Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Đề cương ôn tập kỹ năng nghề luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100 KB, 10 trang )

Câu hỏi: Pháp luật hiện hành quy định về quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền sống, quyền được bảo
đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe như thế nào?
Mọi công dân đều được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Theo đó, Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về
nguyên tắc bảo vệ nhóm quyền này của cơng dân như sau:
+ Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
+ Cá nhân có quyền u cầu Tịa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con
thành niên; trường hợp khơng có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác.
Đồng thời, mọi cơng dân đều có quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Vấn đề này được
pháp luật ghi nhận tại Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó:
+ Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Khơng
ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
+ Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
+ Việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên
cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được
sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện.
Trường hợp người được thử nghiệm là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ
của người đó đồng ý; trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà khơng chờ được ý kiến của những
người nêu trên thì phải có quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Như vậy, cá nhân được quyền bảo vệ danh dự nhân phẩm, đây là quyền quan trọng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại
Điều 20: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm...”.
Không những thế, Ðiều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng
và được pháp luật bảo vệ.”
Quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là
những quyền cơ bản và vô cùng quan trọng của công dân. Để bảo vệ tốt hơn các quyền này, Bộ luật dân sự cũng đưa ra những
chế tài cụ thể để xử lý hành vi xâm phạm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Theo đó, các chế tài được
quy định cụ thể như sau:


+ Tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “Người nào có hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Theo Điều 592 Bộ luật dân sự
năm 2015: Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm
phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho
một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm khơng q mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
+ Điều 591 Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân
thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu khơng có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã


trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn
thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm
không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Như vậy khi nhận thấy danh dự nhân phẩm của mình bị xâm phạm cá nhân có quyền khởi kiện dân sự có kèm nghĩa vụ chứng
minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đồng thời yêu cầu người gây ra thiệt hại phải bồi thường.
Tùy theo mức độ, hành vi của người có hành vi xâm phạm quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe,
thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại các điều sau:
+ Xử phạt hành chính: Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì người nào có cử
chỉ, lời nói thơ bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
+ Trách nhiệm hình sự:
Người xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 155 về Tội làm nhục
người khác hoặc Điều 156 Tội vu khống người khác tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Ngoài các tội phạm nêu trên, người xâm phạm quyền nhân thân có thể phạm các tội: Giết người, Cố ý gây thương tích, Vơ ý
làm chết người, Hiếp dâm...
Để tìm hiểu rõ hơn, vui lịng tham khảo những bài viết liên quan:

- Tội làm nhục người khác
- Tội vu khống
- Tội cố ý gây thương tích
- Tội giết người
TRÁCH NHIỆM CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG HÀNH NGHỀ
Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội, Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư đã quy đỉnh rất rõ về trách nhiệm của luật sư (Điều 24) như sau:
Thứ nhất: Luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn Luật sư của khách hàng. Luật sư chỉ nhận vụ việc theo khả năng chuyên môn và
điều kiện cho phép. Chuyên môn và điều kiện là hai yếu tố quan trọng đánh giá chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư. Luật
sư phải từ chối nhận vụ việc khi không đủ nguồn lực và khả năng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng hoặc yêu cầu của
khách hàng trái với quy định của pháp luật, trái với đạo đức. Luật sư phải đem đến cho khách hàng ý kiến tư vấn khách quan
để họ tự lựa chọn luật sư.
Thứ hai: Khi nhận vụ, việc, luật sư thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư
trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý.
Thứ ba: Luật sư không chuyển giao vụ, việc mà mình đã nhận cho luật sư khác làm thay, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng.
Thứ tư: Luật sư phải có trách nhiệm bí mật thơng tin. Luật sư khơng được tiết lộ thơng tin về vụ, việc, về khách hàng mà
mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
Luật sư khơng được sử dụng thơng tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tổ chức hành nghề luật


sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của
mình.
Thứ năm: Trách nhiệm pháp lý của luật sư:
Trong Giáo trình đại cương về nhà nước và pháp luật, chủ biên GS, TSKH Đào Trí Úc và GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, khái
niệm trách nhiệm pháp lý được hiểu, được sử dụng theo hai nghĩa:
Theo nghĩa tích cực: Trách nhiệm pháp lý là bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của họ.
Theo nghĩa tiêu cực: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất và tinh thần hoặc tinh thần được áp dụng bởi

