Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nghiên cứu kiến thức bản địa của người thái trong quản lý tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên pù hoạt, tỉnh nghệ an​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRẦN THỊ TÝ

NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƢỜI THÁI
TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN

THIÊN NHIÊN PÙ HOẠT, TỈNH NGHỆ AN

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
Mã số: 60 62 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM XUÂN HOÀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2017


i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp, tác giả đã
nhận được sự động viên, khích lệ và giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tác giả xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến q
thầy, cơ giáo đã giảng dạy trong chương trình học tập của lớp cao học Lâm
học khố 23; q thầy cơ cơng tác tại khoa Đào tạo sau đại học công tác tại


Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp
tại Trung tâm Khuyến nông Nghệ An; Ban Giám đốc và các cán bộ tại KBT
thiên nhiên Pù Hoạt, tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả cả trong
quá trình thực hiện luận văn.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Xn
Hồn, người đã hết lịng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để tác giả hồn thành
luận văn tốt nghiệp.
Mặc dầu đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn này sẽ
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của
quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN THỊ TÝ


ii
MỤC LỤC
Lời cảm ơn.........................................................................................................i
Mục lục.............................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt..................................................................................iv
Danh mục các bảng...........................................................................................v
Danh mục các hình............................................................................................v
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................ 21
Chƣơng 1.TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..................................... 4
1.1. Trên thế giới .................................................................................... 4
1.2. Ở Việt Nam ..................................................................................... 7
1.3. Đặc điểm, vai trò của kiến thức bản địa ...................................... 15
1.3.1. Khái niệm kiến thức bản địa ................................................... 15
1.3.2. Đặc điểm của tri thức bản địa ................................................ 15

1.3.3. ai tr của kiến thức bản địa trong quản

b n v ng t i

nguyên thiên nhiên ............................................................................ 17
Chƣơng 2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 20
2.1. Mục tiêu ......................................................................................... 20
2.2. Giới hạn đề tài ................................................................................ 20
2.3. Nội dung nghiên cứu: .................................................................... 20
2.4 . Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu: .............................. 21
2.5.1. Phương pháp thu thập số iệu thứ cấp .................................... 23
2.5.2. Phương pháp thu thập d

iệu sơ cấp ..................................... 23

2.4.3.Phương pháp khảo sát thực địa ............................................... 28
2.4.4. Phương pháp phân tích, xử

số iệu .................................... 28

2.4.5. Phương pháp chuyên gia: ...................................................... 28
Chƣơng 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ 29HỘI KHU
BTTN PÙ HOẠT ........................................................................................... 29
3.1. Điều kiện tự nhiên .......................................................................... 29


iii
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................... 34
3.2.1. Dân cư ..................................................................................... 34

3.2.2. Lao động ................................................................................. 35
3.2.2. Phân bố dân cư, ao động trong vùng: ................................... 36
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 40
4.1. Khái quát về người Thái ở khu vực nghiên cứu ............................ 40
4.1.1. Lịch sử cư trú .......................................................................... 40
4.1.2. ai tr của tri thức truy n thống của người Thái .................. 41
4.2. Phân tích kiến thức bản địa dân tộc Thái ở KBTTN Pù Hoạt trong
quản lý rừng và sử dụng đất rừng ......................................................... 44
4.2.1. Quản

rừng v đất rừng ....................................................... 44

4.2.2. Quản

rừng dựa v o cộng đồng ........................................... 46

4.3. Tri thức địa phương trong sử dụng lâm sản ................................... 52
4.3.1. Phân oại âm sản ................................................................... 52
4.3.2. Các nhóm cây được người dân khai thác, sử dụng ................ 53
4.4. Sự mai một tri thức địa phương ..................................................... 60
4.5. Một số đề xuất để góp phần bảo tồn, phát triển tri thức bản địa ... 60
4.5.1. Đánh giá khả n ng ứng dụng Kiến thức bản địa trong quản ,
sử dụng rừng của người Thái ở KBTTN Pù Hoạt. ........................... 60
4.5.2. Ti m n ng sử dụng tri thức bản địa ........................................ 61
4.5.3 . Một số kiến thức bản địa có thể vận dụng, phát triển: .......... 64
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………………………66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ BIỂU



