Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn thạch lam từ góc nhìn thi pháp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.49 KB, 67 trang )

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 3
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 4
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 9
5. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 10
7. Cấu trúc khóa luận ....................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 12
CHƢƠNG 1: TÁC GIẢ THẠCH LAM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG ..... 12
1.1.

Tác giả Thạch Lam ............................................................................... 12

1.2. Khái niệm không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
....................................................................................................................... 22
1.3.

Tiểu kết ................................................................................................. 30

CHƢƠNG 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
THẠCH LAM................................................................................................... 31
2.1.

Không gian thực tại ............................................................................... 31

2.2.


Không gian quá khứ .............................................................................. 38

2.3.

Không gian và thời gian kết hợp ............................................................ 41

2.4.

Không gian hậu bi kịch ......................................................................... 44

2.5.

Tiểu kết ................................................................................................. 47

CHƢƠNG 3: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
THẠCH LAM................................................................................................... 49
3.1.

Thời gian hiện thực ............................................................................... 49

3.2.

Thời gian tâm trạng ............................................................................... 54

3.3.

Thời gian hồi tưởng............................................................................... 57

3.4.


Thời gian tương lai ................................................................................ 60
1


3.5.

Tiểu kết ................................................................................................. 62

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 66

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được phép gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Lãnh
đạo trường Đại học Thủ Dầu Một và tập thể các quý thầy cô của trường, đặc biệt là
các quý thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt
qua trình học tập và rèn luyện tại trường.
Bên cạnh đó, tơi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng
viên hướng dẫn Th S. Võ Thị Thanh Tùng, người đã tận tình và chu đáo hướng dẫn
tơi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để có thể thực hiện đề tài một cách hoàn
chỉnh nhất nhưng do buổi đầu mới làm quen, tiếp cận với công việc nghiên cứu
khoa học cũng như còn hạn chế về mặt kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên khóa
luận khơng tránh khỏi những thiếu sót mà bản thân chưa nhìn thấy được. Tơi rất
mong sẽ nhận được sự góp ý chân thành từ các Thầy cơ giáo trong khoa Ngữ Văn
để khóa luận có thể hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 22 tháng 04 năm 2016

Sinh viên

Võ Nguyễn Thuận Khanh

3


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Bình Dương, ngày 22 tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Võ Nguyễn Thuận Khanh

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,… Thạch Lam cũng được xem là một
trong những cây bút viết truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1932
- 1945. Tuy cuộc đời sáng tác của Thạch Lam khá ngắn ngủi, số tác phẩm của ông
không nhiều, vỏn vẹn ba tập truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, một tập bút ký và
một tập bình văn chương, nhưng ơng đã để lại dấu ấn đậm nét trong nền văn học
trước 1945. Nghĩ đến Thạch Lam, người ta nghĩ ngay đến một cây bút giàu chất
nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc với một tâm hồn nhạy cảm, một văn phong
trong sáng và tinh tế. Thạch Lam đã làm say đắm biết bao thế hệ độc giả từ xưa tới
nay. Theo dòng thời gian, các tác phẩm của Thạch Lam vẫn mãi là người bạn tinh

thần của nhiều thế hệ độc giả Các sáng tác của ông vẫn luôn giữ được vẻ đẹp và ý
nghĩa rất riêng biệt, rất Thạch Lam mà không thể nhầm lẫn với một tác giả nào
khác.
Thạch Lam tuy viết khá nhiều thể loại nhưng nổi tiếng nhất vẫn là truyện
ngắn. Giống như nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận định: “Nói đến Thạch Lam người
ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài” [1; 61] và “một số truyện
ngắn của Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực được” [1;61]. Ông cùng với Thanh
Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn đã tạo nên một dòng truyện ngắn mang phong cách riêng:
dịng truyện ngắn trữ tình, làm phong phú thêm diện mạo của văn học hiện đại nước
nhà.
Thạch Lam là tác giả thuộc trường phái văn học lãng mạn, nhưng nhiều
truyện ngắn của ơng đã vượt ra ngồi cái khuôn khổ lãng mạn mà đến gần hơn với
chủ nghĩa hiện thực với nét đặc sắc là thiên về khám phá thế giới nhân sinh của con
người, len lỏi sâu vào tâm hồn con người, thể hiện ý thức tự thức tỉnh của các nhân
vật.
Nghiên cứu về Thạch Lam, chính là nghiên cứu về một cây bút văn xi lãng
mạn bậc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945. Dưới cái nhìn thi pháp
5


học, chúng tơi hy vọng khóa luận sẽ góp thêm một tiếng nói vào việc nghiên cứu
Thạch Lam, thêm phần khẳng định tài năng và giá trị những đóng góp của ơng trong
tiến trình văn học nước nhà.
Về vấn đề không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chương thì
đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến trong nhiều cơng trình, nhưng khơng gian
và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam thì vẫn chưa được khai
thác nhiều và sâu. Theo sự tìm hiểu của tác giả thì vấn đề này chỉ được đề cập rải
rác trong một số bài viết và một số luận văn cao học. Nghiên cứu về không gian và
thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chương chính là nghiên cứu về điểm nhìn
chủ quan của tác giả để từ đó thấy được phong cách nghệ thuật cũng như tư tưởng

của nhà văn.
Chúng tôi chọn đề tài “Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam từ góc nhìn thi pháp học” trước tiên là xuất phát từ lòng say mê, niềm
yêu mến một nhà văn tài năng đầy nhân hậu, lặng lẽ kiếm tìm cái đẹp trong văn
chương cũng như trong cuộc sống. Bên cạnh đó, chúng tơi mong muốn có thể kế
thừa những người đi trước để đi sâu khám phá một trong những đặc điểm nổi bật
nhất về thi pháp truyện ngắn Thạch Lam - thời gian và không gian nghệ thuật trong
truyện ngắn Thạch Lam để qua đó thấy được tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về
con người của ông.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam là một trong những nhà văn đầu tiên góp phần mở ra bước tiến
mới trong tiến trình văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Đến nay, đã có hàng
trăm bài báo và các cơng trình nghiên cứu về Thạch Lam với những khám phá đạt
giá trị cao ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau về Thạch Lam và về các sáng
tác của ông. Hầu như, các bài nghiên cứu đều đánh giá cao về những thành công
cũng như phong cách nghệ thuật độc đáo trong ngòi bút của Thạch Lam. Nhưng bàn