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Những hậu quả pháp lý bất lợi này là những
hình thức cưỡng chế pháp lý được quy định trong bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật tương ứng.
Diễn đạt một cách ngắn gọn hơn, trách nhiệm pháp lý là các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật được áp dụng
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Trách nhiệm pháp lý thể hiện
thái độ phản ứng của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật do các chủ thể cụ thể thực hiện, được thể hiện ở việc áp
dụng đối với các chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật, các biện pháp mang tính chất xử phạt hoặc khơi phục lại những quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
1. Trách nhiệm hình sự: Trong các loại trách nhiệm pháp lý nêu trên, trách nhiệm hình sự là nghiêm khắc nhất. Tịa án là cơ
quan có thẩm quyền áp dụng loại trách nhiệm này đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
2. Trách nhiệm dân sự: Luật sư phải chịu trách nhiệm dâu sự khi vi phạm pháp luật về dân sự biểu hiện bởi nếu luật sư không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Luật sư vi phạm pháp luật dân sự có thể phải bồi thường những thiệt
hại vật chất thực tế, trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, bao gồm
những tổn thương về mặt tinh thần hoặc thực hiện các hình thức như xin lỗi cơng khai, đính chính, cải chính thơng tin.
3. Trách nhiệm hành chính: Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực hành nghề luật sư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng khi luật sư vi phạm pháp luật hành chính trong q trình hành nghề. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 110/2013/NĐCP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hơn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, quy định các hình thức xử lý hành vi vi phạm quy định về hoạt
động hành nghề luật sư như: Phạt tiền, tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, biện
pháp khắc phục,…
4. Trách nhiệm kỷ luật: Luật sư phải thực hiện theo Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Nội quy Đoàn Luật sư, Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà luật sư bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình
thức sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đồn Luật sư từ 6 tháng đến 24 tháng;d) Xoá
tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư.
Như vậy, bên cạnh việc nâng cao kiến thức, nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho khách hàng thì luật sư cũng
phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm pháp luật, vi phạm các giao kết đã thỏa thuận với khách hàng và còn phải chịu
trách nhiệm kỷ luật theo Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp nơi luật sư xin gia nhập, tuân thủ quy tắc đạo đức ứng xử
nghề nghiệp luật sư.
LÀM LUẬT SƯ CŨNG PHẢI CÓ TRÁCH NHIỆM
Trách nhiệm ở đây được hiểu rộng bao gồm: Trách nhiệm với khách hàng; Trách nhiệm với xã hội; Trách nhiệm với nghề và
Trách nhiệm với bản thân.
Trách nhiệm với khách hàng: Điều này nên được ưu tiên hàng đầu. Bởi vì ngồi việc nhận thù lao thì Luật sư nên hiểu rằng

khi khách hàng tìm đến mình đó là sự tin tưởng và tín nhiệm. Để đáp lại sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện công việc
một cách trách nhiệm nhất.


Trách nhiệm với xã hội: Một phần nội dung được đề cập một phần ở trên. Trách nhiệm của Luật sư với xã hội bao gồm khái
niệm “lương tâm”. Luật Luật sư cũng quy định rõ trách nhiệm của Luật sư với xã hội, vấn đề này được thể hiện xuyên suốt
trong các quy định về Nguyên tắc hành nghề, Các hành vi bị nghiêm cấm…
Trách nhiệm với nghề Luật sư: Điều này được thể hiện trong Bộ Quy tắc ứng xử nghề Luật sư như các vấn đề về mối quan
hệ, tình đồng nghiệp… Ngồi ra, chúng ta cũng có thể thấy rằng việc mỗi Luật sư khi làm việc tốt thì cũng góp phần xây
dựng niềm tin vào nghề Luật sư của xã hội thêm vững chắc.
Trách nhiệm với bản thân: Một Luật sư khi thực hiện công việc, hoàn thành trách nhiệm với thân chủ, với xã hội cũng là một
cách tơn trọng nghề nghiệp của mình, tơn trọng bản thân mình trong giới Luật sư, nghề Luật sư.
1. Luôn tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật
Quy tắc 2 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định về sự độc lập, trung thực, tôn trọng sự
thật khách quan của luật sư như sau: “Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, khơng vì lợi ích vật
chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp” . Với tư cách là một người có
chun mơn và kiến thức pháp lý sâu rộng, hơn ai hết, luật sư tranh tụng là những người cần phải thượng tơn luật pháp
trong q trình hành nghề của mình.
Một luật sư tranh tụng giỏi là người có thể tự bằng khả năng của chính mình bảo vệ cơng lý và lẽ phải. Khơng thể vì lợi ích
của riêng cá nhân luật sư hoặc của thân chủ mà sẵn sàng bất chấp pháp luật, dùng thủ đoạn trái luật để trục lợi, gây thiệt hại
cho người khác và xã hội. Đảm bảo sự công bằng cho khách hàng, hành nghề một cách chân chính chứ khơng thực hiện các
hành động sai trái để giúp cho khách hàng của mình được hưởng lợi bất hợp pháp.
2. Khơng đồng thời thực hiện dịch vụ pháp lý cho các khách hàng có xung đột về lợi ích giữa các bên hoặc giữa khách
hàng với luật sư, người thân thích của luật sư
Về định nghĩa, Quy tắc 11.1 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định về giải quyết xung
đột về lợi ích như sau: “Xung đột về lợi ích trong hành nghề luật sư là sự đối lập về quyền lợi vật chất hay tinh thần đã xảy
ra hoặc có khả năng xảy ra giữa hai hay nhiều khách hàng của luật sư; giữa luật sư, nhân viên, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh
em của luật sư với khách hàng trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên quan đến vụ việc đó”.
Theo đó, luật sư tranh tụng cần xác định rõ các mối quan hệ, tư cách chủ thể của khách hàng trong các vụ việc mà mình
đang tham gia giải quyết để từ đó cân nhắc việc mình có thể tiếp tục theo đuổi vụ việc đó hay khơng. Điều này cũng góp phần

