Tải bản đầy đủ (.pdf) (250 trang)

Qua nghiên cứu các bài diển ca a b c d xác định người dịch các bài diễn ca chinh phụ ngâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.06 MB, 250 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
…..…..

NGUYỄN VĂN DƯƠNG

QUA NGHIÊN CỨU
CÁC BÀI DIỄN CA A,B,C,D,
XÁC ĐỊNH NGƯỜI DỊCH CÁC BÀI DIỄN CA
CHINH PHỤ NGÂM

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC

TP. HCM - 1990



I

MỤC LỤC
MỤC LỤC

I

LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG DẪN NHẬP

4



I. Lịch sử vấn đề

4

II. Mục đích, đặc điểm, phạm vi của luận án

16

III. Phương pháp nghiên cứu, tư liệu nghiên cứu

19

IV. Giải quyết một số nghi vấn có liên quan đến vấn đề

25

V. Thành phần của luận án.

36

CHƯƠNG I : NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ SỬ SÁCH VÀ THƯ MỤC CÓ
LỢI CHO PHAN HUY ÍCH
39
I. Bằng chứng về sử sách

39

II. Những bằng chứng về thư mục


47

CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐOẠN TIÊU BIỂU TRONG CÁC
BÀI DIỄN CA A, B, C, D
70
I. Phân tích

73

II. Nhận định

76

I. Phân tích

81

II. Nhận xét

85

I. Phân tích

89

II. Nhận xét

91

I. Phân tích


95

II. Nhận xét và kết luận

98

I. Phân tích

103

II. Nhận xét và kết luận

106

I. Phân tích

113

II. Nhận xét và kết luận

115

CHƯƠNG III : XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM CÁC BÀI DIỄN CA A, B, C, D
QUA NGHIÊN CỨU VĂN THỂ TRONG CÁC BÀI ẤY
117
I. Diễn biến của thể văn song thất lục bát

117


II. Định thời điểm các bài diễn ca qua hai đặc tính cổ của thể song thất lục bát.
137

CHƯƠNG IV : XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM CÁC BÀI DIỄN CA A, B, C, D
QUA NGHIÊN CỨU VĂN PHONG TRONG CÁC BÀI ẤY
143


II

I. Về mặt từ pháp

143

II. Về mặt cú pháp

153

III. Về mặt chương pháp

168


1

LỜI MỞ ĐẦU
Luận án này là sự tiếp nối và bổ sung một cơng trình chun khảo mà
chúng tơi đã xuất bản cách đây hơn một phần tư thế kỉ.
Thật ra người đặt vấn đề một cách đúng đắn và rộng rãi trước cơng luận là
ơng Hồng Xn Hãn, một học giả ai cũng biết tiếng. Năm 1953, tại Paris, trong

sách Chinh phụ ngâm bị khảo, ơng Hồng Xn Hãn đã công bố nhiều tư liệu
mới lạ để khẩng định Phan Huy Ích là người đã diễn ca bài Chinh phụ ngâm
hiện hành ; Đồn Thị Điểm cũng có diễn ca, nhưng bài của bà ít được người đời
biết đến. Tuy sách được viết hết sức công phu, nhưng phần lớn giới nghiên cứu
đã không hưởng ứng chủ trương mới mẻ của học giả họ Hồng.
Mục đích của chúng tơi khi cho xuất bản sách Thử giải quyết vấn đề diễn
giả Chinh phụ ngâm năm 1964, là bênh vực công trình khảo đính và hiệu đính
hết sức có giá trị của ơng Hồng Xn Hãn trong sách Chinh phụ ngâm bị khảo,
theo ý chúng tơi. Có điều may mắn và thuận lợi, là sau khi sách xuất bản, vấn đề
đã được chúng tôi đem ra giảng dạy khá tường tận tại hai Trường Đại học Văn
khoa và Đại học Sư phạm Huế trong khoảng mười năm, cho đến ngày miền
Nam hồn tồn giải phóng ; vì vậy, sách đã gây được một số ảnh hưởng nhất
định trong giới sinh viên nói riêng, và trong học giới miền Nam nói chung, trong
thời gian nói trên.
Cũng trong năm 1964, tại Hà Nội, ông Lại Ngọc Cang cho xuất bản sách
Chinh phụ ngâm; trong phân 'Khảo luận' của sách này, ông Lại Ngọc Cang đã
dành trên năm mươi trang để xác nhận thuyết của Hoàng Xuân Hãn trong sách
Chinh phụ ngâm bị khảo. Những luận điểm của ông Lại Ngọc Cang khá sâu sắc
và xác đáng, nhưng có lẽ vì được trình bày hơi ngắn gọn, lại ra đời trong hoàn
cảnh chiến tranh chống Mĩ ác liệt, cho nên sách không gây được sự chú ý lớn
lao trong học giới.
Theo sự hiểu biết của chúng tơi, thì, đối với học giới hiện nay, vấn đề
người dịch Chinh phụ ngâm vẫn hầu như là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, và, từ


2

năm 1964 cho đến nay, vẫn khơng thiếu gì những người đứng ra bài bác thuyết
Hoàng Xuân Hãn, bênh vực tục truyền, cho rằng Đoàn Thị Điểm mới là người
đã diễn ca bài Chinh phụ ngâm hiện hành.

Chúng tôi thiết nghĩ sở dĩ tục truyền vẫn còn đứng vững, ấy là vì vấn đề thì
hết sức phức tạp, nhưng sử sách lại mập mờ, tư liệu để tìm hiểu về vấn đề lại vô
cùng hiếm hoi, cho nên trừ phi người thật chun mơn, ít ai có điều kiện nắm đủ
mọi chi tiềt của vấn đề để xét đoán một cách sâu sắc, thỏa đáng.
Lần này chúng tôi lại may mắn có dịp đem đề tài mình ấp ủ bấy lâu ra trình
bày trước Hội đồng chấm luận án Nhà nước. Sự đóng góp của chúng tơi trong
Luận án này, là lần đầu tiên đưa ra những nhận xét và giải thích hợp lí về thư
mục, cũng là lần đầu tiên triệt để dùng phương pháp thống kê nêu bật những
bằng chứng về văn thể, văn phong, ngôn ngữ và văn tự để xác định người dịch
các bài diễn ca Chinh phụ ngâm. Mặc dầu đã đầu tư nghiên cứu và suy nghĩ
thêm nhiều, chúng tôi nghĩ rằng nhũng kết luận nêu lên ở đây chưa thể được
xem là chân lí vĩnh cửu, mà chỉ có thể xem là những giải đáp thích đáng nhất
với những tư liệu hiện có. Chúng tơi hi vọng cơng trình nhỏ này của chúng tôi sẽ
thúc đẩy người khác suy nghĩ và viết về vần đề nhiều hơn.
Nhân dịp Luận án hoàn thành, chúng tôi trân trọng cảm ơn các vị trong Ban
Giám hiệu, trong Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn và trong Ban Phụ trách phòng
Nghiên cứu khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành phị Hổ Chí Minh đã
hằng quan tâm giúp đỡ về vật chất, cũng như khuyến khích về tinh thần. Chúng
tôi cũng xin chân thành cảm ơn Giáo sư Lê Trí Viễn, Giáo sư Trần Thanh Đạm,
Phó tiến sĩ Mai Quốc Liên, bạn Phan Thanh Lương đã đọc và đóng góp cho bản
luận án này nhiều ý kiến quý báu ; xin chân thành cảm ơn Giáo sư Hoàng Xn
Hãn, q Ơng Hồng Xn Bình và Bà Thu Trang đã giúp đỡ, cung cầp cho
chúng tôi những văn bản về Chinh phụ ngâm tôi cần thiết ; xin chân thành cảm
ơn Phó tiến sĩ Trần Xuân Ngọc Lan và bạn Trần Hồng đã sốt sắng cho chúng
tơi mượn những tư liệu văn học và ngôn ngữ học quý báu. Cuối cùng, chúng tôi


