dạy đều thành
cơng. Tuy nhiên với lịng u nghề, tinh thần trách nhiệm, làm việc có phương
pháp, ln có chí tiến thủ chúng ta sẽ ngày càng có nhiều giờ dạy có hiệu quả cao.
Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là một nguyên lí dạy học
được đặt ra từ rất lâu vì tính ưu việt của nó. Việc chuyển đổi nội dung kiến thức
11


bài học thành một hệ thống các tình huống có vấn đề đã khơi dậy sự tị mị tìm
hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới
sự hướng dẫn của thầy giáo, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự
trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất
nhiều..Việc dạy học theo phương pháp nêu vấn đề mặc dù là yêu cầu bức thiết
được đặt ra từ rất lâu song đến nay vẫn có tính chất thời sự và là một câu chuyện
dài. Bởi vì để thực hiện nó hiệu quả khơng phải đơn giản mà liên quan đến nhiều
yếu tố: tâm huyết người thầy, ý thức học tập của học trò, sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo, đời sống của người thầy....Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực
kì quan trọng trong việc làm cho bài giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề
từ đó phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Để xây dựng được một hệ
thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian, cơng sức

nghiên cứu, tìm tịi, cân chỉnh, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể hiện ở các
giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác. Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn
tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học sinh. Điều quan trọng nhất là đưa ra được
các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng thiết thực tạo được các tình
huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiếnhức. Có bài hầu như
chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy nhiên nếu chịu khó tìm tịi, cân nhắc
chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi tạo tình huống có vấn đề làm
tăng hiệu quả giờ dạy. Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến về những câu hỏi nên
và không nên sử dụng
- Câu hỏi có tác dụng phát huy trí lực học sinh, địi hỏi phải có sự động não mới
làm sáng tỏ được những điều mà giáo viên đặt ra.
- Câu hỏi dựa trên nền kiến thức cũ tạo cho học sinh kết nối, kế thừa giữa vốn kiến
thức cũ với việc tìm hiểu kiến thức mới.
- Câu hỏi có tính định hướng làm học sinh hiểu rõ, hiểu đúng yêu cầu thầy giáo đặt
ra.
- Cần thiết có hệ thống gợi ý, dẫn dắt để học sinh trả lời các ý, từ đó hồn chỉnh
vấn đề cần trả lời.
Câu hỏi là phương tiện cần thiết cho việc dạy theo phương pháp nêu vấn đề.
Tuy nhiên thực tế cho thấy để đưa ra được các câu hỏi đạt yêu cầu quả khơng phải
dễ dàng. Có khơng ít câu hỏi sử dụng đã tạo ra tác dụng ngược lại làm cho giờ dạy
nhạt nhẽo, lũng cũng, tốn phí thời gian, tạo dấu ấn rất mờ nhạt, khơng có giá trị
phát huy tính tích cực của học sinh. Xin nêu ra đây một số ví dụ: Câu hỏi khơng
dựa trên nền kiến thức cũ làm học sinh lúng túng và thường phản ứng bằng cách
đốn mị hoặc đọc sách giáo khoa tìm câu trả lời. Câu hỏi khơng định hướng khó
12


xác định hoặc xác định sai yêu cầu, điều này làm học sinh rối trí, mất nhiều thời
gian đồng thời khơng hồn thành được u cầu thầy giáo đặt ra. Dạng câu hỏi này
thực tế dẫn tới người giải quyết vấn đề lại chính là thầy giáo. Đưa ra quá nhiều câu