thể hiện luật sư tranh tụng là người có đạo đức nghề nghiệp, sẵn sàng “thắng cuộc” quang minh chính đại chứ khơng lợi
dụng khách hàng để trục lợi bất chính cho bản thân mình. Trong trường hợp phát hiện có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa các
khách hàng hoặc giữa khách hàng với luật sư hoặc người thân thích của luật sư, luật sư tranh tụng tuyệt đối không được
nhận vụ việc đó và phải từ chối yêu cầu của khách hàng.
3. Giữ bí mật thơng tin
Với đặc thù cơng việc, luật sư tranh tụng là người luôn phải tiếp xúc với những thơng tin nhạy cảm hoặc mang tính bảo mật
cao mà vốn dĩ khách hàng không bao giờ tiết lộ ra ngồi. Đó có thể là các bí mật kinh doanh, chiến lược và mục tiêu của
doanh nghiệp trong tương lai, thông tin về các hợp đồng, … Hơn nữa, đối với một vụ tranh chấp thương mại, việc “rị
rỉ” thơng tin của các bên cịn làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh khách hàng, làm suy giảm uy tín của khách
hàng với các đối tác khác hoặc người tiêu dùng trên thương trường.
Vấn đề này cũng được quy định rất cụ thể tại Quy tắc 12 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt
Nam: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ
đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng
nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết khơng tiết lộ những bí mật thơng tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu
tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.”


Việc bảo đảm tính bảo mật của thơng tin do khách hàng cung cấp sẽ tạo dựng được uy tín và hình ảnh người luật sư chuyên
nghiệp trong mắt khách hàng. Điều này mở ra nhiều cơ hội tiềm năng để các khách hàng tiếp tục ưu tiên lựa chọn luật sư hoặc
tổ chức hành nghề luật sư đó trong các vụ việc khác khi họ có nhu cầu.
Do đó, luật sư tranh tụng giỏi phải ln giữ cho mình nguyên tắc bảo mật mọi thông tin mà khách hàng cung cấp và chỉ
cung cấp khi được khách hàng cho phép hoặc quy định của pháp luật yêu cầu.
4. Giữ cho mình “một trái tim nóng, một cái đầu lạnh và đơi bàn tay sạch”
Mang trong mình “một trái tim nóng” là việc luật sư tranh tụng ln nhiệt huyết trong cơng việc, hết mình phục vụ khách
hàng, ln ân cần, chu đáo và quan tâm đến những lợi ích mà khách hàng mong muốn đạt được, luôn biết đặt mình vào vị thế
của khách hàng, có trách nhiệm cao trong công việc và tận tụy giúp đỡ cho khách hàng trong các vụ việc mà khách hàng gặp
phải. Giữ được “cái đầu lạnh” là việc luật sư tranh tụng có được tinh thần thép trong q trình làm việc, khơng để cảm xúc
xen lẫn lý trí, ln sáng suốt nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và tồn diện dựa trên những cơ sở thực tế.
Một luật sư tranh tụng có “đơi bàn tay sạch” là người trước hết luôn tuân thủ pháp luật, sau là làm những việc không trái với
lương tâm và đạo đức nghề nghiệp, biết phân định rõ phải trái, trắng đen để từ đó lựa chọn cho mình một phương án giải

