Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Tội phạm hóa hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.59 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LUẬT

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015-2016
XÉT GIẢI THƯỞNG "TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT"
NĂM 2016

TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI LIÊN QUAN ĐẾN
MUA BÁN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI

Thuộc Nhóm Ngành Khoa Học: Khoa học xã hội & nhân văn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

BLHS: Bộ luật hình sự
BPCT: Bộ phận cơ thể
BS: Bác sĩ
CSHS: Chính sách hình sự
CSPL: Chính sách pháp luật


GS: Giáo sư
HSH: Hình sự hóa
PHSH: Phi hình sự hóa
9. TS: Tiến sĩ


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay cuộc sống ngày càng hiện đại và phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng
tiến bộ, việc thay thế một hay nhiều bộ phận cơ thể người hoặc là nội tạng đã trở nên đơn
giản đối với nền khoa học hiện tại. Việc thay thế một nội tạng bệnh tật, mất dần đi chức
năng vốn có bằng một nội tạng khác khỏe mạnh sẽ giúp nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi
thọ của con người.
Chính vì vậy, việc một cá nhân hay tổ chức bằng hành vi, thủ đoạn nhằm lấy hoặc
buôn bán nội tạng, bộ phận cơ thể người một cách trái pháp luật nhằm thu được một
khoản lợi nhuận lớn khơng chỉ trái pháp luật mà cịn phi nhân tính và trái đạo đức.
Nhìn một cách khái qt tình trạng hiện nay, ta sẽ thấy được rất nhiều hành vi được
đưa lên phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày như bắt cóc người để lấy nội tạng,
ni người để lấy nội tạng hoặc là mua bán nội tạng. Những hành vi đó thể hiện lên sự
suy đồi đạo đức của cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi đó, cùng với đó là kéo theo
bao hệ lụy về sau. Khi sống trong một xã hội với những tình trạng nói trên diễn ra nhan
nhản mà chính quyền và pháp luật không thể điều chỉnh và ngăn chặn kịp thời thì đời
sống và tâm lý của nhân dân sẽ như thế nào? Họ sẽ sống trong tình trạng lo âu, sợ phải đối
mặt bọn bắt cóc nhằm lấy nội tạng, những kẻ buôn bán nội tạng trái pháp luật... Điều đó
sẽ ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, đến sinh hoạt cộng đồng, đến tâm lý học hành của
những em học sinh – những mầm non tương lai của đất nước cũng như những người lao
động sẽ khơng cịn tâm trí cho cơng việc làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân.
Dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự mới đã và đang đề cập đến việc tội phạm
hóa những hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhằm lấy đi mơ, nội tạng, bộ phận cơ thể
người. Tuy vậy, pháp luật hình sự tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa điều chỉnh về việc

mua bán nội tạng người trái phép hoặc chưa có chế tài thích đáng cho những hành vi nói
trên.
Thế giới đang bước vào kỉ nguyên văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ, xã hội phát
triển vượt bậc. Việc nhìn nhận tội phạm hóa những hành vi mua bán mô, tạng, bộ phận cơ
thể người là một trong những vấn đề cần thiết cần phải giải quyết. Chính vì lẽ đó việc


nghiên cứu về vấn đề tội phạm hóa hành vi mua bán bộ phận cơ thể người nhằm đưa ra
những ý kiến, quan điểm hướng đến việc hoàn thiện bộ luật Hình sự Việt Nam. Mục đích
cuối cùng là để ngăn chặn, phòng chống tội phạm, hạn chế đến mức tối thiểu những hậu
quả do hành vi của chúng gây ra và giúp Tịa án có những phán quyết cơng bằng, xác
đáng. Chính vì vậy, nhóm tác giả đã chọn đề tài “Tội phạm hóa hành vi liên quan đến mua
bán bộ phận cơ thể người” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
Mục tiêu đề tài:
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu khoa học là nhận thức đúng đắn về hành vi liên
quan đến mua bán bộ phận cơ thể người và việc tội phạm hóa hành vi này thơng qua
những lý luận về khoa học pháp luật và khoa học xã hội. Và từ những lý luận trên, nhóm
tác giả đưa ra những luận điểm khoa học và kiến nghị cụ thể về việc tội phạm hóa hành
vi mua bán bộ phận cơ thể người, hướng đến việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng
và pháp luật nói chung.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hành vi liên quan đến mua bán bộ phận
cơ thể người và việc tội phạm hóa hành vi đó.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu khoa học tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn
về những quy định về tội phạm hóa cũng như là những hành vi liên quan đến mua bán
bộ phận cơ thể người, cùng với đó là việc tham khảo những quan điểm của Tòa án ở
những vụ án có liên quan đến vấn đề nêu trên.
Cách tiếp cận

Với nền tảng là Bộ luật hình sự 1999 sử đổi, bổ sung 2009 và những quan điểm đổi
mới trong dự thảo sửa đổi Bộ luật hình sự, cũng như là BLHS 2015 mới được ra mắt gần
đây và sẽ có hiệu lực vào 01/07/2016. Nhóm tác giả cũng vận dụng tư tưởng đấu tranh
phòng chống tội phạm của nước ta hiện nay và hệ thống phương pháp luận về nhà nước
và pháp luật của chủ nghĩa Marx – Lenin . Nhóm tác giả cũng vận dụng một số luận
điểm được trình bày trong giáo trình luật Hình sự của các trường đại học, sách chuyên


khảo, bài viết của các nhà khoa học được đăng trên tạp chí pháp luật có uy tín và một số
khóa luận tốt nghiệp cử nhân, luận văn thạc sĩ.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả cịn vận dụng những thông tin được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng và các vụ án hình sự có liên quan đến đề tài.


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI LIÊN
QUAN ĐẾN MUA BÁN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI.......................................1
1.1.

Những vấn đề lý luận về tội phạm hóa.........................................................1

1.1.1. Khái niệm về tội phạm hố...........................................................................2
1.1.2. Nội dung cơ bản của tội phạm hoá...............................................................5
1.2. Những vấn đề về tội phạm hóa hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể
người....................................................................................................................... 9

1.2.1. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người...................9
1.2.1.1. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người trên thế giới
................................................................................................................................. 9
1.2.1.2. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người tại Việt Nam
............................................................................................................................... 15
1.2.2. Cơ sở ý luận về tội phạm hóa hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người
............................................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2. KIẾN NGHỊ TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI LIÊN QUAN ĐẾN MUA
BÁN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
............................................................................................................................... 37
2.1. Kiến nghị về hành vi mua bán, môi giới mua bán bộ phận cơ thể người trong pháp
luật hình sự Việt Nam............................................................................................37
2.2. Kiến nghị xây dựng cấu thành tội phạm môi giới mua bán bộ phận cơ thể người
............................................................................................................................... 45
KẾT LUẬN..........................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI LIÊN
QUAN ĐẾN MUA BÁN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
1.1.

