Các thuốc gây độc cho thận
Điều trị cho bệnh nhân bị suy thận
Phần lớn thuốc khi vào cơ thể được chuyển hóa tại gan trước khi được
đào thải qua đường mật hoặc qua thận. Bình thường thuốc đưa vào cơ thể là
chất không độc, nhưng sau khi được chuyển hóa tại gan, hoặc gặp một chất
khác tại ống thận, một số thuốc trở thành chất gây độc cho thận. Thuốc có thể
gây độc cho thận ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng, bệnh có thể cấp
tính nhưng cũng có thể mạn tính. Bệnh càng có nguy cơ xuất hiện cao ở
những người mà chức năng thận suy giảm. Với sự ra đời của nhiều thuốc mới
danh sách các thuốc gây độc cho thận ngày càng dài thêm trong đó phải kể
đến kháng sinh...
Các thuốc gây độc ở ống thận
Nhóm kháng sinh aminozid: Tỷ lệ gây độc thận cao (khoảng 10% người
dùng) với các biểu hiện: tăng cao đột ngột urê huyết. Thuốc gây độc nhiều nhất là
neomycin nhưng hiện nay neomycin thường chỉ dùng dưới dạng phối hợp trong
các dung dịch hay thuốc mỡ (nhỏ mắt, dùng ngoài). Streptomycin có độc tính thấp,
lại dùng trong phác đồ điều trị lao ngắn ngày với liều, thời gian xác định. Vì thế ít
khi gặp trường hợp hai thuốc này gây độc. Thuốc hiện nay dùng là gentamycin và
tobramycin, đặc biệt gentamycin bị lạm dụng nhiều (trong các bệnh nhiễm khuẩn
hô hấp cấp ở trẻ em dưới 5 tuổi trở lên) nên tỷ lệ gentamycin gây độc trở nên
chiếm tỷ lệ cao trong nhóm. Gentamycin có khoảng cách giữa liều điều trị và liều
độc hẹp, ít được chuyển hóa, có tới 70% bài tiết qua thận dưới dạng nguyên chất.
Ở người suy thận, người già, trẻ nhỏ, chu kỳ bán hủy kéo dài, thuốc tích lũy lại ở
thận tuy có mức độ nhưng có thể gây ra ngộ độc thận. Nguy cơ ngộ độc thận
thường xảy ra hơn ở người huyết áp thấp hoặc người có bệnh về gan hoặc ở nữ
giới, nên phải giảm liều.Thuốc có thể qua nhau thai, qua sữa mẹ, vì vậy không
dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.
Nhóm kháng sinh cephalosporin: Chỉ thế hệ 1 (cephalexin, cefalothin,
cephazolin, cephadroxil) gây độc cho thận, còn thế hệ 2 - 3 thì an toàn hơn.
Cephalexin, cefazolin hầu như không bị chuyển hóa, trong khi cefalotin nhanh
chóng bị chuyển hóa trong gan chuyển thành chất trung gian. Vì vậy, hầu hết
cefalexin và cefazolin trong khi chỉ có 60-70% cefalotin bài tiết qua đường thận
dưới dạng không đổi. Người già, trẻ nhỏ, người suy thận chức năng thận yếu, suy
giảm, chu kỳ bán hủy thuốc kéo dài hơn người bình thường từ 3 - 5 lần. Một phần
chúng tích lại trong các cơ quan gây độc trong đó gây độc nhiều nhất cho thận.
Khi dùng chúng nhất là dạng thuốc tiêm cần tính toán liều cẩn thận, riêng các đối
tượng trên cần giảm liều căn cứ vào độ thanh thải creatinin. Không nên dùng cho
người có thai, cho con bú. Vì thế hệ 1 ít gây độc cho các cơ quan chức năng khác,
lại rẻ tiền hơn thế hệ 2, 3 nên ít người chú ý đến tính hại thận, chỉ định khá dễ dãi,
lạm dụng, nguy hại nhất là lạm dụng cho trẻ em. Trong số các thuốc này thì
cephalexin do là dạng uống, dễ dùng hơn nên thường bị lạm dụng nhiều hơn cả.
Kháng sinh chống nấm amphotericin B: Tác dụng lên lipid của màng tế bào
gây độc. Biểu hiện thường thấy là suy thận cấp, đái tháo nhạt, nhiễm toan do ống
thận.
Paracetamol gây suy thận cấp nhưng phải dùng liều khá cao (mỗi ngày
dùng 15g) hoặc suy thận mạn với liều dùng tương đối cao, kéo dài, kèm thêm
uống nhiều rượu.
Thuốc giảm lưu lượng máu đến thận
Các thuốc chống viêm Non- steroid thế hệ cũ: Chúng ức chế việc sản xuất
prostaglandin, làm giảm lưu lượng máu đến thận, giảm độ lọc cầu thận dẫn đến
suy thận, tuy nhiên tác dụng độc này chỉ gây ra khi dùng các thuốc kéo dài. Khi
dừng thuốc, thận sẽ được phục hồi.
Các thuốc giãn mạch điều trị tăng huyết áp: Các thuốc này trong đó có
nhóm thuốc ức chế angiotensin II sẽ làm giãn mạch tụt huyết áp, làm giảm lượng
máu trước thận gây suy thận chức năng.
Một số thuốc kháng sinh và thuốc giảm lưu lượng máu
đến thận có thể gây độc cho thận.
Một số hậu quả khác
Thuốc làm tắc ống thận: Các sulfamind kết tủa trong ống thận gây ra hiện
tượng này nhất là khi dùng liều cao và uống ít nước. Để đề phòng, khi dùng
sulfamid cũng như riêng cotrimoxazol nên uống nhiều nước.
Thuốc gây dị ứng miễn dịch ở ống thận - mô kẽ: xảy ra với bất kỳ thuốc
nào có khả năng gây mẫn cảm với co thể.
Thuốc gây hội chứng thận hư: gây lắng đọng các phức hợp miễn dịch dẫn
đến hội chứng thận hư nhưng không gây suy thận. Khi ngừng thuốc, cầu thận có
thể trở lại trạng thái bình thường. Có thể kể đến các thuốc như Dpenicilamin,
Catopril, Trimethadion, các muối bismuth.
Thuốc gây suy thận mạn: Nguyên nhân do thuốc tích lũy trong ống thận khi
dùng liều cao, kéo dài. Đó là các thuốc điều trị bệnh tâm thần Litium carbonat,
thuốc chống ung thư (cisplatin).
Tóm lại, hầu hết thuốc uống, thuốc tiêm, đôi khi cả thuốc dùng ngoài đều
thải trừ qua thận dưới dạng biến đổi hay không biến đổi. ở liều bình thường, và
người có chức năng thận bình thường cũng đã có nguy cơ bị nhiễm độc thận, nguy
cơ này tăng cao ở những người mà khả năng thanh thải của thận giảm. Do vậy
trước hoặc sau khi dùng thuốc cần phải xem xét độ thanh thải creatin để chọn và
điều chỉnh liều thích hợp. Ngoài ra, cần chú ý một số tình trạng liên quan đến sức
khỏe như: tuổi, giới, bệnh lý mạn tính kèm theo như xơ gan, tiểu đường, bệnh tim
mạch, cơ địa dị ứng... Trong điều kiện cần phải dùng những nhóm thuốc này chữa