quyết phù hợp.
Bên cạnh đó, sự lạnh lùng của người luật sư tranh tụng chuyên nghiệp còn được thể hiện ở việc khơng bị quyến rũ và tha
hóa bởi các cám dỗ và cạm bẫy từ bất kỳ bên nào khác, luôn giữ cho mình niềm tin nội tâm, niềm tim vào công lý và lẽ công
bằng để đấu tranh cho quyền lợi của khách hàng trước đối phương và cơ quan xét xử.
Một luật sư tranh tụng giỏi luôn biết đâu là điểm mạnh và yếu điểm của khách hàng trong một vụ án hay vụ tranh chấp,
khơng vì lợi nhuận trước mắt có được từ việc cung ứng dịch vụ pháp lý mà “vẽ” ra những điều bất hợp lý, “nịnh nọt” để
khách hàng tin rằng họ luôn là người có lợi thế và nắm chắc phần thắng khi sự việc vẫn chưa ngả ngũ, không khẳng định
những điều thiếu căn cứ và bất hợp lý để trục lợi từ khách hàng.

KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ VIỆC DÂN SỰ
Nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự là bước chuẩn bị có ý nghĩa quan trọng, giúp Kiểm sát viên chủ động khi tham gia
phiên tòa, phiên họp cũng như xác định căn cứ để kiến nghị, kháng nghị đảm bảo pháp luật được tuân thủ.
1. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 6 và Điều
27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014.
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 tiếp tục khẳng định “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tại các điều 57, 58, 59. Trên cơ sở đó, VKS phải kiểm sát các quyết định,
các văn bản, hoạt động tố tụng của Tòa án theo quy định của BLTTDS năm 2015 như: Các quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 139, 291); thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện (Điều 192, 194); thông báo việc thụ
lý vụ án (Điều 196); thông báo phân công Thẩm phán giải quyết vụ án (trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197);
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Điều 212, 246); quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự (Điều 214, 217); quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 220); quyết định hoãn phiên tịa sơ thẩm (Điều 233); thơng báo về
thời gian tiếp tục phiên tòa (trong trường hợp tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 259); bản án dân sự sơ
thẩm, quyết định sửa chữa, bổ sung bản án (Điều 268, 269); thông báo về việc kháng cáo, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo (Điều 277, 284); thông báo thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm (Điều 285); quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án (Điều 288, 289); quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (Điều 290); bản án, quyết định phúc thẩm (Điều 313,
315); quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 318); quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án
Tịa án (Điều 319); thơng báo thụ lý đơn yêu cầu (Điều 365); quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự (Điều 366);
quyết định giải quyết việc dân sự (Điều 370); quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự (Điều 373); quyết



định phúc thẩm giải quyết việc dân sự (Điều 375); quyết định khởi tố vụ án hình sự (trong trường hợp Tịa án khởi tố vụ án
hình sự theo Điều 497); quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 (Điều 507).
Ngoài ra, khi nghiên cứu giải quyết các vụ việc dân sự, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải nghiên cứu hồ sơ, lập hồ sơ
kiểm sát theo hướng dẫn tại Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, ban hành kèm theo Quyết định số
364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao và văn bản Hướng dẫn nghiệp vụ do VKSND tối cao ban
hành: Phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của đương sự, các tài liệu, chứng
cứ khác...
Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình của Tịa án, VKS
các cấp phát hiện nhiều sai sót, vi phạm như: Việc áp dụng pháp luật khơng đúng (nhầm lẫn giữa áp dụng pháp luật dân sự, tố
tụng dân sự cũ và luật năm 2015), vi phạm trong cách tính án phí, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, khơng đưa
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng như vụ án… và những sai sót trong xác định quan hệ tranh
chấp.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cịn có một số hạn chế như: Một số hồ sơ kiểm
sát vụ án trích cứu cịn chưa đầy đủ, khơng chính xác, cá biệt có hồ sơ thiếu chứng cứ có tính quyết định, nhất là những vụ án
phức tạp, nhiều nguyên đơn, bị đơn, người liên quan, tài sản tranh chấp có giá trị lớn và ở nhiều nơi... Kiểm sát viên cịn
khơng sao chụp một số tài liệu quan trọng không thể thiếu trong hồ sơ một số loại vụ việc như: Tài liệu về giám định chữ viết,
biên bản xem xét tại chỗ, định giá... Việc lập đề cương hỏi tại phiên tòa còn sơ sài, chưa sát với nội dung hồ sơ vụ việc, về
xây dựng phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa chưa kỹ, chưa đánh giá được những sai sót, vi phạm của Tịa án, Hội đồng
xét xử trong quá trình giải quyết vụ việc; một số hồ sơ ở cấp phúc thẩm xác định khơng chính xác về phạm vi kháng cáo, dẫn
tới đưa ra đường lối giải quyết chưa chính xác; việc ghi chép ý kiến đề xuất giải quyết của Kiểm sát viên, ghi chép ý kiến chỉ
đạo của lãnh đạo đơn vị khơng đầy đủ; tình trạng hồ sơ khơng đánh số bút lục hoặc đánh số không đầy đủ tuy đã được khắc
phục nhiều nhưng vẫn còn tồn tại...
2. Một số kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm
Thứ nhất, nghiên cứu thẩm quyền thụ lý vụ việc dân sự.
Thẩm quyền về nội dung tranh chấp vụ án dân sự được quy định tại các điều 26, 30, 32; thẩm quyền giải quyết yêu
cầu việc dân sự được quy định tại các điều 27, 29, 31, 33; thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ
chức tại Điều 34; thẩm quyền theo cấp Tòa án từ Điều 35 đến Điều 38; thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39; thẩm quyền
theo lựa chọn của nguyên đơn tại Điều 40 BLTTDS năm 2015.

Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa sơ thẩm những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng
tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc
vụ kiện (vụ án) dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng theo khoản 2 Điều 4 và những việc dân sự thuộc thẩm quyền, Kiểm
sát viên khi tiếp nhận hồ sơ vào sổ thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, báo cáo Lãnh đạo Viện để ra quyết định phân công Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa, phiên họp.
Thứ hai, Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp của vụ kiện chưa?
Kiểm sát viên phải nghiên cứu hình thức, nội dung đơn khởi kiện có được làm theo quy định của Điều 189 BLTTDS
đối với vụ án và theo quy định tại Điều 362 BLTTDS đối với việc dân sự hay chưa. Nghiên cứu “những vấn đề cụ thể yêu cầu
Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo điểm g khoản 4 Điều 189 và “những
vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và những tài liệu, chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu này. Mục đích, căn cứ của
việc yêu cầu Tịa án giải quyết việc dân sự đó” theo điểm d khoản 2 Điều 362. Trong thực tế, người khởi kiện, người yêu cầu
có thể nêu đúng quan hệ tranh chấp, yêu cầu nhưng cũng có thể nêu theo tên gọi của giao dịch dân sự hoặc khởi kiện “đòi nhà
cho ở nhờ” nhưng thực chất là “nhà cho thuê” hoặc tranh chấp “tài sản” nhưng thực tế là “tranh chấp đòi nhà”, tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng nhà nhưng thực chất là “vay tài sản”… Kiểm sát viên phải căn cứ vào nội dung đơn và các tài liệu
chứng cứ kèm theo để xác định đúng mối quan hệ tranh chấp, yêu cầu giải quyết vụ hay việc dân sự là vấn đề cơ bản đảm bảo
giải quyết đúng vụ việc dân sự. Mặt khác, Tịa án có xác định đúng tư cách tố tụng của các đương sự và những người tham
gia tố tụng khác như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan theo quy định tại các điều 68, 74, 75, 85 BLTTDS. Lưu ý “những trường hợp không được làm người đại diện” theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền tại Điều 87 BLTTDS. Đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người


khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Cần xem xét đến vi phạm của Tịa án khi khơng đưa đầy đủ người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, không chỉ định người đại diện trong một số trường hợp bắt buộc...
Thứ ba, kiểm sát việc áp dụng của Tòa án về thời hiệu khởi kiện.
Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu
cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc; người được hưởng lợi từ việc
áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Về
khoảng thời gian, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng (Điều 429), yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 588) là 3 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại; thời hiệu để người thừa kế yêu cầu