Những vấn đề lý luận về tội phạm hóa
Để quản lý xã hội bằng pháp luật thì bất kỳ một chính sách pháp luật (CSPL) nào

do nhà nước soạn thảo ra đều nhất thiết nhằm vào một hoặc nhiều mục đích nhất định căn
cứ vào hướng triển khai chính sách tương ứng trong đời sống xã hội. Chính sách hình sự

(CSHS) bao gồm một phạm vi rộng lớn rất nhiều vấn đề mà khoa học pháp lý về tư pháp
hình sự của nước ta có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ về mặt lý luận bản chất của chúng.
Trong khoa học Luật hình sự các vấn đề của CSHS từ lâu đã được các nhà nước quan
tâm, ở nước ta vấn đề này hiện còn nhiều quan niệm khác nhau về CSHS.
Theo quan điểm của GS.TSKH. Đào Trí úc, CSHS là một bộ phận của CSPL, bởi
vì đó là những định hướng, những chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình sự và lĩnh
vực đấu tranh chống tội phạm và phịng ngừa tội phạm.1
Cịn theo TS. Phạm Thư thì CSHS là những định hướng, chủ trương, đường lối có
tính chất chỉ đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước để giải quyết các vấn đề hình sự
trong việc sử dụng pháp luật hình sự vào lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm.
CSHS là một bộ phận cấu thành của CSPL nên CSHS sự vừa gắn bó hữu cơ với chính
sách pháp luật vừa mang những đặc tính chung của CSPL và nó có mối liên hệ chặt chẽ
với đường lối, chính sách xã hội chung của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn phát triển của xã hội.2
Hoặc theo một sách chuyên khảo hiện nay, TS. Phạm Văn Lợi và tập thể tác giả
quan niệm về CSHS, căn cứ các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như sau: “CSHS trong giai đoạn đẩy
1 Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
2 Phạm Thư (2005), Chính sách hình sự và việc thực hiện chính sách hình sự ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật học,
Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội.


2
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền là một
phần của chính sách xã hội nói chung, đồng thời là CSPL trong lĩnh vực tư pháp hình sự
nói riêng và bao gồm tổng thể bốn chính sách - chính sách phịng ngừa tội phạm, chính
sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự và chính sách pháp luật thi
hành án hình sự - với tính cách là những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược
của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm đảm bảo thực hiện tốt

đường lối xử lý về hình sự, góp phần đưa các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền vào
đời sống thực tế, giáo dục công dân ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tiến tới xây dựng thành công nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 3
Theo quan điểm của tác giả Đồn Thu Trang, CSHS là chính sách của nhà nước
trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt với mục đích hồn thiện và tăng cường năng lực cho
pháp luật hình sự phục vụ cho việc đấu tranh và phịng ngừa tơị phạm. 4 Nhóm tác giả
đồng tình với quan điểm này.
Đối tượng nghiên cứu cơ bản của chính sách hình sự bao gồm các vấn đề: tội phạm
hố và phi tội phạm hố; hình sự hóa (HSH) và phi hình sự hóa (PHSH); việc áp dụng các
quy phạm pháp luật có tính chất đánh giá hoặc lựa chọn (tùy nghi); chính sách phịng
ngừa tội phạm; chính sách pháp luật hình sự; chính sách pháp luật tố tụng hình sự; chính
sách pháp luật thi hành án hình sự và đường lối xử lý về hình sự. Tội phạm hố là đối
tượng nghiên cứu đầu tiên của chính sách hình sự.
1.1.1. Khái niệm về tội phạm hoá
Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính chất hình sự - pháp lý, có nguồn gốc
và nguyên nhân từ xã hội. Mặt khác, tội phạm là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với
Nhà nước và giai cấp. Khái niệm tội phạm cũng luôn vận động và biến đổi cùng với
những vận động của xã hội. Nghiên cứu hành vi tội phạm là nghiên cứu những hành vi
mang tính cá biệt, phản xã hội của con người. Người ta có thể tiếp cận vấn đề tội phạm từ
nhiều góc độ khác nhau của các ngành khoa học khác nhau.
3 TS. Phạm Văn Lợi chủ biên (2004).Tội phạm về môi trường: một số vấn đề về lí luận và thực tiễn. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội.
4 Đồn Thu Trang (2011), Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Luận văn
thạc sĩ luật học, tr.16.


3
Khái niệm tội phạm còn là một nền tảng quan trọng của lý luận về tội phạm, nắm
vững khái niệm này giúp phân biệt chính xác và có căn cứ khoa học các loại tội phạm để
từ đó phân loại các cấu thành tội phạm cụ thể trong phần riêng luật hình sự góp phần củng

cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ hữu hiệu các quyền và tự do của con người trong
các mối quan hệ với các cơ quan tư pháp hình sự.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của Nhà nước
và pháp luật cũng như với sự sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp
đối kháng. Trong quá trình xây dựng pháp luật của nước ta, các nhà nghiên cứu khoa học
luật hình sự đã đưa ra rất nhiều quan điểm, khái niệm về tội phạm.
Dưới góc độ khoa học Luật Hình sự Việt Nam, khái niệm tội phạm có thể được
hiểu ngắn gọn như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ Luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến một hoặc nhiều quan hệ
xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.”
Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội – pháp lý, tội phạm ln chứa đựng
trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung
của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của
cơng dân. Tội phạm cũng mang tính lịch sử, nó có nguồn gốc xã hội, tồn tại và phát triển
cùng với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội lồi người. Vì vậy cần đấu tranh phịng
ngừa và chống tội phạm, đồng thời tìm ra nguyên nhân và điều kiện của nó phải xuất phát
từ xã hội, cũng như việc đưa ra các biện pháp phải phù hợp và dựa trên những quy luật
kinh tế – xã hội khách quan và có tính tất yếu gắn liền với từng giai đoạn tương ứng của
xã hội.
Tội phạm hố, thì chữ “hoá” ở đây được hiểu là một khái niệm sẽ xuất hiện tương
ứng, mà chúng ta hướng tới để xác định. Nói một cách “vĩ mơ”, thì đó là cách nhà làm
luật pháp điển hoá những hành vi của con người chưa được coi là tội phạm, thành hành vi
được coi là tội phạm, phải coi là tội phạm và quy định nó trong Bộ luật Hình sự. Nói một
cách khác, chữ “hóa” trong khái niệm “tội phạm hóa” thể hiện một quá trình biến đổi, một