3

trìu mến biết ơn người bạn đời của chúng tơi là Phan Thị Ngọc Quế một mình

quán xuyến mọi việc trong nhà và biết ơn năm con Xuân Thủy, Bích Thủy,
Phương Thủy, Việt Thủy và Nhược Thủy phải chịu thiếu thốn trăm bề, để chúng
tôi được yên tâm ngồi viết Luận án trong năm học 1989-1990.
TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm 1990
NGUYỄN VĂN DƯƠNG


4

CHƯƠNG DẪN NHẬP
I. Lịch sử vấn đề
II. Mục đích, đặc điểm, phạm vi của luận án
III. Phương pháp nghiên cứu, tư liệu nghiên cứu
IV. Giải quyết một số nghi vấn có liên quan đến vấn đề
V. Thành phần của Luận án

I. Lịch sử vấn đề
Trong nền văn học nước ta, vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm chỉ được
đặt ra vào thập niên thứ ba của thế kỉ thứ XX. Những sự kiện làm mốc cho vấn
đề gồm có hai : thứ nhầt là sự địi hỏi của ơng Phan Huy Chiêm năm 1926 ; thứ
nhì là sự cơng bố những tư liệu mới cua ơng Hồng Xn Hãn năm 1953 (1).
1. Giai đoạn 1926-1953. Trước năm 1926, học giới chỉ biết một bài diễn ca
Chinh phụ ngâm, tức là bài diễn ca hiện hành, và tên một người dịch là Đồn
Thị Điểm. Đó là theo tục truyền từ trước, và theo sự ghi chép trên một bản Nôm
Chinh phụ ngâm được khắc in vào đầu thế kỉ thứ XX (2).
Năm 1926, ông Phan Huy Chiêm, một người con cháu họ Phan ở Sơn Tây,
có gửi cho cộng tác viên của tạp chí Nam phong là ơng Đơng châu Nguyễn Hữu
Tiến một bức thư kèm theo một ít tư liệu, nói rằng theo sự ghi chép trong gia
phả họ Phan, cùng lời các phụ lão trong họ Phan truyền lại, thì bài Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Cơn là ‘do cụ Phan Huy Ích dịch ra văn Nơm, hiện nhà họ

Phan
1

cịn giữ được bản chính, vừa chữ vừa Nơm’. Ơng Phan Huy Chiêm còn

Lịch sử vấn đề từ năm 1926 đến 1964 đã được chúng tơi trình bày và thảo luận tương
đối kĩ càng trong sách Thử giải quyết vấn đề diễn giả Chinh phụ ngâm (viềt tắt a Thử
giải quyết … ), Nhà xuất bản đại học Huế, 1964, tr. 17-132. Ở đây, chúng tơi chỉ tóm
tắt những nét chính, rút từ sách trên.
2
Đó là bản Long hịa, do Vũ Hoạt Khắc in năm 1902.


5

đưa ra một bằng chứng nữa, là bài thơ ‘Ngẫu thuật’ do Phan Huy Ích làm, sau
khi dịch xong khúc Chinh phụ ngâm ra bài mới (3). Ơng Đơng châu cơng bố lời
u cầu đính chính ấy trên tạp chí Nam phong, nhưng vì lời văn viết vắn tắt, thờ
ơ, lại đăng chìm trong mục Văn uyển, cho nên bài báo của ơng Đơng châu ít
được ai chú ý (4).
Mãi gần hai mươi năm sau, năm 1943, ơng Hồng Thúc Trâm mới viết một
bài khảo cứu nhỏ đăng trên tạp chí Tri tân, băn khoăn chẳng biết Đồn Thị Điểm
hay Phan Huy Ích, ai là người đã dịch bài Chinh phụ ngâm nổi tiếng. Trong bài
khảo cứu này, ơng Hồng Thúc Trâm đã tra cứu trong sách Lịch triều hiến
chương (là sách có viết về nguyên tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn) và
sách Tang thương ngẫu lục (là sách có chép truyện Đồn Thị Điểm và truyện
Đặng Trần Cơn), để chẳng thấy một chút ghi chép gì cho ta biết Đoàn Thị Điểm
đã dịch Chinh phụ ngâm. Nhưng, tôn trọng sự truyền văn và ý kiến chung của
dư luận, ơng Hồng Thúc Trâm khơng vội vàng chấp nhận Phan Huy Ích là dịch
giả bài Chinh phụ ngâm theo như lời địi hỏi của ơng Phan Huy Chiêm, mà chỉ

đề nghị đề chữ ‘khuyết danh’ trên bài dịch Chinh phụ ngâm hiện hành (5). Đó là
một cách giải quyết thận trọng và khách quan.
Qua năm 1944, ông Trúc khê Ngơ Văn Triện, nhân đọc được cuốn Đồn thị
thực lục, tức là cuốn gia phả của nhà họ Đoàn ở làng Giai - phạm, tỉnh Hưng yên, đẫ viết bài ‘những tài liệu mới về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm’ (6). Qua bài báo, ta
biềt được những sự kiện xác thực về dịng dõi bà Đồn, cùng những chi tiết li kì
về sự kén chồng giữ giá của bà, về đời sống tần tảo một tay bà nuôi mẹ già cùng
3

Tức là bài ‘Tân diễn Chinh phụ ngâm khúc thành, ngẫu thuật’ (Diễn xong khúc
Chinh phụ ngâm ra bài mới, chợt kể lại).
4
Xem Nam phong tạp chí, tập XVIII, số 106 (tháng 6-1926, Hà-nội), tr. 494-495.
Xem thêm Thử giải quyết…. Sđđ., tr. 26-32.
5
Hoàng Thúc Trâm, ‘Dịch phẩm Chinh phụ ngâm phải chăng của bà Đồn Thị
Điểm?’, tạp chí Tri tân, số 113 (23-9-1943, Hà-nội), tr. 2-3. Xem thêm Thử giải
quyết..., Sđđ.. tr. 26-32.
6
Đăng trên nguyệt san Tiểu thuyết thứ bảy, số 4 (tháng 7-1944, Hà-nội), tr. 30-48.


6

gia đình chị dâu góa bụa, về cuộc hơn nhân thị đẹp nhưng q ngắn ngủi của bà
vói ơng Nguyễn Kiều, và cuối cùng về cái chết của bà vào lúc bốn mươi bốn
tuổi, để nhiều thương tiếc cho đức lang quân. Trong phần ‘Phục lục’ của bài báo,
ông Trúc khê đã nêu lên ba lẽ đáng ngờ để nghĩ rằng ‘bản dịch Chinh phụ ngâm
có thể khơng phải của bà Đồn Thị Điểm’ (7).
Ý kiến có phần cực đoan của ơng Trúc khê có lẽ khơng được nhiều người
hưởng ứng. Cho nên, qua năm 1950, trong sách Quốc văn đời Tây-sơn, khi

nghiên cứu về Phan Huy Ích, ơng Hồng Thúc Trâm đã đột ngột trở lại chấp
nhận tục truyền ; ông viết : 'Bản dịch Chinh phụ ngâm được truyền tụng bấy nay,
bây giờ nếu chưa đủ chứng cớ bảo là của người khác, thì ta hãy cứ cho Đoàn Thị
Điểm là dịch giả như đời vẫn thừơng truyền ! cịn dịch phẩm Chinh phụ ngâm
của Phan Huy Ích là một bản dịch khác.., ít ai biết đến, nên bấy nay không thấy
truyền tụng ở đời.'