hỏi trong một bài học: làm cho bài giảng nát vụn ra, mất tính hệ thống, giờ giảng bị
căng, học sinh mệt mỏi, tốn nhiều thời gian, các kiến thức cốt lõi ít được giảng giải
phân tích. Các câu hỏi q đơn giản khơng có giá trị phát huy trí lực học sinh, các
câu hỏi vụn vặt với những trả lời như: có, khơng, đúng ạ... loại câu hỏi này đưa ra
vừa làm mất thời gian vừa làm cho giờ dạy đơn điệu nhạt nhẽo.
Một trong những đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay đó là rèn
luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Sách giáo khoa trở thành một
phương tiện dùng cho mục đích này và sử dụng trong các trường hợp sau: Nghiên
cứu SGK để rút ra các kết luận về mặt lí thuyết hoặc so sánh các kiến thức các nội
dung liên quan. Từ vốn kiến thức SGK để giải thích các tình huống lí thuyết hoặc
thực tiễn đặt ra (ví dụ trả lời các lệnh trong SGK). Từ các hình ảnh, biểu đồ học
sinh phân tích so sánh và rút ra các kết luận cần thiết theo yêu cầu của bài học.
Hình ảnh, biểu đồ được sử dụng minh họa giúp học sinh hiểu thêm những điều mà
thầy giáo trình bày. Một số nội dung được nêu trong sách giáo khoa không phải là
kiến thức cốt lõi và đơn giản học sinh có thể tự đọc để hiểu. Hiện trạng đáng lưu ý
hiện nay đó là một bộ phận giáo viên lạm dụng SGK trong quá trình giảng dạy
thể hiện câu hỏi đưa ra mà nội dung trả lời có sẵn trong SGK, học sinh không cần
phải động não, không cần ghi nhớ, chỉ cần đọc đúng là trả lời được vấn đề mà thầy
giáo nêu lên. Giáo viên phát phiếu học tập, câu hỏi nêu lên trong phiếu học sinh
chỉ cần dựa vào sách giáo khoa chép lại nguyên xi là đạt yêu cầu. Việc sử dụng
SGK theo cung cách nêu trên sẽ dần dần hình thành tật xấu cho học sinh đó là cứ
mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi học sinh không động não, không tư duy mà nhanh
chóng nhìn vào SGK để tìm câu trả lời. Với cách làm này giờ dạy diễn ra có vẻ trơi
chảy nhẹ nhàng và hình như một bộ phận đáng kể giáo viên và nhiều em học sinh
cũng thích cung cách này vì việc học tập diễn ra thật dễ dàng khỏe khoắn, thầy
giáo thậm chí khơng cần đọc sách giáo khoa và soạn bài trước mà đến lớp cùng
học trị đọc ln thể. Tuy nhiên hiệu quả giờ dạy rất thấp, dấu ấn các kiến thức
được khắc họa trong trí não học sinh rất mờ nhạt, khơng đạt được các yêu cầu và
mục tiêu của việc dạy học. Các câu hỏi mà giáo viên đưa ra không những khơng
phát huy tính tích cực mà trái lại làm cho học sinh có thói quen trơng chờ ỷ lại, ít

cố gắng, lười biếng. Người thầy cũng thấy việc dạy học thật nhẹ nhàng, không mất
nhiều công sức cho việc soạn bài, khơng cần phải nghiên cứu học hỏi gì nhiều và
cảm thấy rồi mọi việc cũng ổn. Thật là tai hại, thời gian cứ trơi đi cịn người thầy
“sống lâu mà không lên được lão làng”
13


2.3.2. Áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào bài: Động cơ đốt trong
dùng cho xe máy – Công nghệ 11.
a. Các đồ dùng dạy học trực quan sử dụng trong bài dạy.
- Hình ảnh về lịch sử động cơ đốt trong trên xe máy.
- Hình ảnh về động cơ trên xe, hình ảnh về xe máy đời đầu và hiện tại của
các hãng xe.
- Hình ảnh về một số xe 2 kỳ, xe 4 kỳ, số xi lanh trên xe.
- Hình ảnh về dung dịch làm mát cho động cơ trên xe máy
- Hình ảnh về cách phân bố trí động cơ trên xe.
- Hình ảnh về xích, dây curoa trên xe.
- Video mô phỏng và video cận cảnh về hoạt động hộp số trên xe tay ga.
- Video hoạt động của động cơ trên xe honda.
- Sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe máy và sơ đồ khối về hệ thống truyền lực
trên xe.
b. Phương pháp dạy học trực quan sử dụng trong bài: Động cơ đốt trong dùng
cho xe máy – Công nghệ 11.
I. MỤC TIÊU
Sau bài học học sinh đạt được:
1. Kiến thức
- Đặc điểm và cách bố trí của ĐCĐT dùng cho xe máy.
- Đặc điểm hệ thống truyền lực dùng trên xe máy.
2. Kỹ năng
- Nhận biết được vị trí các bộ phận của ĐCĐT dùng cho xe máy.