4
quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về các mặt liên quan trong đời sống xã hội như chính trị,
văn hóa, lịch sử, tâm lý…của các nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự để đưa một hành

vi nào đó vào điều chỉnh trong Bộ luật hình sự.
Tội phạm hố được hiểu là một hành vi nào đó do con người thực hiện tại thời
điểm trước các nhà làm luật không cho rằng nó là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội
hoặc tính nguy hiểm cho xã hội khơng đáng để bị coi là tội phạm nên hành vi ấy không
cấu thành tội phạm nên người thực hiện hành vi ấy không bị coi là tội phạm, nhưng tại
một thời điểm khác, cũng hành vi ấy các nhà làm luật dựa trên các căn cứ về lý luận, nhận
thức, điều kiện tâm lý, kinh tế, xã hội, lịch sử... lại quy định đó là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, đủ điều kiện để cấu thành nên tội phạm nên người thực hiện hành vi đó bị coi là
tội phạm.
Để tội phạm hố một hành vi nào đó vào danh mục những hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị luật hình sự cấm và quy định nó là tội phạm thì các nhà làm luật phải căn cứ vào
rất nhiều yếu tố để phân chia những hành vi đó thành các loại tội phạm khác nhau để qua
đó xác định: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; Mức độ gây nguy hại cho xã
hội của tội phạm; Tính chất lỗi (hình thức lỗi) của tội phạm và Chế tài do luật định đối với
việc thực hiện loại tội phạm tương ứng. Căn cứ vào các tiêu chí đó, các nhà làm luật có cơ
sở đưa một hành vi nào đó vào một loại tội phạm nào đó hoặc tội phạm đó phải chịu mức
hình phạt thế nào là phù hợp.5
Phân loại tội phạm trong khoa học Luật Hình sự nhằm đảm bảo cho cơng tác đấu
tranh phịng và chống tội phạm đồng thời giúp q trình tội phạm hóa một hành vi nào đó
gây nguy hiểm cho xã hội được chính xác và đảm bảo tính nhân đạo, giáo dục, răn đe và
phòng ngừa.
Theo từ điển Bách khoa tồn thư Việt Nam: Tội phạm hóa là khái niệm gồm cả quá
trình lẫn kết quả của việc quy định loại hành vi này hay loại hành vi khác là tội phạm và
bị trừng trị bằng các biện pháp hình sự. Đây là một trong những phương thức thể hiện và
thực hiện chính sách hình sự của nhà nước.
5 Đồn Thu Trang (2011), Tội phạm hố và phi tội phạm hố trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Luận văn
thạc sĩ luật học, tr. 22.


5

Tội phạm hóa là sự ghi nhận trong pháp luật hình sự một hành vi nào đó là tội
phạm và quy định trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó. Thơng qua việc
tội phạm hóa, nhà làm luật quy định trách nhiệm hình sự đối với loại hành vi nào đó mà
trước đây hành vi đó chỉ bị coi là trái đạo đức hoặc hành vi vi phạm hành chính.
Nói tóm lại, tội phạm hóa là một chính sách hình sự của nhà nước và q trình tội
phạm hóa một hành vi nào đó trong một giai đoạn nào đó phải đủ sức ngăn chặn sự ảnh
hưởng của hành vi ấy tác động đến những giá trị xã hội được pháp luật bảo vệ. Việc tội
phạm hóa phải tn thủ ngun tắc khơng được trái với các nghành luật khác trong hệ
thống pháp luật quốc gia và các quy tắc, quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật
quốc tế. Đồng thời trong quá trình tội phạm hóa phải tham khảo có chọn lọc các thành tựu
tiên tiến của khoa học pháp lý hình sự trên thế giới, đặc biệt là trong xu thế hội nhập khu
vực và quốc tế của nước ta hiện nay.
1.1.2. Nội dung cơ bản của tội phạm hoá
Theo lý thuyết về tội phạm, xét về dấu hiệu nội dung thì tội phạm phải là hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm luôn chịu sự chi phối của
các điều kiện khách quan. Sự vận động của xã hội, sự phát triển của các điều kiện về kinh
tế, chính trị xã hội kéo theo sự thay đổi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi tính
nguy hiểm của hành vi phạm tội thay đổi thì việc áp dụng chế tài đối với hành vi đó cũng
cần thay đổi theo. Vì vậy, việc đưa vào Bộ luật hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội (tội
phạm hóa) là cần thiết bởi vì: Trong từng giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội, việc
tội phạm hố trong pháp luật hình sự, nhà làm luật cho ta thấy, nếu khơng quy định trách
nhiệm hình sự đối với loại hành vi nào đó (mà trong giai đoạn trước đây chỉ bị coi là hành
vi trái đạo đức) hoặc nếu chỉ tiếp tục áp dụng chế tài pháp lý của ngành luật tương ứng
khác ít nghiêm khắc hơn luật hình sự đối với loại hành vi nào đó (mà trước đây chỉ bị coi
là vi phạm pháp luật) thì sẽ khơng cịn đủ sức ngăn chặn đối với loại hành vi đó nữa; mặt
khác, loại hành vi nào đó mặc dù mới xuất hiện và trước đây chưa được quy định là vi
phạm pháp luật trong bất cứ ngành luật nào, nhưng do tính nguy hiểm cho xã hội cao và


6

tính phổ biến cao mà việc thực hiện loại hành vi đó bị lên án về mặt đạo đức và bị dư luận
xã hội phản ứng gay gắt nên vì vậy, loại hành vi đó phải bị tuyên bố là tội phạm.
Việc tội phạm hóa một hành vi cụ thể được thực hiện với những nội dung sau:
Thứ nhất, cần xác định mặt khách quan của hành vi cần tội phạm hóa.
Trong lý luận chung về tội phạm thì “ Mặt khách quan của tội phạm là là những
biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc
mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy
hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài
của việc thực hiện tội phạm như: thời gian, địa điểm, phương tiện, cơng cụ phạm tội,
hồn cảnh phạm tội...”6 Những dấu hiệu nêu trên là những dấu hiệu thuộc mặt khách
quan nhằm xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm hay khơng.
Lại nói về một hành vi cần tội phạm hóa, chúng ta cũng cần xác định xem rằng
hành vi này có gây nguy hiểm cho xã hội hay khơng; có để lại hậu quả nguy hiểm cho xã
hội hay không; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó; các điều kiện bên ngoài
của việc thực hiện hành vi đó như: thời gian, địa điểm, phương tiện, cơng cụ thực hiện,
hoàn cảnh thực hiện...
Thứ hai, cần xác định mặc chủ quan của hành vi cần tội phạm hóa. Mặt chủ quan
bao gồm lỗi, động cơ, mục đích thực hiện hành vi.
Đầu tiên chúng ta cần xác định lỗi của hành vi cần tội phạm hóa. Trong khoa học
pháp lý hình sự, khái niệm lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện
dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý.7
Trong những hình thức lỗi còn phân biệt lỗi cố ý gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý
gián tiếp. Lỗi vô ý gồm lỗi vơ ý vì q tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
6 Trần Thị Quang Vinh ( Chủ biên ) (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt nam – Phần chung, Nhà xuất bản Hồng
Đức, Hà Nội, tr.114.
7 Trần Thị Quang Vinh ( Chủ biên ) (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt nam – Phần chung, Nhà xuất bản Hồng
Đức, Hà Nội, tr.152.