(8) Thật ra, ý kiến của ơng Hồng Thúc Trâm vẫn có chỗ

chưa được xác đáng ; vì để tránh hồ đồ, ơng Hồng Thúc Trâm cần tìm cho được
bài diễn ca của nhà họ Phan, chỉ rõ bài diễn ca ấy khác với bài hiện hành như
thế nào, thì mới có thể qua quyềt như vậy được.
Thái độ của ơng Hồng Thúc Trâm chắc đã làm nhiều nguời phấn khởi.
Năm 1951, ông Thuần phong Ngô Văn Phát cho ra đời sách Chinh phụ ngâm
khúc giảng luận, dùng lối ‘sưu tầm gián tiếp' để mong giải quyết vấn đề. Lập
luận của ông như sau : Hai bài văn có chịu ảnh hưởng rõ ràng của bài diễn ca
Chinh phụ ngâm là bài hát nói 'Gánh gạo đưa chồng’ của Nguyễn Công Trứ
7

Ba lẽ đáng ngờ ấy có thể tóm tắt như sau :a) Cháu rể của Đoàn Thị Điểm, người viết
Đoàn thị thực lục, khơng nói gì đến việc bà Đồn dịch Chinh phụ ngâm; b) Trong bài
văn tế vợ, Nguyễn Kiều tuy có ghi các tác phẩm chữ Hán của Đoàn Thị Điểm, nhưng
cũng không đề cập đến việc bà dịch Chinh phụ ngâm; c) Đối với Đồn Thị Điểm, thì
Đặng Trần Cơn là người ít tuổi, học sau. Gia phả cho biết Đoàn Thị Điểm mất lúc 44
tuổi. Lại theo Tang thương ngẫu lục, khoảng năm về già Đặng Trần Côn mới viết
Chinh phụ ngâm. Nếu đúng như vậy, thì khi Chinh phụ ngâm ra đời, Đoàn Thị Điểm
đã tạ thế rồi. Xem thêm Thử giải quyết … Sđđ., tr. 33-39.
8
Quốc văn đời Tây-sơn, Sài-gòn, Vĩnh-bảo, 1950, tr. 99-101. Xem thêm Thử giải
quyết …, Sđđ., tr. 39-43.



7

(1778-1858) và bài 'Ai tư vãn' của Lê Ngọc Hân (1770-1799). Vì lịng tự trọng,
hai nhà văn nổi tiếng này, nếu đã chịu ảnh huởng phải là người sống cách xa họ
là Đồn Thị Điểm (1705-1748) chứ khơng thể là người đồng thời với họ là Phan
Huy Ích (1750-1822). Do đó, bài dịch Chinh phụ ngâm được truyền tụng bấy
nay phải là của Đoàn Thị Điểm (9).
Lối sưu tầm của ông Thuần phong (nên gọi là 'trực tiếp’ thì đúng hơn) đã
đánh dấu một bước tiến trong việc giải quyết vấn đề. Việc tra cứu không đem
đến một kết quả cụ thể nào của hai ơng Hồng Thúc Trâm và Trúc khê khiến ta
nghĩ đến những lời bàn luận luống công của các nhà bác học nước Đức về lịch
sử và nguồn gốc chiếc răng vàng trong sách Histoire des Oracles (Lịch sử sấm
ngôn) của Fontenelle (10). Khi dẫn dắt độc giả tìm mối tương quan giữa bài
Chinh phụ ngâm với vài tác phẩm trong thế kỉ thứ XVIII, tức là ông Thuần
phong đã băn khoăn phần nào đến đối tượng chính là nội dung và hình thức của
bài diễn ca, vì nghiên cứu bản thân các văn bản, ta có thể tìm thấy sự thật chắc
chắn hơn là chỉ trơng cậy vào sự ghi chép có thể sai lầm trong các sử sách.
Tuy nhiên, ta không đồng ý với những kết luận mà ơng Thuần phong đưa
ra, vì ơng đẫ nghiên cứu trong điều kiện thiếu những tư liệu cơ bản và thiếu một
phương pháp thẩm định tư liệu chặt chẽ. Như ở đoạn nhận xét về ý kiến bênh
vực tục truyền của ơng Hồng Thúc Trâm trên đây, ta thấy vấn đề người dịch
Chinh phụ ngâm vẫn chưa được giải quyết, nếu ta chưa nghiên cứu được những
tư liệu trọng yếu, cơ bản, là bài diễn ca của nhà họ phan, cùng những bài diễn ca
9

Chinh phụ ngâm khúc giảng luận, Sài-gịn, Á-châu xuất bản, bản kì tư (không đề năm
xuất bản), tr. 13-28. Xem thêm Thử giải quyết …, Sđđ., tr. 44-65.
10

Câu chuyện tóm tắt như sau : Vào năm 1593, có tin đồn một đứa bé bảy tuổi ở vùng
Silésie (nước Đức) vừa rụng răng, một chiếc răng lớn mọc ra lại bằng vàng. Nhiều vị
giáo sư, bác học... viết sách bàn về lịch sử và nguồn gốc chiếc răng, bài bác lẫn nhau
rất kịch liệt... các sách hay ho ấy bàn đủ mọi điều, trừ điều chiếc răng ấy có thật là
bằng vàng hay khơng. Khi người thợ kim hoàn đến xem xét chiếc răng, thì chẳng qua
chỉ là miếng vàng mỏng được tháp vào răng rất khéo ; nhưng có điều là người ta đã tốn
nhiều giấy mực để viết sách, rồi mới hỏi tới người thợ kim hoàn.


8

trước, mà Phan Huy Ích có đề cập trong bài thơ ngẫu thuật. Ngồi ra, căn cứ vào
lịng tự trọng của nhà văn để định thời điểm ra đời của các tác phẩm văn học
trong lối sưu tầm của ông Thuần phong lại là một tiêu chuẩn sai lầm, nếu khơng
nói là phản khoa học.
Trong giai đoạn thứ nhất trên đây, ta nhận thấy mấy tác giả đã nối tiếp nhau
nghiên cứu làm thành sự diễn tiến hợp lí.
Sau khi ông Đông châu nêu lên sự đòi hỏi của con cháu nhà họ Phan, thì
Hồng Thúc Trâm là người đầu tiên tra cứu sử sách để nhận rằng sự đòi hỏi ấy
là chính đáng. Để bổ túc cho sự nghiên cứu có phần sơ lược của ơng Hồng
Thúc Trâm, ơng Trúc khê đã tìm tịi kĩ lưỡng về thân thế nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,
đề nghị rằng bài dịch Chinh phụ ngâm khơng phải là của bà Đồn. Như để trả lời
cho ơng Trúc khê, ơng Hồng Thúc Trâm quay sang nghiên cứu Phan Huy Ích trừ bài diễn ca Chinh phụ ngâm của nhà họ Phan - để trở lại chấp nhận tục
truyền, và để bênh vực tục truyền, ông Thuần phong đã góp thêm lối 'sưu tầm
gián tiếp'.
Điều cần lưu ý là trong giai đoạn này, cho tới trước năm 1953, mặc dầu biết
thêm tên một người dịch là Phan Huy Ích, nhưng học giới cũng chỉ biết có một
bài diễn ca Chinh phụ ngâm tức là bài diễn ca hiện hành. Vì thiếu những tư liệu
cơ bản, trọng yếu là những bài diễn ca khác, cho nên ta mới hiểu tại sao khuynh
hướng bênh vực tục truyền là khuynh hướng chủ đạo trong giai đoạn này.

2. Giai đoạn 1953-1990. Giai đoạn này mang tính chất tranh luận thực sự.
Nó kéo dài gần bốn mươi năm, kể từ năm 1953 là năm ơng Hồng Xn Hãn
xuất bản sách Chinh phụ ngâm bị khảo (11) tung ra những tư liệu mới quyết đốn
Phan Huy Ích là người đã diễn ca bài Chinh phụ ngâm hiện hành, cho đến năm

11

Xem Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm bị khảo, Paris, Nhà xuất bản Minh Tân,
1954, 342 trang.