6


về vấn đề thời gian và không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Thạch Lam thì
cịn rất giới hạn, chỉ được đề cập rải rác trong một số bài viết chưa có hệ thống:
- Tác giả Nguyễn Thành Thi đã “khảo sát một cách tồn diện và có hệ thống
những đặc điểm văn xuôi của Thạch Lam. Trên cơ sở đó mà chỉ ra những đóng góp
trong phong cách văn xi nghệ thuật của ơng trong tiến trình hiện đại hóa văn
xi nghệ thuật tiếng Việt” trong cơng trình “Phong cách văn xi nghệ thuật
Thạch Lam” (NXB Khoa học Xã hội, 2006). Cơng trình nghiên cứu của tác giả
chính là tiền đề cơ sở cho khóa luận.
- Giáo sư Phong Lê với bài viết “Thạch lam trong Tự lực văn đoàn” (được in
trong quyển Thạch Lam - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2006) cũng đã

nêu lên những ấn tượng của mình về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch
Lam, đó là một khơng gian rất “đìu hiu, đạm đạm, khơng có chói gắt, khơng có
những vang động mạnh, nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận con người, về sự tối
tăm của các cảnh đời” [1; 98], hay đó là một thời gian “thường có nhiều bóng tối,
khơng phải cái tối như mực mà là cái tối của hồng hơn, của ngày tàn” [1; 98].
- Trong bài viết “Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam” (được in trong quyển
Thạch Lam - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2006), tác giả Phạm Phú
Phong cũng đã nêu lên vấn đề thời gian, không gian nghệ thuật trong cách xây dựng
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam nhưng chỉ ở mức sơ lược.
- Tác giả Hồ Thế Hà cũng đã có một bài viết phân tích khá tỉ mỉ trong
“Truyện ngắn Thạch Lam – đặc điểm không gian nghệ thuật” (được in trong quyển
Thạch Lam - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2006). Ơng cũng đưa ra nhận
xét rằng: “khơng gian nghệ thuật - một mặt quan trọng để nhà văn thể hiện tư
tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người” [1; 248].
- Tác giả Ngô Hương Giang trong bài viết “Thi pháp truyện ngắn Thạch
Lam” (được in trong quyển Thạch Lam, tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, 2014)
cũng đã dành một chương để đưa ra ý kiến của mình về khơng gian và thời gian
7


nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam. Tác giả cho rằng: “khơng – thời gian nó
vừa là hiện thực nhưng nó lại vừa là ý niệm. Nó vừa là tri giác nhưng nó lại vừa là
suy ý. Vậy nên, tác phẩm văn học, nó vừa tồn tại giữa khơng – thời gian thực, ni
dưỡng những giá trị trong nó, song nó vừa lại là chủ thể tạo ra khơng – thời gian
riêng cho nó, một loại khơng – thời gian đặc biệt, không – thời gian nghệ thuật”
[35; 233].
- Trong bài viết “Phố huyện của Thạch Lam” (Được in trong quyển Thạch
Lam, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2006) tác giả Đỗ Đức Hiểu cũng đã
phân tích cụ thể về một khía cạnh khơng gian và thời nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam, đó là khơng gian và thời gian diễn ra thường ngày ở nơi phố huyện.

Bởi vì theo ơng thì “với cái thường ngày, Thạch Lam sáng tạo cái thế giới riêng
của mình, một thời gian riêng, một không gian riêng, những nhân vật riêng với một
trường ngơn ngữ riêng, tóm lại, một “phong cách Thạch Lam” – nhẹ nhàng, buồn
hiu hắt, đậm đà hương vị đồng quê, nhiều bóng tối, mà chói sáng mối tình thương
u hiền hịa, nhân hậu, phản phất chất thơ tỏa lên từ quê hương, đất nước”[1;
333].
- Trong luận văn thạc sĩ “Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam”
của tác giả Lê Thanh Hải cũng đã đề cập đến không gian và thời gian nghệ thuật
trong truyện ngắn Thạch Lam với dung lượng là một chương luận. Bài viết cũng đã
thể hiện rõ suy nghĩ cũng như cách nhìn nhận của tác giả về vấn đề không gian và
thời gian nghệ thuật trong các sáng tác của Thạch Lam.
Như vậy, nhìn chung, ngồi những bài viết chúng tơi đã nêu trên thì các cơng
trình nghiên cứu về Thạch Lam từ trước đến nay vẫn chưa đi sâu vào vấn đề thời
gian và không gian nghệ thuật nhưng tất cả những cơng trình nghiên cứu ấy chính là
tiền đề và cơ sở cho chúng có những nhìn nhận ban đầu để đi vào làm rõ hơn vấn đề
thời gian và khơng gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

8


Nghiên cứu về thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch
Lam là tập trung khai thác, phân tích về một khía cạnh nổi bật trong hệ thống thi
pháp nghệ thuật của Thạch Lam thông qua các tác phẩm truyện ngắn của ông. Đây
là một đề tài hẹp, chính vì thế mà trong khóa luận này, chúng tơi chỉ đề cập đến một
số phương diện cụ thể như: không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam. Để một lần nữa khẳng định được sức ảnh hưởng to lớn của Thạch Lam
đối với các thế hệ độc giả.

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Khóa luận chủ yếu tập trung phân tích, làm nổi bật khía cạnh khơng gian và
thời gian nghệ thuật trong các sáng tác của Thạch Lam. Từ đó cho thấy được phong
cách nghệ thuật trong văn chương của tác giả Thạch Lam, một trong những cây bút
chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Thực hiện đề tài “Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Thạch Lam từ góc nhìn thi pháp học”, chúng tơi tập trung nghiên cứu về một số
truyện ngắn của Thạch Lam trong ba tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn (1938) và Sợi tóc (1942), ba tập truyện này đã được tổng hợp trong
quyển Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2015
5.

Ý nghĩa của đề tài
Chúng tôi chọn đề tài “Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện

ngắn Thạch Lam từ góc nhìn thi pháp học” là để tìm tịi, nghiên cứu về thi pháp
cũng như phong cách nghệ thuật các tác phẩm truyện ngắn của ông để góp phần lý
giải sức sống của văn chương Thạch Lam trong lịng cơng chúng cho đến ngày hơm
nay.