3. Thái độ
- Yêu thích mơn học, linh hoạt, ham tìm hiểu.
- Ý thức bảo vệ môi trường.
4. Định hướng phát triển năng lực:
- Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng đồ dùng trực
quan.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
14


1. Chuẩn bị của giáo viên
- Thiết bị dạy học: Giáo án, thước dài, tranh ảnh, video, một số chi tiết động cơ
trên xe máy
- Học liệu:
+ Sách giáo khoa Công nghệ 11 - Nhà xuất bản giáo dục.
+ Sách giáo viên Công nghệ 11 – Nhà xuất bản giáo dục.
+ Giáo trình động cơ đốt trong – Trường Đại học Công nghiệp TPHCM.
2.Chuẩn bị của học sinh
- Chuẩn bị về kiến thức: . Đọc trước bài mới.
- Chuẩn bị tài liệu học tập, thí nghiệm thực hành, dụng cụ học tập: SGK, vở ghi,
bút, thước.
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
1. Ổn định tổ chức (1’) Kiểm tra sĩ số, nhắc nhở học sinh
- Sĩ số....................... vắng............
2. Kiểm tra bài cũ (5 phút)
Câu hỏi: Nêu nhiệm vụ truyền lực các đăng, truyền lực chính và bộ vi sai của ơtơ?
- HS:………………………………………………………………………..
3. Tiến trình bài học
a. Mở đầu bài dạy:
Lịch sử ra đời của xe máy phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu, qua

nhiều thời gian đã cải tiến về mẫu mã, công suất, vận tốc của xe. Vậy động
cơ đốt trong được ứng dụng như thế nào trên xe máy, chúng ta cùng tìm hiểu
bài 34.
b. Bài dạy:
HOẠT ĐỘNG 1
Tìm hiểu đặc điểm của động cơ đốt trong dùng cho xe máy (10 phút)
(1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trực quan, thuyết trình + Vấn đáp.
(2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp
Nội dung

Hoạt động của giáo viên và
15


I. Đặc điểm và cách bơ trí động cơ đốt trong
dùng cho xe máy.

học sinh
- Giáo viên: giới thiệu về hình
ảnh động cơ trên xe máy, hình

1. Đặc điểm của động cơ đốt trong dùng cho ảnh về xe máy đời đầu và hiện
xe máy.

tại của các hãng xe. Hình ảnh về

- Là Đc xăng 2 kì và 4 kì cao tốc.

một số xe 2 kỳ, xe 4 kỳ.


- Có công xuất nhỏ

- Giáo viên: yêu cầu học sinh

- Li hợp, hộp số bố trí trong một vỏ chung

quan sát hình để tìm hiểu trả lời

- Thường làm mát bằng khơng khí

câu hỏi:

- Số lượng xilanh ít.

- Động cơ lắp trên xe máy là
động cơ gì?
- Đơng cơ đốt trong dùng cho
xe máy thường là loại mấy kì ?
Vì sao lại sử dụng loại đó?
- Đơng cơ đốt trong dùng cho
xe máy thường làm mát bằng
gì?vì sao?
- Giáo viên nêu các loại xe làm
mát bằng nước hiện nay.
- Giáo viên giới thiệu hình ảnh
về số xi lanh trên xe và hỏi học
sinh: Số lượng xilanh?
- Hệ thống truyền lực bố trí như
thế nào?
Giáo viên: Kết luận.

HOẠT ĐỘNG 2

Tìm hiểu về các cách bố trí động cơ trên xe máy (10 phút)
(1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Thuyết trình + Vấn đáp + Trực quan
(2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp
16


Nội dung

Hoạt động của giáo viên và học sinh
- Liên hệ thực tế em hãy cho biết động

2. Bố trí động cơ trên xe máy

cơ xe máy thường được đặt ở đâu?

a. Động cơ đặt ở giữa xe

- Giáo viên giới thiệu hình ảnh về

- Ưu điểm: + Phân bố đều khối lượng trên xe.

phân bố động cơ trên xe.

+ ĐC được làm mát tốt.

Giáo viên kết luận:

- Nhược điểm: +Truyền moomen từ động cơ Học sinh ghi kết luận.

đến bánh sau xa nên hệ thống truyền lực phức - Phát phiếu học tập cho hs tìm hiểu
sau đó lên trình bày.

tạp.

+ Nhiệt thải từ động cơ ảnh hưởng đến người - Nhóm trình bày, các nhóm cịn lại
lái.

suy nghĩ đặt câu hỏi. Câu trả lời

b. Động cơ đặt lệch về phía đi xe

đúng, câu hỏi hay các nhóm đều được

Ưu nhược điểm ngược lại so vơi các bố trí cộng thêm điểm.
động cơ ở giữa xe.
- Nhận xét, đánh giá.
HOẠT ĐỘNG 3
Tìm hiểu đặc điểm của hệ thống truyền lực (10 phút)
(1) Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trực quan, thuyết trình + Vấn đáp.
(2) Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp
Hoạt động của giáo viên và học

Nội dung

sinh
II. Đặc điểm của hệ thống truyền lực trên xe - Giáo viên giới thiệu hình ảnh về
máy

sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe


1. Sơ đồ hệ thống truyền lực trên xe máy

máy, video hoạt động của động cơ
trên xe.