9

1987 ông Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải Chinh phụ ngâm khúc (12)
coi cơng trình của ơng Hồng Xn Hãn và cơng trình những người bênh vực
thuyết của ông Hoàng Xuân Hãn là những sự thầt bại hoàn tồn.
Gọi là 'tư liệu mới' ; vì ngồi bài diễn ca Chinh phụ ngâm hiện hành (ơng
Hồng Xn Hãn gọi tắt là bài A) mà ai cũng biết, ơng Hồng Xn Hãn đã tìm
được và cơng bố trước cơng luận những tư liệu trọng yếu và cơ bản mà chúng
tôi vừa đề cập ở cuối đoạn trước : ấy là bài diễn ca của nhà họ Phan (ông gọi là
bản Phan huy) và ba bài diễn ca khác mà ông đốn là của Đồn Thị Điểm (bài
B), của Nguyễn Khản (bài C) và của một dịch giả vô danh (bài D). Ngồi những
tư liệu mà chúng ta mong đợi, ơng Hồng Xn Hãn cịn tìm được những tư liệu
q báu khác, rất cần cho việc hiệu đính khúc Chinh phụ ngâm chữ Hán cũng
như bài diễn ca hiện hành : ấy là bài Chinh phụ ngâm chữ Hán của Hồng liệt bá
viết để chọi lại bài Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và nhiều bản in khác
nhau về bài diễn ca Chinh phụ ngâm hiện hành.
Về những bằng chứng cho sự đốn định người dịch Chinh phụ ngâm, ơng
Hồng Xuân Hãn chỉ viết vắn tắt như sau :
'Hiện nay tơi đa tìm thấy bốn bài diễn ca Chinh phụ ngâm : bài đã được

khắc bằng nôm và in bằng chữ la-tinh (mà tôi sẽ gọi là bài A) và ba bài khác
chưa từng thấy khắc hay in. Tôi sẽ gọi các bài này bằng bài B, C, D...
'Bài A- Bài A là bài đã được đem in ra chữ la-tinh và được liệt vào chương
trình văn học. Từ trước đã chính thức nhận đó là diễn phẩm của Đồn Thị Điểm,
nhưng thật ra thì là của Phan Huy Ích.
'Người đính chính việc này là một người họ Phan, ơng Phan Huy Chiêm.
Từ năm 1926, ông Huy Chiêm đã gửi thư cho báo Nam phong, nói rằng bản
Chinh phụ ngâm là 'cụ Phan Huy Ích dịch ra văn nơm, hiện nhà họ Phan còn giữ
12

Xem Nguyễn Thạch Giang, Chinh phụ ngâm khúc, trong Những khúc ngâm chọn
lọc, tập I, Hà-nội, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1987, tr. 19106.


10

được bản chính, vừa chữ vừa nơm'. Nhưng từ đó, mặc dầu những nhà khảo cứu
yêu cầu, ông Huy Chiêm chưa từng xuất bản bài diễn ca ấy. Ấy vì lẽ ông Huy
Chiêm nghĩ rằng bản diễn ca của cụ tổ mình chính là bản đã in bán khắp nơi, mà
có lẽ có câu khơng hay bằng nữa. Mùa hè năm nay, tôi đã được ông Huy Chiêm
nhờ người họ gửi cho một bản. Nhưng chỉ là một bản đã phiên am ra chữ la-tinh.
Hình như bản chữ nho và chữ nơm nay chưa tìm lại được.
'Tuy bản phiên âm kia sai lầm nhiều lắm, nhưng có những chứng làm ta tin
chắc rằng đó là do một bản riêng của họ Phan mà phiên ra : chứng chắc chắn
nhất là tuy bản ấy phần lớn giống bản thường ta biết, nhưng cố một số về hoàn
toàn khác hẳn. Như trong chương IV và phân hiệu đính, tơi sẽ nêu dần ra, các vế
khác ấy là nguyên văn của Phan Huy Ích khởi thảo.
'Vả chăng trong gia phổ họ Phan, có chép rằng : 'Ông lại từng diễn Chinh
phụ ngâm khúc. Nay, từ các bậc danh nhân, văn sĩ, cho đến trai gái thôn quê, ai
mà không đọc.' Bài diễn ca được phổ truyền như vậy hẳn là bài A.

'Bài thơ Huy Ích làm ra sau khi diễn ca xong, mà tơi đã nói đến trên kia,
càng làm thêm vững thuyết ấy. Bình phẩm nguyên Hán văn và các diễn phẩm
của những người trước ơng và của ơng, ơng nói :
‘Lấy vần và luật, làm sao diễn hết được tinh túy của mạch văn,
‘Nếu theo từng thiên, từng chương, mà tìm âm thanh cho êm ái.
'Trong khi thong thả, ta phiên dịch thành khúc mới,
'Ta tự tin rằng đã vạch rõ được lòng tác giả.’
Nếu ta so sánh bài A với các bài kia, thì ta sẽ thấy rằng bài A là bản dịch
không câu nệ về nghĩa đen, về thứ tự các vế, nhưng gọn gàng, trôi chảy và êm ái


11

nhất. Nay cịn có nhiều bản khác nhau, mà các bản ấy lại có thoại (13) khác
nhau...
'Bài B. - Bài này cịn chép trong bản Nơm Viết cũ, nhưng chưa từng được
xuất bản. Trong bản Viết cũ ấy, trước bài B, có đề hai chữ 'Nữ giới'. Ý muốn nói
đó là đàn bà diễn ca. Văn dịch sát nghĩa hơn bài A ; lại không bỏ vế, bỏ chữ như
bài A. Có nhiều tiếng cổ, thấy trong văn Lê. Những lẽ ấy và các lẽ đã bày tỏ ở
mục 'Diễn giải trên, khiến ta tin rằng bài B này là của Đoàn Thị Điểm.’ (14)
Ta phải nhận rằng khi tập trung biết bao cơng sức, trí tuệ để đối chiếu, suy
nghĩ, tìm tịi hầu phiên âm, hiệu đính, chú giải hết sức chu đáo các văn bản Nôm
A, B, C... (trong đó có các bản Trường thịnh, Long hịa, Bác cổ, Phan huy...),
ơng Hồng Xn Hãn đã thấy rõ hơn ai hết ai là dịch giả các bài A và B. Nhưng
để chứng minh một cách rạch ròi, thấu đáo cho những điều ‘thấy’ trên đây, thì
vấn đề lại khơng đơn giản, lại cần đến nhiều tìm tịi, suy nghĩ tiếp theo.
Vì vậy, ta khơng lấy làm lạ mà nhận thấy rằng trong khoảng mười năm sau
khi sách Bị khảo ra đời, hầu hết các nhà nghiên cứu về Chinh phụ ngâm vẫn tin
theo tục truyền. Ở miền Nam, ít nhất cũng có chừng mươi tác giả cơng nhiên
phản đối hoặc mặc nhiên phủ nhận thuyết Hoàng Xuân Hãn (15). Ở miền Bắc,

trong các sách Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam, Lược thảo lịch sử văn học
Việt-nam, trong sách Chinh phụ ngâm của các ơng Hồng Ngọc Phách, Lê
Thước, Vũ Đình Liên xuất bản năm 1957, trong các giáo trình giảng dạy ở các
Trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm thuộc các năm học từ 1961 đến

13

Tôi dùng chữ thoại để trỏ một trong những cách chép một chuyện gì, một ý gì. Đó là
theo chữ Nhật. (Chú thích của Hồng Xn Hãn). Xem Bị khảo. Sđđ., Tựa, tr. 8, chú
thích số 13.
14
Xem Hồng Xn Hãn, Chinh phụ ngâm bị khảo, Sđđ., tr. 26-27. Sau đây sẽ viết tắt
là Bị khảo.
15
Xem Thử giải quyết...., Sđđ., tr. 77-83.