7
Tiếp theo đó là động cơ và mục đích thực hiện hành vi. Những hoạt động có ý thức
của con người luôn xuất phát từ những động cơ nhất định nhằm hướng đến một mục đích
nhất định. Động cơ và mục đích của hành vi cần tội phạm hóa phải thể hiện tính chất và
mức độ nguy hiểm hoặc đe dọa gây nguy hiểm cho xã hội.
Thứ ba, đó là chủ thể và khách thể của hành vi cần tội phạm hóa.
Về mặt chủ thể, cần xác định xem là người thực hiện hành vi cần tội phạm hóa có
năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; Kế đó là xác định độ tuổi để xem rằng liệu
người đó có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự hay
khơng; Cuối cùng là xác định chủ thể này có phải là chủ thể đặc biệt8 hay không.
Về mặt khách thể, chúng ta cần xác định xem những quan hệ xã hội nào cần pháp
luật hình sự bảo vệ nhằm tránh những hành vi cần được tội phạm hóa xâm hại.
Thứ tư, về hình phạt cụ thể đối với những hành vi cần tội phạm hóa.
Khi tội phạm hóa một hành vi nào đó, điều này có nghĩa là đã xác nhận đây là một
tội phạm và tội phạm thì ln đi kèm với hình phạt. Pháp luật hình sự quy định về những
hình phạt tương xứng với hành vi gây ra, cũng như những tình tiết tăng nặng hay tình tiết
giảm nhẹ nhằm đưa ra một mức phạt phù vợp với hành vi đó. Chính vì vậy, khi tội phạm
hóa một hành vi nào đó, chúng ta cần căn cứ vào tình hình cụ thể, mức độ và tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó cũng như chủ thể, mức độ lỗi,... để đưa ra những
hình phạt phù hợp nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Nếu phát huy tốt vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội quá trình tội phạm hóa
sẽ góp phần cùng với hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm và hoạt động thực
tiễn của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án củng cố niềm tin của nhân dân vào hiệu
lực bộ máy Nhà nước, vào hiệu quả và sức mạnh của pháp luật và pháp chế, vào một loạt
8 Chủ thể đặc biệt của tội phạm là người ngồi các dấu hiệu của chủ thể thường ( có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ) cịn có thêm dấu hiệu đặc biệt khác mà chỉ khi có các dấu hiệu này họ mới có thể
trở thành chủ thể của các tội phạm tương ứng. Ví dụ như các đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn, độ tuổi,
hoàn cảnh cụ thể...



8
các tư tưởng pháp lý cao cả và tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
(công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế) cũng như vào thắng lợi huy hồng của chính
nghĩa đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện đối với cái ác, vào các
giá trị quý báu của xã hội dân sự và các nguyên tắc được thừa nhận chung của nhà nước
pháp quyền.
Thực hiện tội phạm hóa trong q trình xây dựng luật là tơn trọng ngun tắc pháp
chế, bảo đảm sự thật khách quan của vụ án, tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi của bị can,
bị cáo theo đúng chuẩn mực tối thiểu của cộng đồng quốc tế đã được thừa nhận chung bởi
nhân loại tiến bộ. Góp phần bảo vệ các cơ sở của chế độ hiến định, nhân thân cũng như
các quyền tự do của con người của công dân, đồng thời bảo vệ pháp chế và trật tự pháp
luật góp phần giữ gìn hịa bình an ninh của nhân loại trong khu vực và trên tồn thế giới.
Việc tội phạm hóa, phi tội phạm hóa một số các tội phạm trong Bộ luật hình sự qua
các giai đoạn sửa đổi, bổ sung là để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật nhằm hạn chế,
đẩy lùi và tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc
cải cách tư pháp và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về trật tự an toàn xã hội, giữ vững kỷ cương phép nước, xây dựng
môi trường sống lành mạnh, nếp sống văn minh, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật; làm
giảm cơ bản các loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả cơng cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.

1.2. Những vấn đề về tội phạm hóa hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể
người
1.2.1. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người


9
1.2.1.1. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người trên thế giới
Thế giới đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba, nền khoa học kỹ thuật công nghệ đã đi

lên một tầm cao mới. Nền khoa học về y khoa cũng theo đó mà phát triển. Tuy nhiên, đi
ngược lại với sự hiện đại và phát triển, sức khỏe của con người cũng dần bị ảnh hưởng
bởi các tác nhân do quá trình hiện đại hóa mang lại như sinh hoạt khơng đúng với giờ giấc
sinh học, ăn uống không đúng cách, tiếp xúc với mơi trường độc hại mỗi ngày... chính vì
vậy nên dù nền văn minh khoa học kỹ thuật và dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng phát
triển và hiện đại nhưng sức khỏe của con người ngày càng đi xuống nếu so với cách đây
nửa thế kỷ . Những bộ phận dễ bị tổn hại và có thể thay thế được như gan, thận dần dần
trở nên cần thiết cho những người có nhu cầu cấy ghép. Những mơ, bộ phận cơ thể của
con người hàng này đều phải làm việc liên tục và tiếp xúc với những chất độc hại, về lâu
dài sẽ dẫn đến việc suy yếu chức năng của mơ, bộ phận cơ thể đó. Lúc này sẽ xuất hiện
nên nhu cầu cấy ghép mô, bộ phận cơ thể nhằm thay thế bộ phận cũ vốn đã suy nhược và
duy trì sự sống cho người ghép.
Khi việc ghép mô, bộ phận cơ thể (BPCT) trở thành một công cụ điều trị được sử
dụng hiệu quả từ những năm 70 của thế kỷ trước, vấn đề thiếu mô, BPCT đã nổi lên như
một thách thức đối với sức khỏe cộng đồng. Cùng với việc phát triển kỹ thuật ghép mô,
BPCT người, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến khía cạnh pháp lý của vấn đề này.
Từng quốc gia đã ban hành các quy định dựa trên đặc điểm cụ thể của từng vùng, lãnh
thổ, tạo cơ sở pháp lý ban đầu để thúc đẩy công nghệ ghép mô, BPCT phát triển đáp ứng
nhu cầu ghép mô, BPCT ngày càng tăng.
Đa số các Luật đều nêu rõ việc hiến mô, bộ phận cơ thể người để ghép là một hành
động nhân đạo cao cả, không mang tính thương mại và nghiêm cấm việc mua bán bộ
phận cơ thể người. Luật ghép mô, bộ phận cơ thể người của các quốc gia cũng quy định
cụ thể về kỹ thuật như quy trình ghép, điều kiện, chỉ tiêu, chuẩn bị trước và sau khi ghép;
qui trình tổ chức, quản lý việc thu gom mô, BPCT; bảo quản và phân phối mô, BPCT…
Các qui định pháp lý về nguồn cung cấp các mô, BPCT lấy từ người chết não trong
các bộ luật của các nước đã ban hành đều nằm ở một trong hai hệ thống: hệ thống suy