9


Đồng thời, đề tài này cũng có thể giúp ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy
về tác giả Thạch Lam cũng như các sáng tác của ông trong chương trình Ngữ Văn
phổ thơng.
6.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hồn thành khóa luận, chúng tôi thực hiện các phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Phương pháp lịch sử xã hội: đây là phương pháp sử dụng những thông tin
được ghi chép lại cụ thể để tìm hiểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp của tác giả
Thạch Lam. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong khóa luận.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: đây là một thao tác nghiên cứu được sử
dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học, được sử dụng để đối chiếu sự giống và khác
nhau giữa các nhà văn về phong cách, về quan niệm hay về tư tưởng. Từ đó thấy
được đặc điểm nổi bật của nhà văn đang được nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp sử dụng số liệu để
phân chia tồn bộ các tác phẩm trong q trình sáng tác của tác giả đang được
nghiên cứu thành nhiều thể loại khác nhau. Từ đó giúp chúng ta khái quát được hệ
thống tác phẩm của nhà văn được nói đến.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích là phương pháp nghiên cứu các
tài liệu, lí luận khác nhau bằng cách phân cách chúng thành từng bộ phận để tìm
hiểu sâu sắc hơn về đối tượng đang nghiên cứu. Tổng hợp là sử dụng những thông
tin, dữ liệu đã phân tích liên kết lại theo từng mặt, để tạo ra sự logic và nhất quán
trong việc nghiên cứu.
- Phương pháp sử dụng thi pháp học: Thi pháp học là một phương quan trọng

trong nghiên cứu văn học. Vì thế mà trong khóa luận này, chúng tơi sử dụng
phương pháp này để tìm hiểu sâu về một khía cạnh trong hệ thống thi pháp học, đó

10


là không – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam. Từ đó làm bật lên
tính sáng tạo và tư duy nghệ thuật của tác giả.
7.

Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo, phần nội dung

gồm 3 chương:
Chương 1: Tác giả Thạch Lam và cơ sở lý luận chung
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam
Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TÁC GIẢ THẠCH LAM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.

Tác giả Thạch Lam

1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam
1.1.1.1.


Cuộc đời

Thạch Lam là cái tên quen thuộc trên văn đàn văn học nghệ thuật Việt Nam.
Ông mất khá sớm, khi mới 32 tuổi, ở độ tuổi chín mùi của văn nghiệp. Dù thời gian
cầm bút của Thạch Lam không dài, nhưng ông đã để lại cho đời nhiều áng văn đặc
sắc, nhất là những sáng tác truyện ngắn.
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Vinh, nhưng tới năm mười lăm tuổi
ông làm khai sinh lại và đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Ngoài bút danh chính là
Thạch Lam, ơng cịn có bút danh khác là Việt Sinh và khi viết sách cho thiếu nhi,
ông lấy bút danh là Thiện Sỹ
Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 (tức ngày 1 tháng 6 năm Canh
Tuất) tại Ấp Thái Hà, Hà Nội, trong một gia đình cơng chức, gốc quan lại đã đến
hồi sa sút. Ông là em ruột của nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng
Đạo (Nguyễn Tường Long) hai cây bút quan trọng của nhóm Tự lực văn đồn.
Q nội ông ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại ở Cẩm Giàng,
Hải Dương. Cha của Thạch Lam là cụ Nguyễn Tường Nhu, sinh thời làm đến chức
Thông Phán nên còn được gọi là Phán Nhu. Mẹ Thạch Lam là bà Lê Thị Sâm, con
của ông Lê Quang Thuận, một đồng sự của ông nội Thạch Lam khi ông làm tri
huyện ở Cẩm Giàng (Hải Dương).
Gia đình Thạch Lam có tất cả bảy người con, sáu người con trai và một
người con gái: Tường Thụy, Tường Cẩm, Tường Tam, Tường Long, Thị Thế,
Tường Vinh và Tường Bách. Trừ anh cả Tường Thụy là cơng chức nhà nước thì các
người con cịn lại đều đã ít nhiều dự vào nghiệp văn chương. Trong số đó, nổi bật
nhất là Tường Tam (Nhất Linh), Tường Long (Hoàng Đạo) và Tường Vinh (Thạch
Lam).
12


Theo người nhà Thạch Lam kể lại thì một lần, trong lúc từ Cẩm Giàng lên
Hà Nội tiếp tế tiền gạo cho hai con học tập, ông Nhu (cha Thạch Lam) gặp lại viên

Công sứ Hải Tường, là người lãnh đạo cũ của ông, và được ông này mời sang Sầm
Nứa (Lào) để làm thông ngôn. Năm ấy đang lúc mất mùa, lũ lụt triền miên, việc
buôn bán lâm vào cảnh khó khăn nên ơng Nhu nhận lời ngay. Ngày 31 tháng 7 năm
1917, ông Nhu sang Lào nhưng chỉ làm được tám tháng thì mắc bạo bệnh qua đời,
khi đó Thạch Lam mới bảy tuổi. Kể từ đó, mẹ của Thạch Lam phải một mình mua
bán tảo tần ni mẹ chồng và bảy người con. Bà Nhu đã phải thay đổi chỗ ở nhiều
lần để có thể gánh vác cơ nghiệp của dòng họ Nguyễn Tường.
Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình tại phố huyện Cẩm Giàng và theo
học tại trường Nam (ngày nay là trường tiểu học Tơ Hiệu), đây cũng chính là nơi
gắn bó sâu sắc và có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự nghiệp văn học của ông.
Đến năm mười lăm tuổi, sau khi đã thi đỗ Cao đẳng tiểu học, Thạch Lam đã
nhờ mẹ làm lại giấy khai sinh, đổi tên và tăng tuổi để vào học trường Canh Nông
(Tuyên Quang). Nhưng được một thời gian sau, gia đình ơng lại chuyển về Hà Nội,
ông thôi học trường Canh Nông và quyết định theo học trường Albert Sarraut để thi
tú tài.
Đỗ được tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học và quay về nhà tự học
cùng với các anh. Năm 1932, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) sáng lập nên nhóm
Tự lực văn đồn. Thạch Lam cũng bắt đầu sự nghiệp văn chương từ đây. Mới đầu,
Thạch Lam được phân công làm biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay. Ơng
sáng tác bài cho các báo với đủ các thể loại truyện, tùy bút,… Đến đầu năm 1935
thì ơng được giao làm chủ bút của tờ Ngày nay
Khi Thạch Lam khoảng hai mươi lăm tuổi, ông lấy vợ và được người chị là
bà Nguyễn Thị Thế nhường lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà
Nội) cho vợ chồng ông ở.