12

1963, người ta vẫn hoặc ‘treo’ lại hẳn vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm, hoặc
vẫn ‘tạm nhận’ Đoàn Thị Điểm là dịch giả bài diễn ca hiện hành (16).
Người kịch liệt phản đối chủ trương của ơng Hồng Xn Hãn là ông Biệt lam
Trần Huy Bá, một nhân viên của Viện Bác cổ ở Hà-nội. Trên tạp chí Tầm
nguyên, ông Biệt lam bài bác những ý kiến của ông Hồng Xn Hãn, mà ơng
cho là sậu đốn, tức là quyết đốn một cách vội vàng. Ơng khơng chấp nhận ý
nghĩa hai chữ 'Nữ giới' 女戒 là 'ý nói đàn bà diễn ca', theo cách hiểu của ơng
Hồng Xn Hãn. Ông Biệt lam lại đối chiếu một số từ ngữ và thành ngữ trong
vài bài văn tế của Phan Huy Ích với bài diễn ca B để cho rằng Phan Huy Ích là
dịch giả bài B. Cuối cùng, ơng lại so sánh những chỗ giống nhau giưa hai bài
diễn ca A và B để cho rằng Phan Huy Ích là người nhuận sắc bài diễn ca của

Đồn Thị Điểm. Nhìn chung, tuy nhận định của ông Biệt lam về ý nghĩa hai chữ
‘Nữ giới’ là xác đáng, nhưng những chứng minh của ơng cho rằng phan Huy Ích
là dịch giả bài B hay là người nhuận sắc bài diễn ca của Đồn Thị Điểm thì lại là
những nhận định khơng đứng sự thật và thiếu căn cứ hợp lí (17).
Năm 1963, trong sách Việt-nam văn học sử giản ước tân biên, ơng Phạm
Thế Ngũ góp thêm một 'luận cứ về thư tịch và thời gian' để đánh đổ thuyết
Hoàng Xuân Hãn. Nhưng thật ra, 'luận cứ' kia chỉ là sự xuyên tạc và bịa đặt liều
lĩnh, chẳng có một chút giá trị khảo chứng gì (18).
Tuy nhiên, đến năm 1964, ngồi Bắc và trong Nam đều có người viết sách
bênh vực thuyết Hoàng Xuân Hãn. Trong sách Chinh phụ ngâm xuất bản tại Hànội, ông Lại Ngọc Cang đã dành 52 trang trong phần ‘Khảo luận’ ở đầu sách để
xét vấn đề dịch giả Chinh phụ ngâm. Trong chín luận điểm được nêu để chứng
minh bài diễn ca hiện hành là của Phan Huy Ích, thì các điểm liên quan đến thể
16

Xem Lại Ngọc Cang, Chinh phụ ngâm, Hà-nội, Nhà xuất bản Văn học, 1964, tr. 26.
Xem Biệt lam, ‘Cái nghi án văn chương. Tác giả là ai?’, Tàm nguyên tạp chí, tập
thứ I (Hà-nội, tháng 5-1954), tr. 7-18. Xem thêm Thử giải quyết..., Sđđ., tr. 97-110.
18
Xem Phạm Thế Ngũ, Việt-nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, Sài-gòn, Quốc
học tùng thư, 1963, tr. 156; xem thêm Thử giải quyết..Sđđ., tr. 122-131.
17


13

loại, cú pháp, thi pháp và văn phong là gồm nhiều nhận xét đúng đắn và sâu sắc.
Nói chung, ơng Lại Ngọc Cang đã nhìn thấy và đã giải quyết vấn đề một cách
tồn diện và thấu đáo, nhưng vì hơi ôm đồm, muốn giải quyết một vần đề lớn
trong một số trang hạn chế, nên vẫn chưa thuyết phục được nhiều người (19).
Sách Thử giải quyết vấn đề diễn giả Chinh phụ ngâm của chúng tôi, cũng

xuất bản trong năm 1964, là một sách chuyên khảo về đề tài người dịch Chinh
phụ ngâm. Theo chúng tôi, vấn đề then chốt đã được ơng Hồng Xn Hãn giải
quyết một cách cơ bản trong sách Bị khảo. Vào thời điểm năm 1964 và ngay cả
hiện nay, sách Bị khảo của ông Hồng Xn Hãn vẫn là một cơng trình khảo
đính. và hiệu đính có giá trị rất cao, chưa có sách nào viết về Chinh phụ ngâm có
thể sánh được (20). Vì vậy, khi viết sách, trước hết chúng tơi thấy có trách nhiệm
bênh vực cơng trình của ơng Hồng Xn Hãn trong sách Bị khảo đã bị học giới
phủ nhận một cách oan uổng ( 21 ). Ngoài ra, khi viết sách Thử giải quyết...,
chúng tôi không chỉ giới hạn trong việc chứng minh dịch phẩm Chinh phụ ngâm
19

Xem Lại Ngọc Cang, Chinh phụ ngâm, Sđđ., tr. 19-70, ơng Hồng Xuân Hãn có
nhận xét về sách này nhữ sau: ‘Đại lược thì ơng Cang đã lấy lại phần lớn sách tôi (tức
sách Bị khảo, N.V.D.) bàn tán rộng và thêm phần phán đốn bình phẩm về nội dung
(quan điểm chính trị hiện thời) chỉ trích một phần nào đó và cho in lại các thoại kia
nữa (tức các bài B, C, D, - N.V.D.). Riêng bản dịch nghĩa, ông ấy dịch lại. Ơng có
sửa lại một số chữ trong các thoại, cũng có chữ chữa phải lẽ, nhưng có nhiều chữ ông
không thông.' (Thư viết từ Paris, đề ngày ‘cuối tháng tư 19605’)
20
Ông Lại Ngọc Cang đã cố gắng viết sách Chinh phu ngâm với ý đồ thay thế sách Bị
khảo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đó là việc làm đáng khuyến khích. Tuy nhiên, vì
ơng Cang chỉ dùng những tư liệu hạng nhì và lấy lại phần lớn sách I
Bị khảo làm
sách mình, nhiều chỗ khơng nêu xuất xứ, cho nên giá trị khoa học khơng có gì đáng kể,
theo ý chúng tơi.
21
Ngay cả ơng Lại Ngọc Cang, tuy tán đồng thuyết của ơng Hồng Xn Hãn, cũng đã
vơ tình hay cố ý đánh giá sai lạc những đóng góp của Hồng Xn Hãn trong sách Bị
khảo. Ví dụ : Để chứng minh bài diễn ca B là của Đoàn Thị Điểm, ngoài việc căn cứ
vào hai chữ 'Nữ giới', ơng Hồng Xn Hãn cịn căn cứ vào lối văn dịch sát nghĩa,

không bỏ vế, bỏ chữ như bài A, vào nhiều tiếng cổ thấy trong văn đời Lê và vào những
lẽ đã bày tỏ ở mục diễn giả... Thế mà khi giới thiệu việc chứng minh kia, ông Cang chỉ
nêu ra chứng cứ duy nhất là hai chữ ‘Nữ giới’, để tiếp đó chỉ trích ơng Hồng Xn
Hãn, coi đó là 'sự sơ xuất đáng tiếc'.