10
đoán đồng ý (presumed consent system hay opting-out system) và hệ thống chủ động đồng

ý (express consent system hay opting-in system). Ở những nước qui định theo hệ thống
suy đoán đồng ý, luật pháp coi những người không thể hiện quan điểm đối lập với việc
hiến mô, BPCT khi họ cịn sống có nghĩa là họ sẵn sàng hiến mơ, BPCT của họ khi chết.
Hệ thống này dựa vào giả định rằng các cá nhân sẵn sàng hiến mô, BPCT của họ. Còn ở
những nước qui định theo hệ thống chủ động đồng ý, tức là chỉ những bệnh nhân trước
khi chết thể hiện nguyện vọng muốn hiến thì mới được coi là người hiến.
Có sự đồng thuận quốc tế (the International Consensus on Consent) về các yêu cầu
đạo đức cơ bản mà các hệ thống qui định việc hiến mô, BPCT người chết phải thực hiện.
Các hệ thống thu thập và phân phối các mô, BPCT người chết không được tổ chức theo
các nguyên tắc của thị trường mà nó cần đạt được các sự đồng ý trước khi tiến hành qui
trình lấy mơ, BPCT. Cả hai mơ hình của đồng ý, suy đoán và chủ động đều dựa trên
nguyên lý "sự mong muốn của người chết là cơ sở quyết định và nó phải được tơn
trọng". Cả hai hệ thống đều được chấp nhận. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO ) năm 1991 đã
có qui định các mơ, BPCT có thể lấy khỏi cơ thể người chết vì mục đích cấy, ghép nếu rơi
vào những trường hợp:
(a) có sự đồng ý theo quy định của luật pháp
(b)khơng có lý do nào chứng tỏ người chết chống lại việc lấy này.
Các nước như Anh, Mỹ, Ireland, Đức, Hà Lan theo hệ thống chủ động đồng ý;
trong khi đó những quốc gia như Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Bồ Đào Nha, Áo hoặc Bỉ
dựa vào luật của họ theo mơ hình thứ hai. Xu hướng các nước chấp nhận hệ thống suy
đoán đồng ý dường như ngày càng tăng. Ví dụ Hội Y học Anh trong những năm gần đây
đã kêu gọi sự điều chỉnh lụât pháp từ Luật chủ động đồng ý của Anh chuyển sang hệ
thống suy đốn đồng ý (British Medical Asociation, 2003). Thậm chí ở những nước có hệ
thống y tế kém phát triển cũng có sự ủng hộ đáng quan tâm cho sự lựa chọn này như
Mexico, một bản dự thảo Luật đã được trình vào năm 2000 với mục đích chấp nhận hệ


11
thống suy đoán đồng ý và các nhà lập pháp Arghentina bỏ phiếu cho việc ủng hộ hệ thống
này vào năm 2004.9

Từ khi ra đời cho đến nay đã hơn 30 năm nhưng việc hệ thống nào mang lại nhiều
hơn nguồn mô, BPCT cho việc cấy ghép hiện vẫn đang là bài tốn chưa có lời giải.
Người ta thường cho rằng hệ thống suy đoán đồng ý là hiệu quả hơn hệ thống chủ động
đồng ý. Điều này có vẻ logic khi 16,7% bệnh nhân trong danh sách chờ ghép tim đã chết
hàng năm ở Hà Lan, trong khi tỉ lệ này ở Tây Ban Nha chỉ có 8% tương ứng với việc Hà
Lan theo hệ thống chủ động đồng ý cịn Tây Ban Nha theo hệ thống suy đốn đồng ý. Nếu
chỉ căn cứ vào số liệu ở phần lớn các tài liệu sẵn có thì dễ có thể suy luận rằng các nước
có hệ thống suy đốn đồng ý là hiệu quả hơn hệ thống chủ động đồng ý trong việc tăng
nguồn mô, BPCT người cho việc ghép. Năm trường hợp thành cơng nhất đều là những
nước có hệ thống suy đoán đồng ý. Đứng đầu là Tây Ban Nha, một trường hợp điển hình
là bằng chứng giả thuyết hệ thống suy đoán đồng ý hiệu quả hơn với mục đích tăng tỉ lệ
thu gom mơ, BPCT cho việc ghép. Hiện nay "mơ hình Tây Ban Nha" đã trở thành một
từ thơng dụng khi nói về việc này. Nhưng cũng có những hồi nghi khi những nước có tỉ
lệ hiến thấp nhất cũng nằm trong hệ thống suy đốn đồng ý. Theo bài báo đăng trên tạp
chí Lancet của một nhóm tác giả có uy tín thuộc nhiều chun ngành có một hệ thống các
biến khơng liên quan đến pháp lý mà dường như yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ hiến mơ,
BPCT là các khía cạnh tổ chức thu gom mơ, BPCT, các chính sách giáo dục và truyền
thông.10
Ngay tại Tây Ban Nha là quốc gia thành công nhất trong việc tăng tỉ lệ thu gom
mô, BPCT người cho cấy, ghép và là nước theo hệ thống suy đốn đồng ý cũng khơng
thừa nhận việc luật pháp ảnh hưởng đến việc tăng tỉ lệ hiến. Những thành công của Tây
Ban Nha không bắt đầu từ khi thông qua luật vào năm 1979; tỉ lệ thu gom mô, BPCT
hiến chỉ bắt đầu tăng có ý nghĩa từ năm 1989 là năm mà Tổ chức cấy ghép quốc gia Tây
Ban Nha (ONT) chính thức đi vào hoạt động, bắt đầu điều hành và hỗ trợ mọi hoạt động
liên quan đến việc cấy, ghép mơ, BPCT. Từ đó cho đến nay, tỉ lệ người hiến ở Tây Ban
9 Phan Hồng Vân (2012), Luật pháp và hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người trên thế giới và ở Việt Nam.
10 Phan Hồng Vân (2012), Luật pháp và hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người trên thế giới và ở Việt Nam.