chia di sản là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện tại Điều 155 trong những trường hợp sau: Yêu cầu bảo vệ quyền nhân
thân không gắn với tài sản; yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác;
tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai; trường hợp khác do luật quy định.
Thứ tư, nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Việc nghiên cứu các chứng cứ là vấn đề rất quan trọng trong việc xác định điểm mấu chốt của vụ việc, Kiểm sát viên
phải xác định được các chứng cứ trong vụ án phải được thu thập và được lập theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại
Điều 93 BLTTDS không? Khi nghiên cứu về thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ cần phải chú ý một số điểm sau:
- Quy định về việc lấy lời khai đương sự: Các biên bản lấy lời khai phải do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thực hiện như Thẩm phán, Kiểm sát viên. Đối với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải có người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đương sự là cơ quan, tổ
chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng, việc sửa chữa biên bản ghi lời khai đương sự phải có xác nhận bằng chữ
ký của họ.
Kiểm sát viên cần phải nghiên cứu lời khai của các đương sự xem lời khai trước với lời khai sau có mâu thuẫn
khơng? Phân tích, đánh giá lời khai có phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ việc dân sự. Theo yêu cầu của các đương sự hoặc
khi các lời khai có mâu thuẫn, Thẩm phán có tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 100 BLTTDS? Việc hệ thống được lời
khai của các đương sự và các chứng cứ liên quan sẽ giúp Kiểm sát viên định hướng được các vấn đề cần bổ sung hay cần làm
rõ tại phiên tòa. Đối với lời khai người làm chứng là một trong những nguồn cung cấp chứng cứ quan trọng, nhưng phải yêu
cầu họ cam đoan về lời khai của mình theo quy định tại Điều 99 BLTTDS. Khi nghiên cứu nguồn chứng cứ này, cần chú ý
tính khách quan trong lời khai của họ; cần xem xét mối quan hệ của họ với nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan, từ đó đánh giá lời khai của họ một cách khách quan, toàn diện.
- Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Ngoài các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 BLTTDS
sửa đổi năm 2011, BLTTDS năm 2015 quy định thêm 04 biện pháp: Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ, cấm tiếp xúc
với nạn nhân bị bạo lực gia đình, tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động liên quan đến việc đấu thầu, bắt giữ tàu bay, tàu
biển để bảo đảm giải quyết vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ cần xem xét Tịa án có áp dụng trái quy định hoặc vượt quá yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, áp dụng không đúng thời hạn hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
khơng có lý do chính đáng. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, hủy bỏ hoặc không áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ví dụ: Nguyên đơn khởi kiện “đòi quyền sử dụng đất bị lấn chiếm” với bị đơn
là chủ nhà đất giáp ranh nhưng lại có đơn u cầu Tịa án cấm bị đơn “thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp”, cụ thể là
cấm việc bị đơn sửa chữa, cơi nới nhà trong thời gian Tòa án đang giải quyết vụ án, yêu cầu này là vượt quá yêu cầu khởi

kiện nên không có căn cứ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này.
Cần kiểm tra đánh giá việc giao nộp, thu thập chứng cứ có đảm bảo tính hợp pháp, kịp thời, đầy đủ hay khơng, nếu
chứng cứ khơng được thu thập hợp pháp, khơng đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thì sẽ khơng có giá trị
chứng minh.
Nghiên cứu tài liệu về việc xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá, thẩm định giá tài sản: Xem xét tính hợp pháp của
biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, biên bản định giá, việc tổ chức thẩm định, định giá có đúng thành phần, theo trình tự, thủ
tục luật định hay khơng, Tòa án phải ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá, việc thẩm định giá tài sản
có được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá? Kiểm tra sơ đồ nhà đất, tài sản tranh chấp có mơ tả đầy đủ
và chính xác đặc điểm, kích thước hiện trạng, những vết tích cũ theo mơ tả của các bên đương sự... Từ đó giúp xác định được
mâu thuẫn trong lời khai của các bên làm căn cứ xác định sự thật vụ án.


- Về quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án: Để đảm bảo tranh tụng trong xét xử, BLTTDS năm
2015 quy định về việc đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ
giao nộp chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Tuy
nhiên, để xem xét các tài liệu đương sự giao nộp đã đầy đủ chưa đòi hỏi Thẩm phán cần phải xem xét, nghiên cứu kỹ những
tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự. Ngoài ra, nhằm bảo đảm cho thủ tục giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ
được khách quan, bình đẳng, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho người yếu thế, trong một số trường hợp, luật quy định nghĩa
vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu như người tiêu dùng khởi kiện khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức hay
cá nhân kinh doanh hàng hóa... Như vậy, khi nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên cần xem xét vụ án có cần phải yêu cầu đương sự
giao nộp bổ sung chứng cứ, cũng như phía bên nào có trách nhiệm giao nộp chứng cứ để yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ
hoặc tự mình thu thập chứng cứ trong trường hợp thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm.
Ngoài nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, BLTTDS còn quy định trách nhiệm của đương sự khi giao
nộp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án thì họ cũng phải sao gửi tài liệu chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác (trừ chứng cứ liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục, bí mật nghề nghiệp, kinh
doanh...). Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ, nếu hết thời hạn 15 ngày mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, VKS thì
phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Nếu vi phạm thì tùy tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định; việc xử phạt đó không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án.
Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ phải xem xét việc Tòa án, VKS có tiến hành các biện pháp trên trong trường hợp các tổ chức, cá