14

hiện hành là của Đoàn Thị Điểm hay của Phan Huy Ích, mà cịn có tham vọng
giải quyết vấn đề khảo đính và hiệu đính nối chung, trong tình hình học vấn của
nước ta hồi bấy giờ (22).
Năm 1972, ông Nguyễn Văn Xuân, giáo sư thỉnh giảng, phụ trách môn văn
học trình diễn tại Trường Đại học Văn khoa Huế, cho xuất bản sách Chinh phụ
ngâm diễn âm tân khúc, trong đó ơng cơng bố một bản Chinh phụ ngâm chữ
Hán và chữ Nôm khá đặc biệt, mang tên như trên, do ông phát hiện được từ tủ
sách một bà chúa ở tại Huế. Bản Tân khúc này tuy là một bản chép tay, nhưng
cách trình bày giống hệt một bản khắc in, lại có đặc điểm là lấy bản chữ Nơm
làm chính, bản chữ Hán làm phụ. Về nội dung, bản này cịn có những điểm rất
đáng cho ta lưu ý : a) Trang bìa ghi tên tác phẩm là Tân san Chinh phụ ngâm
22

Sách Thử giải quyết. . . (Nhà xuất bản Đại học Huế, 1964) dày 518 trang khổ 15,5 x
23,5 gồm 7 chương, chia làm ba phẩm. Trong 'Phân thứ nhầt' (chương I và II), chúng
tôi trình bày và thảo luận tỉ mỉ trên 20 điểm nghi vấn do những nhà khảo cứu nêu ra từ
năm 1926 đền 1964, chủ yều là để vạch ra những chỗ sai lầm hay chưa được thích
đáng của những người bênh vực tục truyền trước và sau Hoàng Xuân Hãn. 'Phần thứ
hai' gồm ba chương tiếp. Trong Chương III, chúng tơi căn cứ vào kinh nghiệm học hỏi
mấy nghìn năm của người Trung-quốc và vào kết quả nghiên cứu của một số học giả
gần đây như Lương Khai Siêu, Phùng Hữu Lan, Hồ Thích, Bernhard Karlgren... để
nêu ra phương pháp và ví dụ về việc khảo đính những tác phẩm cổ, hầu làm cơ sở lí

luận cho việc giải quyết vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm của chúng tôi. Trong
chương IV, chúng tôi thống kê chừng 20 tư liệu gốc về sử sách (gia phả, sử, địa
phương chí...) và chừng 20 văn bản gốc về tác phẩm Chinh phụ ngâm (chư Hán, chữ
Nơm) để chứng tỏ ơng Hồng Xn Hãn đã lục lọi tư liệu khắp nơi trong nước cũng
như trên thế giới, cung cấp cho chúng ta biết bao nhiêu chi tiết cụ thể về tác giả, về
dịch giả và về văn bản, những chi tiết ấy kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và hợp lí,
khiến cho vấn đề dịch giả trở thành một vấn đề khảo chứng cụ thể, có tính chất sử học
và văn bản học, không ở trong phạm vi mơ hồ của tục truyền nữa. Trong chương V,
chúng tôi định thời điểm trước sau của các bài diễn ca A, B, C, D (cụ thể bài B là bài
đầu tiên, bài A là bài sau cùng) qua nghiên cứu thể văn song thất lục bát và nghệ thuật
diễn ca trong các bài ấy, nghĩ rằng chỉ cần chứng minh bằng bốn bản thống kê cũng đã
nói lên tính hiển nhiên của thuyết Hồng Xn Hãn. Trong 'Phần phụ lục', chúng tơi
bàn về vấn đề hiệu đính nói chung và về việc hiệu đính Chinh phụ ngâm có tính khoa
học và chính xác cao của Hồng Xn Hãn nói riêng (phục lục 1), cuối cùng cho in lại
bài Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích, do Hồng Xn Hãn hiệu đính (Phụ lục II).


15

diễn âm từ khúc, ghi năm khác là Gia-long thứ mười bốn (ất dậu, 1815), nhà
tàng bản là Chính trực đường ; b) Bài 'Nguyên tự' chữ Hán ở đầu tập (bị mất
một hay hai trang sau, chỉ còn hai trang trước), chắc là do Phan Huy Ích viết,
nói ơng đã dịch bản Tân khúc vào dịp đầu xuân năm giáp tí (tức năm 1804) tại
Bắc thành (tức Hà-nội) gồm 204 liên (tức 408 câu) ; c) Bản chữ Nôm Tân khúc
phần lớn giống hệt bản đã phiên âm ra chữ quốc ngữ của nhà họ Phan (kể cả
mười ba câu khác với bản thông thường) mà ông Phan Huy Chiêm đã gửi sang
Paris cho ơng Hồng Xn Hãn cơng bố trong sách Bị khảo (23). Những đặc
điểm trên đây càng làm vững thêm thuyết của ơng Hồng Xn Hãn.
Mặc dầu có những cơng trình dài hơi và phát hiện quan trọng trên đây để
hoặc bênh vực, hoặc củng cố thêm thuyết Hồng Xn Hãn, nhưng trong vịng

vài chục năm nay, ngồi ơng Nguyễn Lộc tỏ ý tán đồng (24), phần đông học giới
23

Xem Nguyễn Văn Xuân, Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc: (viết tắt : Tân khúc),
Sài-gòn. Lá Bối, 1972. Sách dày 208 trang, thêm Phụ lục 30 trang nguyên bản chữ
Hán và chữ Nôm in offeet. Sách ông Nguyễn Văn Xuân tuy công bố được một phát
hiện quan trọng, nhưng phần phiên âm bản Nôm ra chữ quốc ngữ có nhiều chỗ sai do
khơng chun về chữ Nơm và phần khảo luận có nhiều ý kiến khơng được xác đáng
lắm, cho nên vẫn chưa thuyết phục hẳn người đọc, không những vậy lại làm cái cớ cho
ông Lê Hưu Mục bịa đặt nhiều chuyện lôi thôi về hiệu đính trong sách Bị khảo để thóa
mạ ơng Hồng Xn Hãn.
24
Ơng Nguyễn Lộc viết : Đồn Thị Điểm, người đầu tiên diễn Nôm Chinh phụ ngâm
vào giữa thế kỉ XVIII, Phan Huy Ích diễn Nơm vào đầu thế kỉ XIX, cách nhau khoảng
sáu chục năm. Với một thời gian dài như thế, nhất là trong giai đoạn này, cố cơ sở để
nghiên cứu sự thay đổi của các yếu tố về nghệ thuật như ngôn ngữ, thể thơ, v.v.. .
Chúng tôi táu thành phương pháp xác minh này, và có thiên hướng tán thành
quan điểm của các ơng Hồng Xuân Hãn, Lại Ngọc Cang cho bản dịch Chinh phụ
ngâm hiện hành là của phan Huy Ích và Bản B là của Đồn Thị Điểm, bởi vì nhìn
chung ngơn ngữ của bản dịch hiện hành rất giống với ngôn ngữ của nhiều tác phẩm
Nôm trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, cịn bản B thì ngơn ngữ rõ ràng cổ hơn nhiều.
Tuy vậy cũng cần phải chứng minh lại một số vấn đề của Lại Ngọc Cang đặt ra cho
khách quan và triệt để hơn. Cơng việc ấy địi hỏi sự hỗ trợ của bộ môn ngôn ngữ học,
và việc nghiên cứu thi pháp cổ mà hiện nay chúng ta chưa có điều kiện làm được;
(Lịch sử văn học Việt-nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, tập I, Nhà xuất
bản Đại học và THCN, Hà-nội, 1976, tr. 205-206.


