Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Bệnh thương hàn có nguy hiểm? pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.34 KB, 5 trang )

Bệnh thương hàn có nguy hiểm?

Vi khuẩn thương hàn.
Thương hàn là một hội chứng gồm các biểu hiện đường tiêu hóa và toàn
thân, do S.typhi gây nên. Người bị bệnh do ăn uống phải thức ăn, nước uống bị
nhiễm khuẩn. Hằng năm, trên thế giới có khoảng 16 - 33 triệu người mắc bệnh
thương hàn, trong đó 5 - 6 nghìn người tử vong. Tổ chức Y tế thế giới đặt thương
hàn vào loại bệnh truyền nhiễm quan trọng, bệnh lây lan nhiều nhất ở độ tuổi từ 5
- 19 tuổi.
Vi khuẩn gây bệnh như thế nào?
Bệnh lây lan khi vi khuẩn trong phân người bị bệnh nhiễm vào thức ăn hay
thức uống và truyền sang người khác. Khi theo thức ăn vào đường tiêu hóa, vi
khuẩn xuyên vào thành ruột và bị thực bào bởi đại thực bào. Salmonella typhi lúc
đó thay đổi cấu trúc của nó để chống lại sự phá hủy và cho phép chúng tồn tại bên
trong đại thực bào. Do đó, vi khuẩn chống lại được sự gây hại của bạch cầu hạt, bổ
thể và đáp ứng miễn dịch. Vi khuẩn sau đó lan tỏa theo hệ thống bạch huyết trong
khi vẫn nằm trong đại thực bào. Từ đây chúng xâm nhập hệ thống lưới nội mô và
hầu hết các cơ quan trong cơ thể. Salmonella typhi là trực khuẩn gram âm, di
chuyển nhờ tiêm mao, tăng trưởng nhanh nhất ở nhiệt độ 37oC, nhiệt độ cơ thể.
Thời gian ủ bệnh từ 5 - 14 ngày, vi khuẩn qua thành ruột, xâm nhập vào
hạch bạch huyết mạc treo và lách. Vi khuẩn vào máu gây nhiễm khuẩn huyết rồi
nhiễm khuẩn khu trú chủ yếu ở hạch lympho của ruột non. Tổn thương gây các
mảng Payer viêm và có thể bị loét nặng, nhất là sau 3 tuần bị bệnh. Vi khuẩn có
thể đến phổi, túi mật, thận và hệ thần kinh trung ương.
Bệnh thương hàn biểu hiện ra sao?
Bệnh thương hàn có đặc trưng là sốt liên tục, sốt cao lên đến 40oC, vã
nhiều mồ hôi, viêm dạ dày ruột và tiêu chảy không có màu. Hiếm gặp hơn là ban
dát, chấm màu (đỏ) hồng có thể xuất hiện. Trường hợp điển hình, diễn tiến của
bệnh thương hàn không được điều trị được chia làm 4 giai đoạn riêng rẽ, mỗi giai
đoạn kéo dài khoảng 1 tuần. Tuần đầu tiên, có một sự gia tăng nhiệt độ từ từ tương
ứng với chậm nhịp tim, khó chịu, nhức đầu và ho. Chảy máu mũi (chảy máu cam)


