Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Thuyet trinh ve Tran Thanh Tong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.6 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Trần Thánh Tông</b>



Trần Thánh Tông (1240 – 1290) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần
Thái Tông và trước vua con Trần Nhân Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái
thượng hoàng từ năm 1278 (sau khi Thượng hồng Thái Tơng mất) cho đến khi qua đời.
Ơng là một vị Hồng đế tài năng, có cơng rất lớn trong công cuộc xây dựng đất nước.
Dưới triều đại của ơng, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên Mông không sang xâm
lược nữa. Không những đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế và giáo dục, ơng đã thực
hiện chính sách đối ngoại khơn khéo, nhưng cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt
chứ quyết không để cho người Nguyên sang thôn tính. Trong thời gian làm Thái thượng
hồng, ơng đã cùng với vua con Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng trong
hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mơng.


Ơng là vị Hồng đế có lịng thương dân và thân thiết với anh em trong Hồng gia.


<b>Thân thế</b>



Ơng tên thật là <b>Trần Hoảng</b> là con trai thứ, nhưng mà là con trưởng dịng đích của vua
Trần Thái Tơng và bà Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị. Ơng sinh ngày 25
tháng Chín âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức 12 tháng 10 năm 1240) và
ngay lập tức được lập làm Đông cung thái tử. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi
Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu mang thai ông, vua Thái Tông nằm mơ thấy
Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.


Trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1, vào ngày 24 tháng 12 năm 1257
(năm Nguyên Phong thứ bảy), Thái tử Hoảng cùng với vua cha Thái Tông ngự lâu thuyền
mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong trận đánh ở đây,
buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.


<b>Trị vì</b>




Ngày 24 tháng Hai niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (tức 30 tháng 3 năm 1258), Trần Thái
Tông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng, về Bắc cung làm Thái thượng hồng, mong muốn
ơng sẽ nắm thêm về đường lối trị quốc và mai này các anh em của ông sẽ cùng chung
sống hòa đồng với nhau.. Trần Thánh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng
làm Nhân Hồng, tơn vua cha là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hồng Đế. Triều
thần dâng tơn hiệu cho ông là Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu Hồng đế.
Vua Thánh Tơng ở ngơi 21 năm, đất nước được yên trị. Vào năm Tân Dậu 1261, ông
phong cho em là Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải làm Thái úy, chứ không
phong cho Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang do ông này kém tài năng. Thánh Tông
được xem là một vị vua nhân hậu, hịa ái đối với mọi người từ trong ra ngồi. Ơng
thường nói rằng:


“ Thiên hạ là của ơng cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung. ”


<b>—Trần Thánh Tơng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lại, có lần nhà vua cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái
thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Quốc Khang múa kiểu người Hồ,
Thượng hồng bèn cởi áo ban cho. Vua Thánh Tơng thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ
để đòi thưởng áo bơng. Quốc Khang bèn nói:


Q nhất là ngơi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tơn cho tơi thứ nhỏ
mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?


Thượng hồng Thái Tơng cười nói với Quốc Khang:


Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo chồng này thơi à?


Thái Tơng khen Quốc Khang, rồi ban áo cho Khang. Trong Hoàng gia, cha con, anh em
hịa thuận khơng xảy ra xích mích. Vào tháng 9 năm Kỷ Tỵ 1269, niên hiệu Thiệu Long


thứ 12, vua phong Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một
lần khác, vào mùa xuân năm Canh Ngọ 1270, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 13, Quốc
Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, nhà vua bèn cho người đến xem.
Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này - sau trở thành chùa
Thông.


Việc học hành được mở mang: Trần Ích Tắc (em trai Thánh Tông) nổi tiếng là một người
hay chữ trong nước nên được cử ra mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho
Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.
Vào năm Nhâm Tuất, niên hiệu Thiệu Long thứ năm (1262), Trần Thánh Tông xuống
lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sơng Bạch Hạc,
Lục qn và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng Chín (âm lịch) năm ấy,
ơng truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm
lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Ngun
Phong.


Ơng cịn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm
được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc
biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Thái Tông, đến năm Nhâm Thân (1271) đời
Thánh Tơng mới xong.


Trần Thánh Tơng cho phép vương hầu, phị mã họp các dân nghèo để khẩn hoang.
Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây. Nhà vua xuống chiếu kén chọn văn học sĩ xung
vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức
Trung Thư. Theo quy chế cũ: khơng phải người trong họ vua thì khơng được làm chức
Hành khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây.


<b>Ngoại giao</b>



Nước Đại Việt dưới triều vua Thánh Tơng khơng hề có biến loạn gì.



<b>Quan hệ với Nam Tống</b>


Năm 1258, Trần Thánh Tơng sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm
An Nam quốc vương. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ,
ơng vẫn giữ quan hệ.


Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống
cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho
Thánh Tơng mà cịn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngồi ý nghĩa
giao hảo nước lớn cịn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử
người quản lý.


<b>Quan hệ với Mông Nguyên</b>


Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Phong thứ tư, ông được vua Mông Cổ phong
làm An Nam Quốc Vương', lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim
thục. Trần Thánh Tơng duy trì lệ cống nhà Ngun 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống
nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là
sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…


Vua Mông Cổ lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận
Đại Việt. Ý Mơng Cổ muốn tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh
chiếm.


Thánh Tơng bề ngồi tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên
tiếp tục luyện binh dụng võ để phịng chiến tranh. Ơng cho tuyển đinh tráng các lộ làm
lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.



Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam
Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm,
Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua
Trần lấy cớ thoái thác.


Năm 1272, hồng đế nhà Ngun cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng
ngày trước, nhưng vua Thánh Tơng sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi,
khơng biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.


Năm 1275 Trần Thánh Tơng sai sứ sang nói với hồng đế nhà Nguyên rằng:


Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan
Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.


Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh tông cũng không chịu. Từ
đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý
cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại
Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.


Theo sách "Các triều đại Việt Nam" của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, "Nhìn chung, vua
Trần Thánh Tơng thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm
bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dịm ngó, tạo sự xâm lược của nhà
Nguyên." Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng
trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.


<b>Thái thượng hoàng</b>



Năm 1277, thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng Mười âm lịch
năm sau (tức 8 tháng 11 năm 1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là Thái


tử Trần Khâm - tức là vua Trần Nhân Tông - lên làm Thái thượng hồng. Ơng về ở Bắc
cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Trần Nhân Tông nối ngôi tôn ông là Quang
Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hồng Đế, tơn Thiên Cảm hồng hậu (vợ Thánh Tơng)
làm Ngun Thánh Thiên Cảm Hồng thái hậu. Bầy tôi dâng tôn hiệu cho ông là Pháp
Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân hoàng đế.


Trên danh nghĩa là Thái thượng hồng, nhưng Trần Thánh Tơng vẫn tham gia việc triều
chính trong bối cảnh chuẩn bị chống xâm lược của Nguyên Mông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống
Nguyên Mông. Trong hai cuộc chiến chống Nguyên Mông lần 2 và lần 3 thắng lợi có vai
trị đóng góp của thượng hồng Thánh Tông.


Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, ông lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài
thơ thường được truyền lại là: Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực.
Ngày 25 tháng Năm năm Trùng Hưng thứ 6 (tức 3 tháng 7 năm 1290), Thượng hoàng
Trần Thánh Tơng qua đời tại cung Nhân Thọ. Ơng làm vua 21 năm, làm Thượng hoàng
12 năm, hưởng thọ 51 tuổi, được táng ở Dụ Lăng - phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà,
Thái Bình ngày nay).


</div>

<!--links-->



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×