16


vẫn im lìm (25), khơng những thế, cịn có người đứng ra bài bác (26). Rất gần đây,
tuy các tác giả sách Văn học lớp 10 đã có khuynh hướng chấp nhận thuyết mới
(27), nhưng về mặt nghiên cứu khoa học, vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm vẫn
cần phải được giải quyết dứt khốt và thấu đáo.
II. Mục đích, đặc điểm, phạm vi của luận án
1. Mục đích của Luận án. Mục đích của chúng tơi khi viết Luận án này là
khẳng định thêm lần nữa thuyết Hoàng Xuân Hãn về người dịch Chinh phụ
ngâm trong sách Bị khảo là đúng đắn, là có giá trị, đáng cho học giới tìm hiểu và
ủng hộ.
Ngồi việc chứng minh bài diễn ca hiện hành là của Phan Huy Ích, trong
Luận án này, chúng tơi cịn có mục đích nhấn mạnh đến một phương pháp
nghiên cứu văn bản chưa được học giới lưu ý đến nhiều : ấy là dùng phương
pháp thống kê để nghiên cứu văn bản, cụ thể là qua phép thống kê, chúng tơi
lượng hóa những dữ kiện về các mặt văn thể, văn phong… sau đó đem đối chiếu,
so sánh các dữ kiện ấy để xác định thời điểm xuất hiện của các văn bản.
2. Đặc điểm của Luận án. Vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm theo hướng
cớ lợi cho Phan Huy Ích, là một vấn đề phức tạp, đã được xem xét, giải quyết
qua một quá trình lâu dài, nhưng vẫn chưa thuyết phục được dư luận đông đảo.
Muốn sự giải quyết được trọn vẹn, chúngtôi thiết tưởng Luận án phải đạt được
ba đặc điểm hay đặc tính sau: tính tồn diện, tính phân minh, tính khoa học.
25

Xem Đặng Thanh Lê, 'Chinh phụ ngâm', trong Lịch sử văn học Việt-nam, tập III,
Hà-nội, Nhà xb Giáo dục, in lần 4, 1976, tr. 40.
26
Xem trường hợp hai ông Lê Hữu Mục và Nguyễn Thạch Giang ở các trang 140, 158
và trang 160, 161 trong Luận án này.
27
'Bản dịch hay nhất hiệu đang được lưu hành lâu nay người ta tưởng là bản của bà
Đoàn Thị Điểm, nhưng với những tư liệu đã được phát hiện, thì bản ấy có nhiều khả

năng là bản của Phan Huy Ích chứ khơng phải của Đồn Thị Điểm. (...) Phan Huy Ích
(...) rút được kinh nghiệm của những người đã dịch Chinh phụ ngâm trước ông và kế
thừa được những thành tựu của họ, nên bản dịch của ông thành công hơn cả.’ (Văn
học lớp 10, tập 1, TP Hồ Chí Minh, Nhà Xb Giáo dục, 1990, tr. 115)


17

a) Tồn diện: Vì vấn đề hết sức phức tạp, ta phải xem xét vấn đề đủ các
mặt, càng nhiều càng tốt. Tựu trưng, có thể kể các mặt chính sau đây :
-

Sử sách : Các sử sách xưa, các cơng trình nghiên cứu gần đây cho ta

biết gì về tác giả và về những dịch giả Chinh phụ ngâm ? Bản thân tác giả hoặc
các dịch giả đã nói gì về tác phẩm của mình, về dịch phạm của mình và của
người khác ?
-

Thư mục : Tác phẩm Chinh phụ ngâm chữ Hán của Đặng Trần Côn và

những dịch phẩm của Đồn Thị Điểm, của Phan Huy Ích đã được phổ biến, lưu
truyền như thề nào ? đã được các nhà nghiên cứu thu thập ra sao ? Tìm sự liên
hệ sản sinh giữa các bản cũ cũng có thể giúp xác định thời điểm xuất hiện của
các bài diễn ca.
-

Văn bản : Nghiên cứu văn thể, ngôn ngữ, văn tự, văn phong... trong

các bài diễn ca A, B, C, D cũng có thể giúp ta xác định một cách chắc chắn thời

điểm ra đời của các bài dịch. Nghiên cứu văn bản không chỉ giới hạn trong phạm
vi các bài dịch, mà cịn có thế nới rộng ra các văn bản khác của các dịch giả
hoặc của những người đương thời.
b) Phân minh : Giải quyết vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm là cả một quá
trình kéo dài trên nửa thế kỉ nay, trong đó có sự đóng góp cơng lao và trí tuệ của
nhiều người. Vì lẽ công bằng, đối với mọi chi tiết, mọi ý kiến trong Luận án,
chúng tôi không để nhập nhằng, mà nêu rạch rịi đâu là sự đóng góp của những
người đi trước, đâu là sự đóng góp của bản thân. Vì lẽ cơng bằng, chúng tơi sẵn
sàng nêu ưu điểm của những người chủ trương không giống chúng tôi và công
nhận khuyết điểm của những người cùng quan điểm với chứng tơi. Cuối cùng, vì
lẽ cơng bằng, đối với ý kiến của những người đi trước, chúng tơi thấy có bổn
phận phải đề cao những người đã đóng góp nhiều cơng lao, trí tuệ, và trái lại,
vạch rõ chỗ gian dối của những người khơng có thiện chí.
c) Khoa học : Người có tinh thần khoa học là người tơn trọng sự thật khách
quan, biết suy nghĩ trên những sự kiện và tư liệu cụ thể, biết làm việc theo


18

những phương pháp chính xác. Người bị thành kiến che lấp thường hoặc phủ
nhận sng sự thật vì lười biếng khơng chịu suy nghĩ, hoặc che giấu sự thật,
hoặc bóp méo sự thật cho hợp với ý kiến chủ quan của mình. Để hướng đến sự
thật, để tơn trọng và bảo vệ sự thật, trong Luận án này, chúng tôi triệt để tránh
lối tư duy và việc làm lệch lạc của những người bị thành kiến che lấp.
3. Phạm vi của luận án. Tính tồn diện thúc đẩy chúng tơi phải viết nhiều.
Nhưng tính phân minh buộc chúng tơi giới hạn sự nghiên cứu của chúng tôi
trong một phạm vi thỏa đáng :
a) Trong luận án này, chúng tôi không thảo luận về những ý kiến, những
nghi vấn được nêu lên bởi các nhà nghiên cứu về vấn đề người dịch Chinh phụ
ngâm trong vòng năm mươi năm qua. Phần lớn những ý kiến, những nghi vấn ấy

đã được chúng tôi thảo luận trong sách Thử giải quyết... Nay chỉ xin tóm tắt một
ít điều – đồng thời có bổ sung, căn cứ trên những tư liệu mới, cách nhìn mới trong đoạn V của Chương Dẫn nhập này.
b) Chúng tôi giới hạn phạm vi của luận án trong việc tìm hiểu về sử sách và
thư mục liên quan đến các bản nguyên tác chữ Hán và các bản dịch chữ Nôm
Chinh phụ ngâm, cũng như trong việc nghiên cứu văn thể, văn phong, văn tự...
trong bốn bài dịch A, B, C, D để định thời điểm xuất hiện của các bài dịch ấy,
chủ yếu là để xác định bài diễn ca B là bài đầu tiên, bài diễn ca A là bài sau cùng.
c) Cuối cùng, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu trên những tư liệu hiện có
trong tầm tay, khơng có tham vọng thu thập mọi tư liệu biết được, nghe được để
nghiên cứu một cách tường tận mọi khía cạnh của vấn đề (28).
28

Ví dụ : Chúng tôi không so sánh văn phong trong thơ văn chữ Nơm của Phan Huy
Ích với văn phong trong bài dịch Chinh phụ ngâm hiện hành, một phần vì chúng tơi
khơng có đủ tác phẩm của Phan Huy Ích để nghiên cứu, phần khác vì việc này đã được
ơng Lại Ngọc Cang thực hiện tương đối thỏa đáng trong sách Chinh phụ ngâm của ơng.
Nay lược trích sự phân tích của ông Cang như sau :
‘Điểm đặc sắc là trong các bài văn tế, bao giờ Phan Huy Ích cũng sử dựng một
lối văn đối chỉnh đến từng lời, từng ý ở hai vế, với một bút pháp bóng bảy, giàu mĩ từ


19

III. Phương pháp nghiên cứu, tư liệu nghiên cứu
Theo ý chúng tơi, mn thành tựu trong bất kì lãnh vực nào, nhà nghiên
cứu cũng phải hội đủ bốn điều kiện cơ bản sau đây :
- thái độ trung thực,
- kiến thức chắc chắn,
- phương pháp thích hợp,
- tư liệu đầy đủ.