13


Ngôi nhà của Thạch Lam tuy nghèo nàn, đơn sơ và chỉ là một mái tranh vách
đất, thế nhưng “nhà cây liễu” (gọi là “nhà cây liễu” vì trong sân sát hồ có cây liễu

lớn, thân nâu sần sùi nứt nẻ, bóng rũ thướt tha, do chính tay Thạch Lam trồng) là
nơi thường lui tới của các văn nghệ sĩ. Ngồi các thành viên trong nhóm Tự Lực văn
đồn, cịn có: Thế Lữ, Vũ Hồng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Xn Sanh, Nguyễn
Tuân, Huyền Kiêu, Nguyễn Xuân Khoát,...
Thạch Lam mất tại đây vào ngày 28 tháng 6 năm 1942 (tức ngày 15 tháng 5
năm Nhâm Ngọ) vì căn bệnh lao phổi khi ông mới vừa ba mươi hai tuổi.
Thạch Lam ra đi để lại người vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ (hai trai, một
gái) trong cảnh nghèo nàn, đơn sơ. Gia đình đã an táng ơng nơi nghĩa trang Hợp
Thiện, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
1.1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ năm 1932, là thành viên của nhóm
Tự lực văn đồn. Ơng sáng tác khá nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, bút
ký, tiểu luận, phê bình văn học và thời đàm. Bên cạnh đó, Thạch Lam còn tham gia
biên tập các tờ tuần báo như Phong hóa, Ngày nay. Hầu hết các sáng tác của Thạch
Lam đều được đăng báo trước khi in thành sách. Tác phẩm in sau ngày ơng mất chỉ
có quyển Hà Nội băm sáu phường.
Các tác phẩm chính của Thạch Lam bao gồm:
- Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1937)
- Nắng trong vườn (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1938)
- Ngày mới (truyện dài, Nxb Đời nay, 1939)
- Theo dịng (bình luận văn học, Nxb Đời nay, 1941)
- Sợi tóc (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1942)
- Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, Nxb Đời nay, 1943)
14


- Và bốn quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc, Hai
chị em và Lên chùa. Cả bốn quyển đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành
năm 1940 và 1941.
Khác với các thành viên khác trong nhóm Tự lực văn đoàn như Nhất Linh,

Hoàng Đạo, hay Khái Hưng, ngòi bút của Thạch Lam hướng vào cuộc sống của
những người nơng dân bình thường nghèo khổ và dường như ông muốn đến gần
hơn với những con người nghèo khổ bình thường ấy.
Thạch Lam là một người nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn, ln hướng đến cái
đẹp. Đối với ông, những tác phẩm văn chương phải là đi sâu vào tìm kiếm cái đẹp
đã bị đánh mất và chính ơng cũng là người suốt đời chắt chiu cái đẹp. Theo Thạch
Lam thì “cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm tiềm tàng ở
mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ khơng ai
ngờ, tìm cái đẹp kín đáo để che lấp của sự vật khác một bài học trơng nhìn và
thưởng thức” [1; 34] . Chính vì thế mà trong sự nghiệp sáng tác của mình, Thạch
Lam ln hướng ngịi bút về cái đẹp tiềm ẩn trong mọi ngõ ngách của cuộc sống,
nhất là những cái đẹp trong tâm hồn con người. Có thể thấy trong các tác phẩm của
Thạch Lam, rất ít sự hiện diện của những nhân vật phản diện, của cái xấu, cái ác mà
đầy những con người đẹp trong nhân cách và tâm hồn. Do vậy, truyện ngắn của
Thạch Lam ít ngột ngạt mà lại luôn đậm đà chất thơ. Và con người trong sáng tác
của Thạch Lam luôn là những người lao động nghèo khổ. Ơng ln u thương,
trân trọng và tìm cách thức tỉnh họ trước cuộc đời tăm tối. Điều này đã khiến cho
văn chương của ơng có điểm khác biệt vượt bậc so với những thành viên khác của
nhóm Tự lực văn đồn.
Tác phẩm của Thạch Lam tuy không nhiều, thế nhưng những giá trị được
ông thể hiện trong các sáng tác của mình dường như trường tồn mãi theo thời gian.
Đọc Thạch Lam, chúng ta không những tìm thấy được những vẻ đẹp vĩnh hằng mà
cịn cảm nhận được bóng dáng của đời sống tinh thần, đời sống nội tâm phong phú
của chính mình.
15


1.1.2. Quan niệm văn chương của Thạch Lam
Thạch Lam là một nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945. Theo hồi ức của dòng họ Nguyễn Tường đương thời,