12

Nha tăng đầy ấn tượng từ 14,3 người hiến trên 1 triệu dân năm 1989 lên đến 33,7 năm
2002. Như vậy trong giai đoạn hiện nay khó có thể đưa ra kết luận là hệ thống luật pháp
nào đảm bảo cho việc tăng tỉ lệ hiến mô, BPCT tốt hơn.
Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về cấy ghép mô, tạng, BPCT người của Y học trên
thế giới, việc mua bán mô, nội tạng, BPCT cũng diễn ra sôi nổi hàng ngày, hàng giờ, ở cả
những thị trường nổi lẫn thị trường của thế giới ngầm. Vấn đề mua bán nội tạng người
sống đang diễn ra theo những chiều hướng đáng lo ngại.
Những thị trường kinh doanh nội tạng sầm uất nhất trên thế giới bao gồm: Kosovo,
Mozambich, Israel, Nepal, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập và Trung Quốc. Trong đó Trung
Quốc là một trong những thị trường mua bán nội tạng sống bất hợp pháp lớn nhất thế giới.
Phần lớn người bệnh trên thế giới thích đến Trung Quốc để tìm nội tạng ở chợ đen với
mức giá lên tới 200.000 USD cho một quả thận. Trong khi đó, những người bán tạng chỉ
nhận được khoản tiền chưa tới 5.000 USD.
Người bán tạng cũng có nhiều lý do khiến họ phải lựa chọn việc đó. Điều kiện về
kinh tế gần như là lý do chính khiến nhiều người phải bán tạng để kiếm tiền. Sau khủng
hoảng kinh tế, hay động đất, thiên tai, nhiều người không đủ điều kiện sinh sống nên đành
phải rao bán chính một phần cơ thể của mình. Trên thế giới, đặc biệt là những nước
nghèo, người dân khơng có cơng ăn việc làm hay thu nhập bấp bênh, việc nhận được một
số tiền lớn khiến họ sẵn sàng bán tạng.
Bên cạnh đó, do người dân còn thiếu kiến thức hay nhận thức chưa đúng về việc
bán tạng nên dễ bị những kẻ xấu lợi dụng, lừa gạt. Họ không biết việc bán một bộ phận
của cơ thể sẽ dẫn đến những ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe. Trong một số trường hợp,
thậm chí người “bán" tạng cịn có thể tử vong do trong q trình phẫu thuật khơng đạt
chuẩn. Khơng chỉ có vậy, nhiều người còn bị lừa và tin rằng cắt tạng đi rồi cịn có thể
“mọc” lại.
Ngồi ra, cơng tác quản lý, an ninh tại nhiều nơi vẫn còn lỏng lẻo, chưa được đẩy
mạnh thực hiện cũng tạo cơ hội cho những đường dây buôn bán tạng phi pháp hoạt động.


13

Hình thức bn bán đa dạng, trải qua nhiều q trình khác nhau. Đầu tiên, kẻ xấu
sẽ tiếp cận nạn nhân, lợi dụng những người nghèo, thất học rồi dụ dỗ cho họ nhiều tiền,
công ăn việc làm ổn định nếu bán tạng. Khi được sự đồng ý của người bán thì chúng làm
các giấy tờ giả mạo và đưa nạn nhân đến bệnh viện để ghép thận, đương nhiên những
bệnh viện này và bác sĩ phẫu thuật cũng có thể được chúng mua chuộc từ trước. Nếu
không, chúng sẽ sử dụng giấy tờ giả để che mắt pháp luật nhằm tiến hành ghép tạng dưới
danh nghĩa “hiến tặng”.
Sau đây là một số ví dụ cụ thể mà đã được đưa lên các phương tiện thông tin đại
chúng: “Trận động đất khủng khiếp ở Nepal hồi tháng 4 vừa qua đã khiến rất nhiều gia
đình khơng có nơi để ở, lâm vào tình trạng khốn cùng. Trước đó, cơ Geeta, 37 tuổi ở làng
Hokse, nằm cách Thủ đô Kathmandu của Nepal 12 dặm về phía đơng đã bán một quả thận
của mình để xây một ngơi nhà do hồn cảnh q nghèo khó. Nhưng trận động đất đã biến
ngơi nhà mới đó thành một đống gạch vỡ vụn. Mất đi một bên thận nhưng cô Geeta vẫn
trở thành người vô gia cư.
Người dân trong làng Hokse bị cám dỗ ghê gớm của những kẻ buôn nội tạng bởi
họ quá nghèo đói. Những lời hứa về sự đầy đủ, giàu sang và sự thiếu hiểu biết khiến họ
bán đi bộ phận cơ thể mình. Chồng Geeta cũng cắt bán một bên thận của mình và đang
sống dở chết dở khi sức khỏe ngày càng suy yếu đi.
Ở Iran, việc buôn bán thận được chấp nhận hợp pháp. Ghaffar Naghdi, 24 tuổi, đã
phải chịu khổ sở suốt 6 năm với quả thận hỏng. Sau khi thấy lời rao bán thận, gia đình
anh bán toàn bộ đất đai để lấy tiền mua và ghép thận cho anh. Ban đầu sau phẫu thuật,
Ghaffar cảm thấy rất ổn định. Nhưng chỉ một tháng sau, anh đã qua đời do quả thận
khơng tương thích.”
Các trường hợp ghép tạng trái phép dễ bị nhiễm trùng hậu phẫu, suy yếu sức lực,
trầm cảm và thậm chí nhiều người cịn tự tử. Người cịn 1 quả thận dù có thể sống bình
thường suốt đời nhưng sức khỏe bị giảm sút, có nguy cơ cao mắc các bệnh lý như sỏi
thận, nhiễm trùng đường tiết niệu và dễ dẫn đến suy thận, phải chạy thận suốt đời, tốn
kém tiền của. Khơng chỉ có vậy, số tiền từ việc bán nội tạng cũng không đủ để cải thiện



14
cuộc sống vốn có của họ. Cuối cùng sức khỏe suy giảm và cuộc sống lại càng trở nên khó
khăn hơn.11
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm trên thế giới có khoảng
70.000 quả thận được ghép cho các bệnh nhân, trong đó có khoảng 15.000 quả thận có
nguồn gốc từ thị trường mua bán nội tạng bất hợp pháp. Đối với các loại nội tạng khác, số
liệu thống kê cũng chỉ ra một con số tương đương. Điều này cho thấy, tình trạng bn bán
nội tạng đang trở thành một vấn nạn nhức nhối trên toàn thế giới.
Rất nhiều quốc gia đang phải đối phó với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nội
tạng cho các ca phẫu thuật cấy ghép. Tại các nước Tây Âu, ước tính hiện có khoảng
120.000 bệnh nhân đang trong tình trạng lọc thận và khoảng 40.000 trường hợp đang chờ
được ghép thận.
Thời gian chờ đợi trung bình để được ghép thận của các bệnh nhân châu Âu là 3
năm nhưng với tình trạng khan hiếm người hiến tạng như hiện nay, vào năm 2010, các
bệnh nhân sẽ phải chờ tới... 10 năm. Hậu quả của việc phải chờ đợi lâu này là từ 15% 30% bệnh nhân nằm trong danh sách chờ đợi bị chết trước khi được ghép tạng.
Theo ước tính của Tổ chức UNOS (tổ chức chuyên phụ trách việc phân phối các cơ
quan tạng để cấy ghép cho bệnh nhân của Mỹ), mỗi tuần, chỉ tính riêng ở Mỹ đã có
khoảng 98.713 người dân cần ghép tạng nhưng chỉ có khoảng 28.354 người trong số họ
được nhận các cơ quan tạng tương ứng, và hơn 6.000 bệnh nhân đã chết mỗi năm do phải
chờ đợi để được cấy ghép tạng.
Thận là bộ phận được mua bán và ghép phổ biến nhất vì hai lý do:
Một là mỗi người bình thường đều có hai quả thận nên có thể cắt một quả đem
ghép cho người khác dễ dàng mà không ảnh hưởng bao nhiêu đến sức khoẻ của người
cho, tuy nhiên cũng tùy thể trạng của từng người.