ở 25% các trường hợp và đau bụng có thể có. Giảm bạch cầu, giảm bạch cầu ưa
axit tương quan với tăng bạch cầu lympho, nuôi cấy máu tìm thấy Salmonella
typhi hay Paratyphi. Vào tuần thứ hai, bệnh nhân nằm liệt giường với sốt cao dạng
cao nguyên quanh mức 40oC và nhịp tim chậm (tình trạng mạch nhiệt phân ly).
Bệnh nhân luôn có mê sảng, li bì nhưng thỉnh thoảng bị kích thích. Do mê sảng
làm cho bệnh thương hàn có biệt danh là "sốt thần kinh". Chấm ban hồng xuất
hiện ở phần thấp của ngực và bụng ở khoảng 1/3 bệnh nhân. Khám thấy có ran
ngáy ở đáy phổi. Bụng trướng căng và đau ở 1/4 dưới phải, nơi có thể nghe được
sôi bụng. Tiêu chảy có thể xảy ra trong giai đoạn này, đi tiêu 6 - 8 lần/ngày, phân
màu xanh lục, mùi đặc trưng, nhiều trường hợp lại gặp táo bón. Gan và lách to,
mềm và xét nghiệm thấy men transaminases tăng. Phản ứng Widal dương tính rõ
với kháng thể kháng O và kháng H. Nuôi cấy máu thỉnh thoảng vẫn dương tính
trong giai đoạn này. Tuần thứ ba của thương hàn, một số biến chứng có thể xảy ra
như: xuất huyết tiêu hóa do chảy máu từ mảng Peyer ở ruột gây xung huyết; có thể
rất trầm trọng nhưng thường không gây tử vong; thủng ruột non ở đoạn xa hồi
tràng, đây là biến chứng rất nặng và thường gây tử vong, nó có thể xảy ra mà
không có triệu chứng cảnh báo cho đến khi nhiễm khuẩn huyết và viêm phúc mạc
lan tỏa; viêm não; gây mủ ở cơ quan khác, viêm túi mật, viêm nội tâm mạc, viêm
xương. Nhiệt độ tiếp tục tăng và rất ít dao động suốt hơn 24 giờ. Mất nước xảy ra
sau đó và bệnh nhân mê sảng. Cuối tuần thứ ba, sốt bắt đầu giảm, tiếp tục đến
tuần thứ 4 và tuần cuối cùng. Nếu không bị biến chứng, bệnh nhân sẽ khá dần lên
sau một giai đoạn từ 7 - 10 ngày nhưng bệnh có thể tái phát 2 tuần sau khi đã lui
bệnh.
Bệnh cần phân biệt với các bệnh dạ dày ruột và các bệnh nhiễm khuẩn khác
cũng có một số ít dấu hiệu lâm sàng giống thương hàn như: lao, viêm nội tâm mạc,
bệnh do brucella, u lympho, sốt Q, đôi khi phải chẩn đoán phân biệt với cả viêm
gan virut, sốt rét hay bệnh lỵ amip.
Phương pháp phòng và chữa bệnh
Tiêm phòng bệnh cho các đối tượng là người có tiếp xúc với bệnh nhân
trong cùng gia đình, các hộ sống cùng địa bàn dân cư nơi ổ bệnh xuất phát, người

đến vùng có dịch tễ và khi có dịch xảy ra. Hiện nay có vaccin uống nhiều lần và
vaccin tiêm một lần, tác dụng như nhau, nhưng dạng uống ít tác dụng phụ hơn.
Khi cần phải nhắc lại sau 5 năm cho loại uống và sau 3 năm cho loại tiêm. Xử lý
tốt các chất thải, bảo vệ nguồn nước và thực phẩm khỏi bị nhiễm bẩn là các biện
pháp y tế cộng đồng rất quan trọng để phòng bệnh. Những người lành mang vi
khuẩn không được phép làm việc ở nơi có liên quan đến dịch vụ ăn uống.
Kháng sinh như ampicillin, chloramphenicol, trimethoprim-
sulfamethoxazole, amoxicillin và ciprofloxacin được sử dụng phổ biến để điều trị
bệnh thương hàn. Nếu không được điều trị, thương hàn tồn tại trong 3 tuần - 1
tháng. Thời gian điều trị kháng sinh cho bệnh nhân thương hàn thông thường là 14
ngày. Tử vong từ 10 - 30% ở những trường hợp không được điều trị. Người già và
người ốm liệt giường thường có tiên lượng xấu. Ở trẻ em, bệnh sẽ nhẹ hơn. Khi có
biến chứng, tiên lượng xấu, tình trạng mang vi khuẩn có thể tồn tại dù được dùng
thuốc

×