“Thạch Lam là một người khơng ưa sự ồn ào, hào nhống mà thích một cái gì kín
đáo, bình dị” [1; 22]. Tuy cầm bút theo tun ngơn của nhóm Tự lực văn đồn
nhưng ở Thạch Lam vẫn có cái gì đó rất riêng biệt. Ơng dường như vẫn lặng lẽ âm
thầm tìm kiếm cho mình một hướng đi riêng, một phong cách viết riêng để khẳng
định bản lĩnh và cá tính. Chính vì thế mà lúc bấy giờ, sách của Thạch Lam là sách
bán “ế” nhất so với các nhà văn khác của nhóm Tự lực văn đồn. Thế nhưng, hơn
nửa thế kỷ sau, độc giả càng ngày càng phát hiện ra vẻ đẹp vĩnh hằng trong mỗi
trang viết của Thạch Lam. Bởi vì “sự hướng tới một thế giới tinh thần trong sáng,
giàu tính thiện của những con người qua sự miêu tả của Thạch Lam, sẽ không bao
giờ là những giá trị lỗi thời ở mọi thời đại” [1; 23].
Mỗi nhà văn đều có một “tun ngơn” nghệ thuật riêng cho sự nghiệp cầm
bút của mình. Và quan niệm văn chương chính là cái cách nhìn, cách cảm nhận vấn
đề và thái độ của nhà văn trước vấn đề đó trong hiện thực cuộc sống. Đó chính là sự
thể hiện cái giới hạn tối đa trong cách hiểu của nhà văn về thế giới, con người và về
văn học. Bên cạnh đó, quan niệm văn chương nghệ thuật cũng chính là cơ sở, là tiêu
chuẩn để người đọc tìm hiểu và đánh giá về tác phẩm văn học, để nghiên cứu sự
phát triển của văn học.
Khi nói đến văn chương nghệ thuật, chúng ta không thể không nhắc đến cái
đẹp. Mỗi nhà văn đều hướng mình đến cái đẹp trong cuộc đời và trong văn chương.
Giống như Nguyễn Tuân hay bất kì một tác giả nào khác, Thạch Lam cũng quan
niệm nhà văn chính là một người đi tìm kiếm cái đẹp trong suốt cuộc đời cầm bút.
Ông cũng đã từng bộc bạch: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng
ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái
đẹp ở chính chỗ khơng ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp cái sự vật cho
người khác một bài học trơng nhìn và thưởng thức” (Tiểu luận Theo dòng) [1; 34].

16


Với Thạch Lam, cái đẹp khơng phải là cái gì trừu tượng mà cái đẹp rất cụ thể theo

cách nhìn và suy nghĩ của nhà văn. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam đều mang một
vẻ đẹp có ý nghĩa văn hóa lâu dài. Khơng khí và nhân vật trong sáng tác của ông
đều mang đậm sắc thái, vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của con người, của đất nước
Việt Nam. Đọc Thạch Lam, chúng ta như được hịa mình vào khung cảnh thiên
nhiên thơ mộng của làng quê Việt Nam với “tiếng trống thu không”, với “phương
tây đỏ rực như lửa cháy và những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” với
“dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” [11; 133]. Rồi
những bức tranh thơn q thanh bình và n ả. Hay đắm chìm trong những phiên
chợ quê đầy âm thanh của tiếng cười, tiếng nói, tiếng địn gánh. Hay cảm nhận được
cả những hương vị rất riêng, rất đậm đà bản chất Việt Nam. Thế nhưng vẻ đẹp mà
Thạch Lam tìm kiếm khơng chỉ dừng lại ở những khung cảnh quê hương đất nước
mà còn ở trong tâm hồn người con đất Việt. Đó là hình ảnh rất đẹp của những người
phụ nữ tảo tần, chịu thương chịu khó, ln hi sinh mình vì người khác như mẹ Lê,
như cơ Tâm hàng xén,…Đó là vẻ đẹp của mối tình đầu trong sáng, lãng mạn khơng
dễ gì gặp lại lần thứ hai trong cuộc đời. Đó là vẻ đẹp của sự hoàn thiện bản thân khi
biết sám hối và vượt qua được chính mình trong một khoảnh khắc nào đó. Và đó
chính là vẻ đẹp của sự khao khát trở về với những giá trị tinh thần vĩnh cữu, bất
diệt: tình yêu thương con người. Những vẻ đẹp ấy ẩn giấu tiềm tàng ở bất kỳ nơi
đâu, ở bất cứ người nào. Theo dịng chảy khơng ngừng của thời gian, những vẻ đẹp
ấy có thể bị mất đi, bị mai một, chính vì vậy mà chúng ta phải tìm ra, phải q
trọng, nâng niu nó như nâng niu chính vẻ đẹp tâm hồn mỗi con người chúng ta vậy.
Có thể thấy một điều rất rõ ràng là ở ngoài đời, Thạch Lam khá điềm đạm và
ít nói, thế nhưng đối với văn chương, ông là một con người vô cùng nghiêm túc và
sâu sắc. Nhà văn Hồ Dzếch cũng đã từng nói về Thạch Lam là một “người viết khó
khăn và rất thận trọng” [1; 23]. Chính vì vậy mà quan niệm về văn chương của ông
cũng rất đặc biệt.

17



Nếu như đối với Marxim Gorki: “Văn học là Nhân học”, và đối với Nam
Cao: “nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối” thì đối với Thạch Lam, ơng lại
có quan niệm về vai trị và tác dụng của văn chương đối với con người và xã hội
như sau: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc
sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc
lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa
làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. [1; 455]
Phát biểu của Thạch Lam đã cho chúng ta thấy được sự mới lạ trong quan
niệm về văn chương nghệ thuật của ông. Quan niệm ấy đã vượt qua khỏi cái quỹ
đạo tư tưởng của nhóm Tự lực văn đồn tiến lên một tầm cao tư tưởng nghệ thuật
mới – tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”. Thạch Lam đã xây dựng nên một thứ văn
chương có một mối quan hệ mật thiết với đời sống, với xã hội mà khơng thốt li
thực tại. Theo Thạch Lam thì “một nhà văn khơng thành thực, không bao giờ trở
nên một nhà văn giá trị. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ
khéo tay thơi” [1; 281]. Mọi sự bóp méo, tơ hồng hiện thực đều là sự giả tạo trái với
lương tâm của người cầm bút. Đối với Thạch Lam thì tính chân thực của nhà văn và
tác phẩm văn học chính là vai trị quyết định quan trọng làm nên giá trị của văn
chương nghệ thuật. Ngồi ra, theo ơng các sáng tác nghệ thuật phải góp phần đấu
tranh cho cái thiện toàn thắng, phải khiến cho con người hướng đến cuộc sống tốt
đẹp hơn.
Đối với Thạch Lam văn chương phải mang đến cho bạn đọc những giá trị
trường tồn, những ý nghĩa nhân sinh quan của nhà văn đối với mọi khía cạnh của
cuộc sống, đối với mọi góc độ sáng tối khác nhau của xã hội, để người đọc có thể
cảm nhận được thực tại như đang diễn ra trước mắt họ. Và với phát biểu trên, Thạch
Lam đã phải bút chiến với quan niệm nghệ thuật thoát ly của dòng văn học lãng
mạn giai đoạn 1930 – 1945. Có thể thấy rằng Thạch Lam đã đi ngược lại quan điểm
của một số nhà văn, những người chán ghét với thực tại đen tối, xấu xa và luôn
hướng văn học đến quan điểm thốt li. Họ khi thì thốt lên tiên, khi thì trốn vào ái