11 xem ngày 12/02/2016.


15
Hai là chứng suy thận, những người bị suy thận có khả năng chờ đợi nhờ thận nhân

tạo. Sau đó là gan, phổi, tim, tụy tạng, tủy xương, chi, giác mạc và mới đây nhất cả một
khuôn mặt đều đã có thể cấy ghép.
Khơng chỉ bn bán trong nước dưới danh nghĩa họ hàng (giả) để hợp thức, việc
sang Trung Quốc bán mua thận cũng đang trở nên phổ biến. Trung Quốc hiện nay có thị
trường mua bán nội tạng sống bất hợp pháp lớn nhất thế giới.
Những người mua bán nội tạng được coi khơng có tội. Vì vậy đã có hiện tượng
nhiều người khó khăn đã sang Trung Quốc bán nội tạng hoặc mua bán với nhau từ trong
nước rồi sang Trung Quốc cấy ghép. Hiện nay lướt trên mạng internet chúng ta có thể tìm
thấy hàng trăm tin thông báo nhu cầu mua bán nội tạng tại Việt Nam, trong có có rất
nhiều tin rao bán thận. Giá nội tạng trên thị trường trong nước có thể nói quá rẻ so với
những mức giá được rao bán trên chợ đen của những thị trường trên thế giới.
Một quả thận thường chỉ có giá từ 2500 USD đến 4000 USD, trong khi đó ngay tại
Trung Quốc, được coi là rẻ nhất thế giới giá một quả thận sống cũng lên đến 10.000USD.
Chính vì vậy đã có hiện tượng nhiều người nước ngoài, đặc biệt là Việt kiều đã về nước
để tìm kiếm nguồn nội tạng sống.
1.2.1.2. Thực tiễn hành vi liên quan đến mua bán bộ phận cơ thể người tại Việt Nam
Kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể cũng đã được ứng dụng thành công ở Việt Nam
từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trong giai đoạn 15 năm từ 1992 đến 2007, việc
ghép mô, bộ phận cơ thể người ở nước ta đã có những bước tiến vượt bậc, nhưng so với
thế giới, chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa. Hiện nay nhu cầu được ghép mô, bộ phận cơ thể
người để điều trị ở Việt Nam rất lớn và ngày một gia tăng. Kỹ thuật cấy ghép và nguồn
cung cấp mô, bộ phận cơ thể người đã không đáp ứng được nhu cầu. Muốn giải quyết
được vấn đề này bên cạnh các giải pháp mang tính đồng bộ thì cần có một hành lang pháp
lý bảo đảm cho ngành phẫu thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam phát triển.
Từ năm 1989 trong Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân đã quy định tại điều 30: "Thầy
thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người chết dùng vào


16
mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân người chết hoặc

người chết có di chúc để lại. Việc ghép mơ hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải
được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa
thành niên. Bộ Y tế quy định chế độ chăm sóc sức khoẻ người cho mô hoặc một bộ phận
của cơ thể".12 Trong Điều lệ Khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng năm 1991
cũng đề cập đến vấn đề này nhưng các qui định vẫn mang tính ngun tắc, chưa cụ thể
nên khó thực hiện trên thực tiễn.
Ngày 29/11/2006 Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI,
kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác và ngày 12/12/2006, Chủ tịch Nước đã ký Lệnh công bố Luật số 20/2006/L-CTN,
theo đó, Luật Hiến, lấy, ghép mơ, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác sẽ có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2007. Luật này được xây dựng trên những quan điểm chỉ đạo như sau:
(1)Tôn trọng sự tự nguyện của người hiến, người được ghép mô, bộ phận cơ thể người;
(2) Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học; (3) Không
nhằm mục đích thương mại; (4) Giữ bí mật về thơng tin có liên quan đến người hiến,
người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định
khác; (5) Phù hợp với Hiến pháp, Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2005 và điều kiện kinh tế,
xã hội ở Việt Nam.13 Luật gồm 6 chương và 40 điều qui định cụ thể. Tại Chương II có các
điều cụ thể qui định về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống (điều 12),
thay đôỉ, hủy bỏ đơn đăng ký hiến (điều 13), các điều kiện, thủ tục lấy mô, bộ phận cơ thể
ở người sống (điều 14), quyền lợi của người đã hiến mô, bộ phận cơ thể người (điều 17).
Các quyền lợi cho người hiến cũng được qui định tại điều 17, chương II. Nếu so sánh với
một số nước trên thế giới như Singapore, Pháp, Nhật Bản, Mỹ, v.v... thì việc qui định các
quyền lợi đối với người đã hiến mô, bộ phận cơ thể người ở nước ta có nhiều hơn, thể
hiện tính chất nhân đạo và đặc thù của đất nước. Trong khi ở các nước trên, người hiến
ln trên tinh thần tự nguyện và khơng có bất kỳ một lợi ích vật chất nào. Chương III
12 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1989), Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Hà Nội.
13 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác,
Hà Nội.



17
"Qui định về hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và hiến, lấy xác". Luật
của Việt Nam được xây dựng theo hệ thống chủ động đồng ý.
Với sự ra đời của Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến lấy xác, các biện
pháp tổng thể sẽ được áp dụng để phát triển ngành kỹ thuật y học ghép mô, BPCT người
ở Việt Nam và tăng cường nguồn cung cấp mô, BPCT người để cứu sống nhiều người
bệnh hơn nữa. Theo lãnh đạo Bộ Y tế, việc đưa ra khung pháp lý sẽ góp phần thực hiện
được mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca ghép thận;
80 - 100 ca ghép gan; 20 - 30 ca ghép tim và 10 - 15 ca ghép phổi, 2.000 ca ghép giác
mạc. Điều này mang lại nhiều hy vọng cho các bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép mơ, bộ
phận cơ thể người.
Tuy nhiên, xác lập được hành lang pháp lý, khơng có nghĩa chúng ta có ngay
nguồn mơ, tạng và bộ phận cơ thể người để thực hiện cấy ghép một cách thuận lợi. Thực
tế cho thấy người phương Đông cịn rất nặng với quan niệm chết phải tồn thây. Đa phần
họ đều khơng muốn bản thân mình hoặc những người thân yêu của mình sau khi chết đi
lại bị mất bộ phận cơ thể. Điều này đã ảnh hưởng, chi phối đến việc tình nguyện tham gia
hiến mơ tạng mặc dù đa số đều biết và đồng tình với mục đích cao cả của việc làm này.
Trên thực tế từ khi Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
có hiệu lực thi hành cho đến nay với nhiều chiến dịch tuyên truyền vận động người dân
hiến mô, bộ phận cơ thể người đặc biệt là giác mạc được thực hiện nhưng kết quả thu
được còn rất khiêm tốn. Khác với các nước đã phát triển khoảng 90% nguồn cung cấp từ
bệnh nhân chết não, thì ở Việt Nam nguồn cho tạng chủ yếu vẫn từ người cho sống cùng
huyết thống. Tháng 11/2007 mới có một ca hiến thận tự nguyện khơng cùng huyết thống
đầu tiên ở Việt Nam là của một sư ông hiến cho một bé trai 15 tuổi. Việc hiến tạng sau khi
chết cho cấy ghép cứu người vẫn chưa được đa số người dân hưởng ứng. Hiến ghép giác
mạc có đơn giản hơn về kỹ thuật so với hiến ghép các loại nội tạng tạng như thận, gan,
tim nhưng mới chỉ có 40 người đăng ký hiến tặng giác mạc sau khi qua đời và 9 người đã
hiến tặng giác mạc cho Ngân hàng Mắt thuộc Bệnh viện Mắt trung ương, trong khi ở Việt
Nam hiện có tới 300.000 người có nhu cầu ghép giác mạc. Để có thêm nguồn giác mạc