Động


Li hợp

Hộp số

Xích hoặc các đăng

Sơ đồ khối hệ thống truyền lực trên xe máy

Bánh xe

- Yêu cầu học sinh quan sát sơ đồ
và video hoạt động của hệ thống
truyền lực trên xe máy.
17


2. Đặc điểm hệ thống truyền lực trên xe máy

- Yêu cầu học sinh đọc SGK nội

- Động cơ, li hợp, hộp số bố trí trong một vỏ dung đặc điểm của hệ thống

chung.

truyền lực, trả lời nhanh các câu

- Li hợp được điều khiển bằng tay hoặc tự động.

hỏi trắc nghiệm (Gấp SGK)

- Có hộp số cơ khí và hộp số tự động, có 3,4,5 cấp - Học sinh thảo luận trả lời phiếu.
tốc độ, khơng có số lùi, thay đổi được lực kéo và - Giáo viên nhận xét các phiếu trả
tốc độ của xe.

lời, đưa ra kết luận.

- Động cơ đặt giữa xe truyền lực đến bánh sau

- Giáo viên tổng hợp đưa ra các

bằng xích.

đặc điểm trên hệ thống truyền lực

- Động cơ đặt lệch về phía đi xe truyền lực đến trên xe máy.
bánh sau bằng trục các đăng hoặc dây curoa.
HOẠT ĐỘNG 4
Phiếu học tập (5 phút)
Câu hỏi: Chọn đáp án đúng.

Đáp án


Câu 1. Động cơ đốt trong dùng cho xe
Câu 1:...........
máy là:
a.Động cơ 2 kì
b.Động cơ 4 kì
Câu 2:...........
c.Động cơ 5 kì
d.Cả a và b
Câu 3:...........
Câu 2. Động cơ trên xe máy thường
Câu 4:...........
làm mát bằng gì?
a.Bằng nước b.Bằng khơng khí và nước Câu 5:..........
c.Bằng khơng khí

d.bằng hơi nước

Câu 3. Có mấy cách bố trí động cơ
trên xe máy?
a. 1 cách
b. 2 cách
c. 3 cách

d. 4 cách

Câu 4. Động cơ đặt ở giữa xe truyền
lực đến bánh sau xe là:
a. Xích và các đăng
b. Xích
c. Các đăng


d. Đai

Câu 5. Li hợp, hộp số được bố trí như
thế nào?
18


a.Một vỏ chung

b.Riêng biệt

c.Cả a và b

d.Cùng một nơi

IV. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Tổng kết (2 phút)
- Tóm lược lại nội dung học tập.
- Nhận xét ý thức giờ học.
2. Hướng dẫn học tập (2 phút)
- Học bài cũ.
-

Xem trước nội dung tiếp theo của bài 36 (SGK – Trang 149, 152).

2.4. Những kết quả ban đầu
* Như vậy sau khi sử dụng phương pháp trực quan vào dạy bài: Động cơ đốt
trong dùng cho xe máy tôi nhận thấy:
- Bài dạy đảm bảo được ba yêu cầu cần đạt: Kiến thức, Kĩ năng, Thái độ.

- Bài giảng hay hơn, có sức thuyết phục hơn, gây được hứng thú học tập cho học
sinh.
- Học sinh chủ động tìm tịi, sáng tạo hơn, làm việc nhiều hơn, tránh việc thụ động
tiếp nhận kiến thức.
- Học sinh thấy thích thú hơn khi học bộ môn và ham muốn thể hiện hiểu biết của
mình về những vấn đề giáo viên đưa ngồi nội dung trong sách.
- Các em có thêm hiểu biết về kiến thức của các phương tiện giao thơng.
- Qua bài dạy có thể hướng nghiệp cho học sinh, sau khi tốt nghiệp học nghề sửa
chữa xe máy để làm ở các cửa hàng hoặc tự mở cửa hàng.