18



tình ảo mộng: “Tơi khờ khạo lắm, ngu ngơ q. Chỉ biết u thơi chẳng biết gì”
(Xn Diệu). Bên cạnh đó cịn có những tác giả lại muốn trốn vào “Một vì sao trơ
trọi cuối trời xa. Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh, những ưu phiền đau khổ với
buồn lo” (Chế Lan Viên). Hay họ là những người đã đưa người đọc chìm đắm trong
những cơn say hoan lạc để quên hết đi thực tại của xã hội đương thời. Đây cũng chỉ
là những biểu hiện yếu đuối và bất lực của các nhà văn đối với xã hội giả dối và tàn
ác đương thời. Thạch Lam không đồng tình với thái độ quay lưng với hiện thực của
người nghệ sĩ vì theo ơng, điều đó dường như là thứ sát giới giết chết nghệ thuật.
Ơng viết “Có nhiều nhà văn khơng dám nhìn thẳng sự thật bao giờ. Trong tác phẩm
của họ, những cảnh tả đều là bịa đặt, khơng có thật, các nhân vật điều khn sáo
tâm lí sẵn có trong các sách trước” [1; 282]. Ông nhấn mạnh rằng nhà văn thực tài
phải là người phản ánh được trong tác phẩm của mình sự phức tạp và phong phú
của cuộc sống đang diễn ra và biến đổi không ngừng. Thạch Lam quan niệm rằng
văn chương phải gắn bó mật thiết với đời sống con người, phải phản ánh được hiện
thực chứ không phải là thứ văn chương khiến cho tâm hồn con người càng thêm ủy
mị, sướt mướt, thoát ly ra khỏi thực tại xã hội. Tuy là một trong những cây bút chủ
lực nhưng Thạch Lam lại có quan điểm văn chương rất khác biệt so với các thành
viên khác của Tự lực văn đồn mà quan điểm văn chương của ơng lại gần gũi với
Nam Cao: “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên
là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm
than” (Trăng sáng) hay quan niệm văn chương phải là sự thật ở đời của Vũ Trọng
Phụng. Nhà văn phải thành thực trong cảm xúc, phải dám nhìn thẳng vào sự thật, đó
mới là Thạch Lam. Bên cạnh đó, đối với Thạch Lam, người nghệ sĩ không được
phép chạy theo thời thượng nhằm thỏa mãn thị hiếu thấp hèn của một bộ phận độc
giả, càng khơng được phép bán đứng ngịi bút vì ma lực của đồng tiền. Bởi vì
những tác phẩm văn chương kém chất lượng chỉ trong một thời gian ngắn sẽ bị đi
vào sự quên. Cuối cùng chúng bị xóa sổ trên văn đàn.
Đối với Thạch Lam, văn chương nếu chỉ tố cáo những bất công ngang trái,

xấu xa của xã hội đương thời thơi thì vẫn chưa đủ, vẫn chưa thật sự là sáng tạo nghệ
19


thuật mà văn chương còn phải thay đổi được cái xã hội ấy, lật ngược lại tình thế của
xã hội. Có thể nói rằng quan niệm về văn chương của Thạch Lam quả thật rất sâu
sắc và toàn diện. Cũng giống như nhà văn Lỗ Tấn đã phải bỏ nghề thuốc, chọn nghề
viết văn để chữa trị căn bệnh tinh thần của nhân dân ở đất nước mình. Vì theo Lỗ
Tấn, căn bệnh tinh thần là một loại bệnh đáng sợ và gây hậu quả khơn lường cịn
hơn cả bệnh thể xác. Thạch Lam vừa quan tâm đến những vấn đề của xã hội, vừa tố
cáo cái xã hội tàn ác ấy. Thạch Lam rất để tâm đến sự tác động mạnh mẽ của văn
chương nghệ thuật đối với tâm hồn con người, để làm cho “lòng người được thêm
trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam quan niệm rằng văn chương phải có một
khả năng đặc biệt đó là làm thay đổi con người từ bên trong tâm hồn, làm cho thế
giới nội tâm của con người có những biến động khơng nhỏ, góp phần vào việc xây
dựng một tâm hồn con người trong sạch và thanh cao. Bên cạnh đó, văn chương cịn
có nhiệm vụ vạch trần, phê phán và tố cáo những thói hư tật xấu của con người, của
xã hội, đồng thời phải xây dựng một đời sống tinh thần trong sạch và thanh cao cho
con người. Văn chương nghệ thuật chân chính ln có sức thuyết phục và cảm hóa
con người một cách mạnh mẽ, đồng thời phải góp phần hướng con người đến sự
phát triển và hoàn thiện đạo đức, nhân cách, đưa con người hướng đến Chân –
Thiện – Mỹ. Có thể thấy rằng, các nhà văn hiện đại luôn quan tâm đến sự hoàn
thiện của nhân cách con người, và sự hoàn thiện ấy được con người đúc kết từ trong
những gì nhà văn thể hiện trong những đứa con tinh thần của mình. Cái thế giới tâm
linh kì diệu trong văn chương khiến tâm hồn con người ta phong phú hơn, sâu sắc
hơn.
Các sáng tác của Thạch Lam luôn hướng con người tới cái thiện và sự cao
cả. Nhất là trong các truyện ngắn của ông. Thạch Lam luôn mong muốn dùng ngịi
bút của mình mà thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác, để đem lại sự thanh lọc cho
tâm hồn con người.