nhân không cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ cho Tòa án, VKS.
Lưu ý về việc xác định chứng cứ: Cần nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ, kết hợp với lời khai của các đương sự để
đánh giá chứng cứ, trong một số trường hợp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tài liệu, chứng cứ không đủ cơ sở để tiến hành
giám định...
Nghiên cứu tài liệu giám định: Tài liệu giám định là nguồn chứng cứ rất quan trọng, theo quy định của BLTTDS năm
2015, đương sự có quyền tự mình u cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu
cầu của đương sự. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên
phải chú ý xem những tài liệu có thuộc trường hợp phải bắt buộc trưng cầu giám định nhưng Thẩm phán chưa làm hoặc tuy
có giám định nhưng lại chưa nêu được đầy đủ, rõ ràng các yêu cầu cần giám định, hoặc chưa cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ
công tác giám định, dẫn đến trong một số trường hợp tài liệu cung cấp không đủ cơ sở để tiến hành giám định, phải tiến hành
giám định lại nhiều lần...
Kiểm sát hồ sơ vụ việc dân sự cũng cần lưu ý đến biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai
chứng cứ và hòa giải, lưu ý đến quy định của BLTTDS năm 2015 về nghĩa vụ của đương sự phải sao gửi tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác, nếu không thể sao gửi được thì phải thơng báo bằng văn bản.
Kiểm sát các căn cứ để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, việc thỏa thuận phải được
thực hiện theo nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, phải hướng dẫn, giải thích cho đương sự
nhằm bảo đảm việc thỏa thuận là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
vụ án…
Đối với vấn đề nhập, tách vụ án: Tòa án nhập, tách vụ án phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, nguyên tắc tôn
trọng quyền định đoạt của các đương sự, nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh gọn, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, phải lưu ý những trường hợp Tòa án tách vụ án trong những trường hợp vụ việc có liên quan làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của một trong những đương sự.
Kiểm sát viên nghiên cứu việc Tòa án áp dụng pháp luật trong việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy
định tại điểm a, b, c, e khoản 1 Điều 214 là những căn cứ có thể xác định được bằng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án. Nghiên cứu việc Tòa án áp dụng pháp luật trong việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại điểm a, b, d, đ và
e khoản 1 Điều 217 đúng không?
Đối với những vụ án áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn: Tòa án áp dụng loại việc giải quyết theo thủ tục rút gọn
phải là những tranh chấp có tính chất đơn giản, sự việc rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ, tài liệu, chứng cứ đầy đủ;
các đương sự đều có địa chỉ cư trú rõ ràng, khơng có đương sự cư trú ở nước ngồi, tài sản tranh chấp ở nước ngoài... theo

quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục này cũng ngắn hơn


thời hạn giải quyết các vụ án thông thường. Trong trường hợp có những tình tiết phát sinh theo quy định thì chuyển vụ án
sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ
án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Về thời hạn kháng cáo, đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 7
ngày, kể từ ngày tun án; đối với đương sự khơng có mặt tại phiên tịa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định
được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết, thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là 7 ngày, VKS cấp trên là
10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định. Kiểm sát viên phải lưu ý ngày nhận bản án, quyết định để bảo đảm thời
hạn quy định này.
Nghiên cứu dư luận báo chí: Đối với những vụ việc phức tạp, tài sản tranh chấp lớn… thì dư luận, báo chí thường rất
quan tâm; qua dư luận, báo chí cũng là một kênh tham khảo, nhưng cũng không loại trừ một số thơng tin từ báo chí mang tính
thương mại, thổi phồng, viết theo đơn đặt hàng của đương sự nhằm gây sức ép, do vậy, cơ quan tố tụng cần phải có chính
kiến, quan điểm dựa trên sự thật khách quan.
Nghiên cứu quan điểm của luật sư: Những vụ việc có luật sư tham gia phiên tịa, cần phải xem xét Tịa án có bảo đảm
ngun tắc tranh tụng tại phiên tòa? Trên cơ sở hồ sơ vụ việc phải chuẩn bị tốt đề cương hỏi tại phiên tòa. Đối với việc nghiên
cứu hồ sơ xét xử phúc thẩm, nghiên cứu kỹ quan điểm của luật sư ở giai đoạn sơ thẩm để chuẩn bị tốt cho đề cương hỏi, cũng
như kiểm tra lại quan điểm của mình trong việc xử lý đối với kháng cáo, kháng nghị.
Nghiên cứu biên bản phiên tòa: Thành phần Hội đồng xét xử, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, căn cứ
hỗn phiên tịa, tạm ngưng phiên tịa và thời hạn hỗn, tạm ngưng phiên tịa có đúng quy định tố tụng khơng? Biên bản phiên
tịa có phản ánh khách quan, trung thực diễn biến tại phiên tịa khơng? (Kiểm sát viên phải kiểm tra bút ký phiên tòa ngay sau
khi xét xử xong); kiểm tra việc sửa chữa, bổ sung bản án (nếu có).
Thứ năm, kinh nghiệm trong việc chuẩn bị đề cương hỏi và những vấn đề cần đối đáp.
Kiểm sát viên phải chuẩn bị kỹ các câu hỏi tại phiên tòa, các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu, tránh đặt câu hỏi trùng
lắp, câu hỏi dài dịng làm cho người bị hỏi khó trả lời, khơng đặt câu hỏi thuộc về cá nhân, đời sống riêng tư, xâm phạm danh
dự của đương sự. Tập trung đặt câu hỏi để làm rõ, giải quyết những mâu thuẫn của các tài liệu, chứng cứ cũng như những vấn
đề chưa rõ trong lời khai của các đương sự. (Lưu ý: Q trình xét xử tại phiên tịa, luật quy định Kiểm sát viên tham gia hỏi
sau cùng nhằm đề cao vai trò tranh tụng của các bên đương sự, Kiểm sát viên cần tập trung lắng nghe, ghi chép những câu hỏi
đã được hỏi tại phiên tòa để tránh hỏi trùng lắp; đặt câu hỏi tùy thuộc vào diễn biến tại phiên tịa).
Nghiên cứu cách tính án phí và các chi phí tố tụng khác của Tịa án có đúng quy định của Pháp lệnh về án phí, lệ phí

và gần đây nhất là quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ sáu, kinh nghiệm chuẩn bị phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Văn bản phát biểu được lập theo hướng dẫn tại Điều 28 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC ngày
31/8/2016, cụ thể như sau:
- Phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa
và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ việc cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án. Phát biểu của Kiểm sát viên cần phải nêu rõ việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán khi tiến
hành thụ lý vụ án về thẩm quyền, các thủ tục tố tụng khác như xác định quan hệ phát sinh tranh chấp, xác định tư cách tham
gia tố tụng của đương sự, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, xác minh, thu thập chứng cứ, các thủ tục mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử, các thủ tục triệu tập đương sự,
quyết định đưa vụ án ra xét xử… của Thẩm phán có đúng quy định của pháp luật hay khơng? Thư ký phiên tịa có tn thủ
chức năng, nhiệm vụ của mình tại phiên tịa? Người tham gia tố tụng có tuân theo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tố tụng không?
thực hiện nghiêm túc nội quy phiên tịa khơng?
- Phát biểu về việc giải quyết vụ án: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định Kiểm sát viên phát biểu về đường lối
giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của người có yêu cầu độc lập (nếu có).
Phát biểu của Kiểm sát viên phải làm rõ các tình tiết của vụ án, yêu cầu của các bên đương sự, đại diện của họ và những
người tham gia tố tụng khác; phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự, trên cơ sở
đó nêu quan điểm giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần phải lưu ý là căn cứ vào kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên
tịa, phân tích điều chỉnh quan điểm đã dự thảo của Viện kiểm sát.


Các căn cứ xét kháng cáo quá hạn: Khi đương sự có lý do chính đáng như gặp trường hợp bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan do thiên tai, lũ lụt, bệnh nặng hoặc tai nạn... làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được quyền
kháng cáo trong thời hạn theo luật định.
(Trích bài viết: “Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự theo quy định của
BLTTDS năm 2015” của tác giả Nguyễn Văn Hải, Vụ trưởng Vụ 9 và tác giả Đoàn Thị Thu, KSVCC Vụ 9 VKSND tối cao.
Tạp chí Kiểm sát số 5/2018)




×