19


Trước khi áp dụng sáng kiến ở các lớp 11A1, 112, 11A3
Lớp
11A1
11A2
11A3

Đánh giá xếp loại
Giỏi
Khá
T.bình
3 hs (7,1%) 20 hs (47,6%) 19 hs (45,3%)
2 hs(6,3%) 16 hs (50,0%) 14 hs(43,7%)
3 hs (8,1%) 18 hs (48,6%)
16 hs (43,3)

Yếu
0

0
0

Kém
0
0
0

Sau khi áp dụng sáng kiến ở các lớp 11A1, 112, 11A3
Lớp
11A1
11A2
11A3

Giỏi
9 hs (21,4%)
6 hs(18,8%)
8 hs(21,6%)

Đánh giá xếp loại
Khá
T.bình
30 hs (71,4%) 3 hs (7,2%)
22 hs (68,8%)
4 hs (12,4%)
25 hs (67.6%)
4 hs (10.8%)

Yếu
0

0
0

Kém
0
0
0

Kết quả trên cho thấy với các lớp sử dụng phương pháp dạy học trực quan
các em dễ dàng tiếp nhận bài học tốt hơn, ghi nhớ bái tốt hơn.
III. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Để có bài dạy hay có sức lơi cuốn và tạo được sự thú vị cho học sinh thì bài
dạy đó khơng thể thiếu phương pháp trực quan. Đồ dùng trực quan không chỉ cho
các em dễ dàng tiếp nhận kiến thức mà còn giúp các em nhớ lâu hơn về một vấn
đề.
- Ngoài ra để gây hứng thú cho người học thì giáo viên cần bổ sung mở rộng thêm
về các kiến thức bên ngoài sách giáo khoa, những kiến thức mới (Công nghệ luôn
luôn được đổi mới) để phù hợp với thực tế. Chẳng hạn như ở sách giáo khoa có
viết xe máy có số lượng xilanh ít (1 hoặc 2 xilanh) nhưng thực tế bây giờ đã có
những xe có 3 hay 4 xilanh. Động cơ thường làm mát bằng khơng khí nhưng hiện
nay một số xe tay ga làm mát bằng dung dịch bao gồm nước và một số chất phụ
gia khác. Hay về ưu nhược điểm của cách phân bố động cơ đặt ở giữa xe và lệch
về phía đi xe. Hộp số trên xe máy khơng chỉ có 3,4 cấp tốc độ mà đã có xe 5 cấp

20


tốc độ và chuẩn bị tháng 7 này ra đời xe 6 cấp tốc độ. Việc xe sử dụng dây curoa
thay cho trục cacđăng với các xe tay ga....

- Thêm vào đó là các phương pháp dạy học tích cực khác như các em tự làm việc
với tài liệu, làm việc cá nhân sau đó thảo luận nhóm. Các em được lên bảng thuyết
trình, được khuyến khích đặt câu hỏi, cộng điểm giữa các cá nhân, các nhóm dẫn
đến sự tranh đua có động lực hơn khi tìm hiểu bài. Giờ học luôn sôi nổi, các em
được hoạt động liên tục nên tránh được sự nhàm chán.
3.2. Kiến nghị.
Tuy nhiên để cho sáng kiến áp dụng một cách có hiệu quả, tôi xin đưa ra một
số kiến nghị như sau:
Sử dụng phương pháp trực quan gắn liền với việc áp dụng công nghệ thông
tin, mà hiện nay chủ yếu ở các trường chỉ có một số phịng học có máy chiếu nên
việc di chuyển lớp học, đóng mở cửa phịng mất nhiều thời gian nên cả giáo viên
và học sinh đôi khi ngại di chuyển. Manh dạn đề nghị các trường trang bị các
phịng học đều có máy chiếu để dễ dàng áp dụng công nghệ thông tin trong bài
dạy.
Để áp dụng các phương pháp dạy học tích cực thì số lượng học sinh trên lớp
phải vừa phải, không đông quá thì mới đem lại hiệu quả tốt hơn.
Xác nhận của đơn vị

21


Tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành TƯ Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết lần thứ tám BCH TƯ
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày 4/11/2013.
2. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát triển tính tích cực, tính tự lực của HS trong
q trình dạy học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Lê Văn Hồng (1995), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Tài liệu dùng
cho các trường ĐHSP, CĐSP, Hà Nội.

4. Giáo trình sửa chữa xe máy – Phần thực hành 3
5. Sách nghề sửa chữa xe máy – Phần 2
6. Sách Kỹ thuật tháo lắp và sửa chữa xe máy – Phần 2

22


PHỤ LỤC
Một số động cơ xe máy hai xilanh trở lên
Động cơ 6 xilanh thẳng hàng của BMW K1600.

Động cơ honda CB 750 4 xilanh.

23


Xe honda CB1300 4 xilanh.

Xe Steeler 170 2 xilanh chữ V.

24


Một số loại xe 2 kì

1.Xe minsk (min khờ).

2.Xe xuzuki RGV.

25



×