Trong nhóm Tự lực văn đồn, nếu Khái Hưng, Nhất Linh hay Hồng Đạo
hướng ngịi bút của mình đến về những kiếp người nhỏ bé bằng sự xót thương của

20


tầng lớp thượng lưu nghiêng mình xuống nỗi thống khổ của những người thuộc tầng
lớp dưới mình thì Thạch Lam lại hồn tồn khác. Ơng viết bằng tất cả sự cảm thơng
của mình đối với mọi kiếp người. Ơng trân trọng nâng niu giá trị của con người và
ông luôn có một ý thức tìm kiếm được vẻ đẹp tiềm tàng trong mỗi con người thuộc
mọi tầng lớp khác nhau. Thế nên, trong sáng tác của Thạch Lam, hình ảnh con
người hiện lên khác với hình ảnh con người bị tha hóa, bị lưu manh hóa và khơng
lối thốt của Nam Cao, khác với hình ảnh con người vơ nghĩa lý của Vũ Trọng
Phụng mà đó là những con người nghèo nhưng không hèn. Ở những nhân vật trong
tác phẩm của Thạch Lam luôn tỏa ra một thứ ánh sáng lấp lánh mang đầy ước mơ
trong sáng và lành mạnh, vượt qua khỏi cái bóng tối đang giữ chân họ, vượt qua
khỏi cái nỗi buồn của một kiếp lầm than, vượt qua khỏi cái thân phận và hồn cảnh
của chính bản thân mình. Mẹ Lê dù sắp trút hơi thở cuối cùng cũng có một mong
muốn giản dị, xốy sâu vào tâm can con người: “Có người mướn làm” để có tiền lo
cho các con thơ dại. Hay ước muốn được trở về sống trong vòng tay yêu thương của
gia đình của hai cơ gái giang hồ trong Tối ba mươi. Hay Liên và An vẫn sáng ngời
lên niềm khao khát và ước mơ về một thế giới khác bao điều kì diệu dù ở trong cái
nhịp điệu tẻ nhạt lặp đi lặp lại hằng ngày ở nơi phố huyện nghèo khổ, chỉ có ánh
sáng leo lắt của cái đèn Hoa Kì con con. Và có lẽ khơng chỉ có Liên và An mới có
những ước mơ cao đẹp ấy mà ngay cả những con người trong bóng tối như chị Tý,
như bác Sẫm cũng “mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc đời nghèo khó của họ”
(Hai đứa trẻ). Chính bởi những ước mơ đó đã nâng tầm nhân vật của Thạch Lam lên
trên một bậc, khiến họ trở thành những con người cao cả trong một cuộc đời tăm tối
cùng cực. Vì thế mà chúng ta hiểu được rằng tại sao văn chương của Thạch Lam
thấm đẫm chất hiện thực nhưng người ta vẫn xếp ông vào hàng ngũ của các nhà văn

lãng mạn. Lãng mạn và hiện thực như hai yếu tố hòa quyện chặt chẽ với nhau trong
văn chương của Thạch Lam, tạo cho văn ông một vẻ đẹp không lẫn vào đâu được:
nhẹ nhàng, man mác nhưng vẫn có sức lan tỏa và thấm sâu vào tâm hồn người đọc.
Đọc Thạch Lam, chúng ta khơng có cảm giác tù túng, ngột ngạt và bức bối như khi
đọc của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao hay Ngô Tất Tố. Thế nhưng, Thạch Lam
21


vẫn lay động được lòng người qua các sáng tạo nghệ thuật của ơng. Bằng chứng rõ
nhất đó là câu chuyện Nhà mẹ Lê cũng ám ảnh vào sâu tâm trí người đọc về cái
nghèo, cái khốn cùng khổ cực của con người như Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Hay cái
bi kịch về miếng ăn của Sinh trong truyện ngắn Đói cũng khiến chúng ta day dứt
khơn ngi như cái bi kịch sống mòn của Thứ. Cái lãng mạn và cái hiện thực trong
tác phẩm của Thạch Lam như hai sợi dây bện chặt cào nhau không thể tháo rời.
Giữa thời kì mà các nhà văn, nhà thơ khác đang say sưa thốt li thì quan niệm văn
chương của Thạch Lam lại là một quan niệm tích cực, có tác dụng lâu dài trong nền
văn học dân tộc.
Thạch Lam đã đem đến cho người đọc một cái gì đó rất nhẹ nhõm, rất yên
lành và mát dịu. Độc giả như được sưởi ấm bởi tinh thần nhân đạo cao cả trong mỗi
trang văn của ông. Thạch Lam là một nhà văn thiên về cảm xúc, một nhà văn thuộc
trường phái lãng mạn nhưng những tác phẩm của ông lại đi theo quan điểm “nghệ
thuật vị nhân sinh”. Cũng vì lẽ đó mà Thế Lữ từng nhận xét Thạch Lam là người
“sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh viết trên giấy. Sự thực của tâm hồn mà
Thạch Lam diễn tả trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng
bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của
tình thương” [1; 150]. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã cho rằng các sáng tác của
Thạch Lam đã chịu đựng được sự khắc nghiệt của thời gian để đón nhận được sự
yêu mến và trân trọng của bạn đọc cho đến ngày hơm nay. Cũng bởi vì theo tác giả
Nguyễn Trọng Đức, “những quan niệm văn chương tinh vi, sắc sảo của Thạch Lam
đã góp phần khơng nhỏ vào việc làm phong phú tư duy lí luận và hiện đại hoá nền

văn học nước ta chặng đường đầu thế kỷ hai mươi” [4].
1.2. Khái niệm không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng
1.2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
Trong quá trình con người chiếm lĩnh và tái hiện hiện thực bằng nghệ thuật
thì khơng gian nghệ thuật chiếm vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách
nhân vật, tư tưởng chủ đề của các sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói khơng gian nghệ
22


thuật là một phạm trù quan trọng trong hệ thống thi pháp học và là phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, là mơ hình nghệ thuật về cuộc sống. Bên cạnh đó, khơng gian
nghệ thuật cũng góp phần thể hiện quan điểm sáng tác của các nhà văn, nhà thơ và
tạo nên tính chỉnh thể của hình thức nghệ thuật.
Trong Từ điển tiếng Việt cũng đã giải thích khơng gian là “hình thức tồn tại
cơ bản của vật chất, trong đó các vật thể có độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ ở
cạnh cái kia” [13; 632], và tác giả Hồng Phê cũng đã cắt nghĩa khơng gian chính là
“khoảng không gian bao trùm lên tất sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con
người” [13; 633]. Như vậy, theo cách giải thích của các tác giả trong cuốn Từ điển
tiếng Việt thì khơng gian chính là mơi trường chúng ta đang sống với sự tồn tại của
các sự vật. Khơng gian chính là hình thức tồn tại của vật chất với những thuộc tính
như cùng tồn tại và tách biệt, có chiều kích và kết cấu. Khi nói đến khơng gian,
chúng ta thường hay quy nó về một khơng gian địa lý nào đó.
Thế nhưng, khơng gian nghệ thuật lại là một phạm trù khác hẳn. Nó là khơng
gian thuộc về hình thức nghệ thuật mà theo tác giả Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học thì: “Khơng gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình
tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất
định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ tồn bộ quảng tính của nó:
cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng,
dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về