Hai điều kiện trên thuộc phạm vi đạo đức và tri thức, thiếu hai điều kiện ấy,
nhà nghiên cứu chỉ đưa ra những kết quả hoặc lừa dối, hoặc non nớt. Hai điều
kiện sau thuộc phạm vi chuyên môn, thiếu hai điều kiện ấy, nhà nghiên cứu chỉ
đưa ra những cơng trình hoặc chưa hồn chỉnh, hoặc chưa đạt tiêu chuẩn. Ở đây,
chúng tơi chỉ xin nói đến phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu liên
quan đến luận án của chúng tôi.
1. Phương pháp nghiên cứu. Chúng tôi xin đề cập tới phương pháp lịch sử
và phương pháp thống kê là hai phương pháp chủ yếu được chúng tôi dùng
trong luận án.

và bài văn bao giờ cũng phong phú về âm điệu du dương, trầm bổng. (...) Điều rất
đáng chú ý là tuy mắc nhược điểm là hay dùng từ ngữ Hán văn, nhưng văn Phan Huy
Ích ln ln có nhạc tính dồi dào, đó là vì ơng rất giỏi dùng hư từ làm tiếng nói. Bởi
thế, câu văn có lúc khá dài mà giọng văn bao giờ cũng rất êm. Về thơ Đường luật,
những điểm đặc sắc ấy vẫn thường thấy có. Lời thơ thường chải chuốt, đối chỉnh ; ý tứ
bóng bảy, hàm súc, tình cảm dồi dào, nhã đạm ; âm điệu phong phú, có dư ba.’ (Chinh
phụ ngâm, Sđđ., tr. 60, 62)
Từ phân tích trên, ông Lại Ngọc Cang nhận thấy trong bài dịch Chinh phụ ngâm
hiện hành có những đặc điểm tương tự : dùng hư tự làm tiếng nói, đối rất chỉnh, dùng
nhiều từ kép, nhiều mĩ từ ‘ghép tiếng đôi’... Cuối cùng, ơng đi đến kết luận: ‘Phan Huy
Ích có tài thơ văn quốc âm, nắm được vững vàng những kĩ xảo đặc biệt của văn học cổ
điển, đem đối chiếu với bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành, ta thấy rõ ơng có đủ khả
năng để ta tin rằng ơng là dịch giả bản đó.' (Nđđ., 63-65)


20

a) phương pháp lịch sử. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật của
thế giới khách quan đều có q trình lịch sử cụ thể của nó, tức là có q trình
vận động và phát triển, diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định. Khi

xét một vấn đề phức tạp gồm nhiều thành phần, nhiều sự kiện, nếu ta tách riêng
một thành phần, một sự kiện mà xét, thì ta chỉ xét một mặt, khơng xét mọi mặt
của vấn đề. Trái lại, nếu ta xem xét mọi thành phần, mọi sự kiện trong cái toàn
thể của vấn đề, trong cả quá trình vận động và phát triển của nó, thì ta mới có
thể biết được vấn đề trong mọi khía cạnh phức tạp của nó. Trong trường hợp
trước, ta giải quyết theo lối tư duy siêu hình ; trong trường hợp sau, ta dùng
phương pháp lịch sử của tư duy biện chứng.
Vấn đề người dịch Chinh phụ ngâm, trong sự vận động và phát triển của
nó, khơng chỉ dừng ở sự kiện duy nhất là bài diễn ca hiện hành và dừng ở tên
người diễn ca đầu tiên là Đồn Thị Điểm. Phan Huy Ích cho ta biết trước ơng đã
có nhiều người diễn ca Chinh phụ ngâm và trong khi thong thả, ơng có dịch
thành khúc mới. Nay ơng Hồng Xn Hãn đã cung cấp cho học giới ba bài diễn
ca khác ngoài bài diễn ca hiện hành và họ tên hai dịch giả khác ngoài Đoàn Thị
Điểm. Nếu các bài diễn ca B, C, D khơng phải là vật ngụy tạo, thì vấn đề hồi
nghi hay bênh vực tục truyền xét ra khơng còn nữa. Đành rằng sự tranh chấp về
quyền làm người diễn ca bài A (tức bài diễn ca hiện hành) vẫn là trọng tâm của
vấn đề, nhưng sự tranh chấp ấy phải được giải quyết trong phạm vi rộng lớn hơn,
toàn diện hơn, ấy là xác định một cách hợp lí người dịch cho cả bốn bài diễn ca,
hay ít ra cho bài đầu tiên và bài cuối cùng.
Đoàn Thị Điểm diễn ca đầu tiên, Phan Huy Ích diễn ca sau cùng, các bài
diễn ca A, B, C, D ; đó là những sự kiện khách quan và những tư liệu cụ thể, nói
cách khác là những dữ kiện của vấn đề, ta không thể phủ nhận được. Nếu xác
định được bài B là bài diễn ca đầu tiên và bài A là bài diễn ca sau cùng, thì
thuyết của Hồng Xn Hãn có thể thành lập được.


21

Trên đây là phương hướng và cách giải quyết đúng đắn vấn đề người dịch
Chinh phụ ngâm, hợp với phương pháp lịch sử. Phủ nhận các dữ kiện trên đây,

hoặc chỉ nghiên cứu một mặt nhỏ của các dữ kiện trên đây để mong gỉai quyết
vấn đề, ấy là rơi vào lối tư duy siêu hình, hoặc là thiếu những điều kiện cơ bản
của nhà nghiên cứu (29).
b) Phương pháp thống kê. Muốn xem xét một văn bản là thật hay giả, là cũ
hay mới, là trước hay sau một văn bản khác, thường ta không thể chỉ căn cứ vào
sự ghi chép trong các sử sách. Bởi vì có trường hợp sử sách ghi chép sai, hoặc
có trường hợp chẳng được ghi chép trong bất cứ sử sách nào. Khoa văn bản học
gần đây đã phát hiện rằng chính bản thân các văn bản là nơi chứa đựng những
chứng cứ tốt nhất, đáng tin nhất giúp ta xác định sự chân ngụy của văn bản hay
thời điểm ra đời của văn bản. Những chứng cứ tìm thấy từ những sự kiện lịch sử,
từ văn tự ngôn ngữ, từ văn thể, từ tư tưởng trong bản thân các văn bản, được gọi
là nội chứng ; còn những chứng cứ, do từ các văn bản khác mà tìm thấy, nên gọi
là bàng chứng (30).
Muốn tìm ra những nội chứng và bàng chứng cần thiết, cơng tác chủ yếu là
phân tích và so sánh các văn bản. Để cho công tác so sánh được dễ dàng và có
hiệu qua, các nhà văn bản học gần đây thường dùng phương pháp thống kê, vì
chỉ qua kết quả thổng kê, kết luận mới đạt được tính chính xác cao, độ tin cao
(31).

29

Đó là trường hợp các ông Nguyễn Thạch Giang và Lê Hữu Mục, sẽ được đề cập sau
đây.
30
Xem Hồ Thích. ‘Phương pháp thẩm định sử liệu’ trong Trung-quốc triết học sử đại
cương, quyển thượng, Thượng-hải. Thương vụ ấn thư quán, 1947, tr. 15-23.
31
Một ví dụ nổi bật là nhà Chi-na-học người Thụy-điển Bernhard Karlgren đã theo
mặt ngữ pháp (Hồ Thích gọi là văn pháp) để chứng minh sách Tả truyện không phải
do Lỗ quân tử Tả Khâu Minh làm, như Tư-mã Thiên chép trong bộ Sử kí. Karlgren đã

thực hiện sự chứng minh như sau : Ơng lấy ngơn ngữ của Tả truyện giả định làm 'Tả
ngữ', lại lấy ngôn ngữ của Luận ngữ, Mạnh tử giả định làm 'Lỗ ngữ' để xét xem 'Tả
ngữ' có phải là ngơn ngữ của nước Lỗ hay không, ông chọn bảy loại trợ từ được dùng


×