18
góp phần giải phóng mù lịa cho người bệnh, đã có hơn 400 thầy thuốc của Bệnh viện Mắt
Trung ương tình nguyện đăng ký hiến giác mạc sau khi qua đời. Tình trạng này cũng
tương tự ở nhiều nước trên thế giới, phải nhiều năm sau khi Luật ra đời mới có những
trường hợp hiến tạng đầu tiên. Ngay tại Tây Ban Nha là quốc gia thành công nhất trong
việc tăng tỉ lệ thu gom mô, BPCT người cho cấy, ghép thì cũng phải mất 10 năm kể từ khi
Luật ban hành.
Luật ra đời tạo điều kiện cho đội ngũ thầy thuốc chuyên ngành phẫu thuật ghép
tạng có thể chuyên tâm làm việc và cũng là cơ sở pháp lý để vận động người hiến mô, bộ
phận cơ thể người sau khi chết. Việc ra đời một bộ luật có tính nhạy cảm, hồn tồn mới
mẻ như "Hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác" ở Việt Nam sau khi
công bố và muốn triển khai thực thi vào cuộc sống địi hỏi phải có thời gian, có sự chuẩn
bị kỹ càng, đồng bộ từ các văn bản quy phạm pháp luật, đào tạo nguồn nhân lực chuyên
ngành đến hạ tầng kỹ thuật. Để làm được việc này cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục
cộng đồng bằng các kênh thông tin hữu hiệu và đưa vào chương trình giáo dục học sinh.
Bên cạnh đó các thủ tục đăng ký hiến mô, BPCT người cần được tổ chức sao cho đơn
giản, thuận tiện để người có mong muốn hiến dễ tiếp cận.
Tại Việt Nam, việc ghép tạng được tiến hành lần đầu vào năm 1992. Tuy nhiên, số
người bệnh được ghép tạng khá ít vì khơng có nguồn tạng và khơng ít người bệnh đã tử
vong do không được ghép tạng.
Nhu cầu ghép tạng ở nước ta hiện nay là rất lớn, đặc biệt là ghép thận với ước tính
khoảng trên 10.000 bệnh nhân suy thận mãn tính có nhu cầu, 300.000 người mù lịa vì các
bệnh lý giác mạc cần được ghép giác mạc...
Tình trạng khan hiếm nguồn tạng xảy ra ở hầu hết các quốc gia, và đặc biệt ở Việt
Nam do rất hiếm người chết não đồng ý hiến tạng như các nước.
Theo thống kê của Bộ Y tế, cho đến nay nước ta có hơn 13.500 người bệnh cần
được ghép tạng. Trong khi đó, chỉ có 2.461 ca phẫu thuật ghép tạng được thực hiện, tương
đương 12% so với nhu cầu cần được ghép tạng. Khơng riêng gì Việt Nam, trên thế giới



19
tình trạng này thậm chí cịn khan hiếm hơn. Chính vì nguồn cầu cao và lợi nhuận quá lớn
của ngành kinh doanh nội tạng, khơng ít mạng lưới xã hội đen chuyên buôn bán nội tạng
đã ra đời, gây bất ổn cho xã hội.
Chỉ tính riêng ở Bệnh viện Việt Đức, mỗi năm có đến hàng nghìn ca chết não do tai
nạn, nhưng số người đồng ý hiến thận chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thực trạng này chủ yếu
do quan niệm tâm linh của người Việt rằng người chết phải “toàn thây”.
Thực tế, do nhu cầu của người bệnh rất lớn mà nguồn cung hợp pháp (người thân
cho tạng hoặc chờ có người hiến tặng) lại quá nhỏ, nên các “đường dây” bn bán thận
nói riêng và nội tạng nói chung đã hình thành và tồn tại. Khả năng tìm được nguồn cung
cấp tạng để ghép theo đúng luật thì hiếm, nên hầu hết người cần ghép tạng đều phải tìm
đến các đường dây cung ứng “chui”.
Khi qua các đường dây này, tạng đến được người cần ghép với giá cao ngất, còn
người “bán” dưới danh nghĩa “hiến” kia cũng chỉ nhận được một số “phí” chỉ khoảng 2/3
hoặc, thậm chí là một nửa so với chi phí thực người bệnh bỏ ra vì phải qua tay “cị”.
Trong khi hầu hết những người chọn cách bán đi một bộ phận cơ thể mình đều là người
nghèo, bế tắc trong cuộc sống cần tiền để trang trải, nếu là người bệnh thì càng thêm khổ
sở.
Đa số những người cần ghép tạng phải tìm đến các đường dây bn bán tạng trái
pháp luật. Thông qua các đường dây này, người bệnh có thể mua được nội tạng với giá rất
cao, cịn người bán tạng lấy danh nghĩa là 'hiến tặng' cũng chỉ nhận được khoản chi phí
chưa bằng 1/2 so với thực tế người mua phải bỏ ra.
Đầu năm 2011, thông tin từ một bệnh viện trên địa bàn TP Cần Thơ cho biết có
một số người đến bệnh viện khám sức khỏe với nhiều yêu cầu xét nghiệm đáng nghi vấn.
Từ thông tin trên, lực lượng CSĐT Công an TP Cần Thơ vào cuộc và đã lần ra một đường
dây đưa người sang Trung Quốc để bán thận. Nạn nhân của đường dây trên là những
thanh niên tuổi đời từ 18 - 35, sức khỏe tốt nhưng khó khăn về kinh tế, ở hầu hết các tỉnh,
thành từ Ninh Thuận trở vào.



×