khơng gian, nên mang tính chủ quan. Ngồi khơng gian vật thể, có khơng gian tâm
tưởng. Do vậy khơng gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được
vào không gian địa lý” [5; 162], hay khơng gian nghệ thuật chính là một phương
thức tồn tại và phát triển của thế giới nghệ thuật.
Như vậy, ta có thể hiểu khơng gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình
tượng nghệ thuật. Tức là tác giả bao giờ cũng đặt nhân vật của mình vào một khơng
gian nhất định để khắc họa hình tượng. Mặt khác, chúng ta có thể thấy rằng khơng
23


gian nghệ thuật khơng chỉ là nơi để hình tượng nghệ thuật tồn tại mà còn là nơi để
tác giả có thể bộc lộ được tính tư tưởng của hình tượng.
Bên cạnh đó, Trần Đình Sử cũng đã lí giải thêm: “Khơng gian nghệ thuật là
hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật” [16; 88]. Ơng cịn nhấn mạnh rằng:
“Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nhà nghệ sĩ nhằm biểu hiện con
người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, do đó khơng thể quy nó về
khơng gian địa lý hay khơng gian vật lý, vật chất” [16; 88 – 89]. Theo ông thì không
gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và phát triển của thế giới nghệ thuật. Đời
sống con người được chiếm lĩnh bởi khơng gian nghệ thuật. Ngồi ra, khơng gian
nghệ thuật cịn mang ý nghĩa biểu tượng của nghệ thuật. Theo Trần Đình Sử thì sự
miêu tả, trần thuật bên trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhìn, một cách nhìn của tác giả đối với sự vật, sự việc diễn ra xung quanh mình.
Chính vì thế mà khơng gian nghệ thuật mang đậm tính chủ thể, nhờ tính chủ thể này
mà không gian trong các tác phẩm nghệ thuật được mở rộng đa chiều.
Trong việc nghiên cứu không gian nghệ thuật, các tác giả cũng đã có sự phân
loại khơng gian nghệ thuật như sau:
Theo như trong cuốn Dẫn luận thi pháp học của Trần Đình Sử, thì ơng đã
dựa vào các tiêu chí vị trí, giới hạn của sự vật để chia thành không gian điểm (địa
điểm), không gian tuyến và khơng gian mặt phẳng. Ơng cịn dựa vào sự biến đổi, sự
vận động của sự vật hiện tượng để chia thành khơng gian bên trong (phi thời gian,

khơng có sự biến đổi) và khơng gian bên ngồi (vơ thường, có sự biến đổi ngẫu
nhiên). Ngồi ra cịn có khơng gian hành động và phi hành động.
Trong Những vấn đề thi pháp của truyện, tác giả Nguyễn Thái Hòa đã phân
chia không gian nghệ thuật thành các loại cụ thể. Đầu tiên là không gian bối cảnh.
Đây là không gian rộng lớn nhất mà câu chuyện xảy ra, gồm có: bối cảnh thiên
nhiên, bối cảnh xã hội, bối cảnh tâm trạng. Kế tiếp là không gian sự kiện, không
gian tâm lý, không gian đối thoại và không gian kể chuyện,

24


Tác giả Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương trong Lý luận văn học vấn
đề và suy nghĩ cũng đã phân chia không gian nghệ thuật thành không gian thiên
nhiên và không gian sinh hoạt. Hai loại không gian này luôn gắn liền với con người,
với khát vọng, lý tưởng của con người. Đó là khơng gian có sự vận động đa chiều,
linh hoạt nhưng cũng có thể tĩnh lặng đến khơng ngờ.
Qua những ý kiến nêu trên, có thể thấy khơng gian nghệ thuật có ý nghĩa
quan trọng trong việc miêu tả đời sống, bộc lộ tâm tư, tình cảm trong tâm hồn nhân
vật của các tác giả văn học. Như trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã miêu tả một
không gian phố huyện nghèo nàn, xơ xác và tối tăm. Đó là một khơng gian chật hẹp
và tĩnh lặng. Dưới cái nhìn của chị em Liên, bức tranh phố huyện nghèo trở nên
chân thật hơn, bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật An và Liên, giúp cho người
đọc thấm thía được sự tiêu điều, ảm đạm, xác xơ. Để từ cái khơng gian đìu hiu ấy
mà Thạch Lam đã chấm bút nghệ thuật cho hình tượng chuyến tàu đêm. Qua đó bộc
lộ được những khát vọng về một tương lai tươi sáng hơn trong cuộc đời của những
đứa trẻ, của những con người nghèo khổ nơi đây.
Ngồi ra, có thể thấy rằng khơng gian nghệ thuật cịn mang tính quan niệm.
Như trong cổ thi, khơng gian thường là những nơi tượng trưng cho sự thanh sạch,
nhàn nhã, xa lánh bụi trần. Hay gần hơn là không gian sống mòn của nhân vật Thứ
trong tác phẩm Sống mịn của nhà văn Nam Cao.

Có thể nói khơng gian nghệ thuật chính là một trong những yếu tố quan
trọng khơng thể thiếu của tác phẩm văn học. Vai trị của không gian nghệ thuật
không chỉ là xác định cho chúng ta biết nơi sự việc diễn ra trong câu chuyện mà nó
cịn là nơi thể hiện tâm trạng nhân vật, để chúng ta có thể đánh giá đạo đức, thẩm
mĩ của nhân vật.
Qua sự phân loại của không gian nghệ thuật, có thể thấy quan điểm thống
nhất giữa các tác giả về khơng gian nghệ thuật. Đó chính là hình thức tồn tại của thế
giới nghệ thuật. Và các nhân vật đều sống trong không gian nghệ thuật ấy. Bên
25


×