iv
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Viết đầy đủ

BQL

Ban quản lý

HST

Hệ sinh thái

KBT

Khu bảo tồn

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

PRA

Phương pháp đánh giá nơng thơn có sự tham gia

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng


UBND

Ủy ban nhân dân


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

TT

Trang

3.1

Quy mô các loại rừng theo nguồn gốc

37

3.2

Quy mơ diện tích 3 loại rừng theo trữ lượng

38

4.1

Các hình thức quản li tài nguyên ở bản Mường Phiệt(xã


48

Thông Thụ, huyện Quế Phong)
4.2

Kiến thức bản địa trong phân loại theo nhóm lâm sản theo

53

cơng dụng

DANH MỤC CÁC HÌNH

TT

Tên hình

Trang

2.1

Bản đồ hành chính huyện Quế Phong

25

4.1

Một số mơi trường sống của cây thuốc

57


4.2

Trà hoa vàng

58

4.3

Cây sâm cau

59

4.4

Cây Mú từn

60


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm kiến thức bản địa được sử dụng rộng rãi vào đầu những năm
90 của thế k XX. Theo Louise Grenier, kiến thức bản địa là

những hiểu

biết độc đáo, truyền thống, địa phương, tồn tại bên trong và được phát triển
chung quanh các điều kiện cụ thể mà phụ nữ và nam giới sinh sống ở một
vùng địa lý nhất định tích lũy được”1. Theo Ngân hàng thế giới World Bank

thì kiến thức bản địa là nền tảng cơ bản cho việc thiết lập các quyết định liên
quan đến địa phương trên mọi l nh vực của cuộc sống đương đại bao gồm
quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, dinh dưỡng, thức ăn, y tế, giáo dục
và trong các hoạt động xã hội và cộng đồng. Kiến thức bản địa còn cung cấp
cơ sở để xây dựng các chiến lược nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra cho cộng
đồng dân cư địa phương”2.
Ở Việt Nam, kiến thức bản địa là vốn quý của cộng đồng các dân tộc, là
một yếu tố cấu thành bản sắc văn hố Việt Nam. Kiến thức bản địa đã góp
phần quan trọng trong việc phát triển các kỹ thuật phù hợp với điều kiện cụ
thể về kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục của từng địa phương. Việc tổng kết,
lưu giữ và vận dụng nguồn tri thức này vào các chương trình phát triển là một
trong những tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Kiến thức bản địa Indigenous knowledge tồn tại và phát triển trong những
hoàn cảnh nhất định ở một vùng địa lý xác định với sự đóng góp của mọi
thành viên trong cộng đồng.Kiến thức bản địa đã được nhiều dân tộc sử dụng
trong sản xuất nông lâm nghiệp, sử dụng tài nguyên, ứng phó với thiên tai.
Kiến thức bản địa là một giải pháp để các nhà hoạch định chính sách, nhà
nghiên cứu cải thiện điều kiện môi trường, tăng tính hiệu quả trong phát triển
kinh tế- xã hội và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên bằng những biện
pháp ít tốn kém và có khả năng thích nghi tốt với điều kiện địa phương. Bên
cạnh đó, kiến thức bản địa đang được nghiên cứu h trợ cho các nghiên cứu
khoa học, làm tăng nguồn tư liệu cơ sở về môi trường, được sử dụng để đánh
1
2

Working with Indigenous Knowledge: A guide researcher, 1998.
Tri thức bản địa cho phát triển, 1998.


2

giá tác động của qúa trình phát triển, được sử dụng như một công cụ để lựa
chọn, ra quyết định. Tuy vậy, việc thu thập kiến thức bản địa cũng chưa
được đầy đủ nhất là những vấn đề có liên quan tới quản lý các loại tài nguyên,
sản xuất, văn hóa, xã hội và đặc biệt là một số vấn đề về kinh nghiệm kỹ
thuật, áp dụng các kiến thức bản địa, phát huy các đặc tính truyền thống cộng
đồng của đồng bào dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tại Nghệ An, trong các dân tộc ít người sinh sống, người Thái chiếm tỉ
lệ lớn nhất, 67,64

tổng số dân cư các dân tộc thiểu số 299.490 người trong

tổng số 442.787 người) [15], tập trung ở các huyện miền Tây của tỉnh. Cư trú
và khai thác lãnh thổ lâu dài trên mảnh đất vùng KBTTN Pù Hoạt, người
Thái đã tạo lập cho mình những nét văn hố riêng khơng lẫn với các dân tộc
khác trong vùng Thổ, Khơ Mú,… và cũng khác với người đồng tộc của họ ở
Tây Bắc dân tộc Thái ở Sơn La, Điện Biên,… . Trên cơ sở thừa kế vốn
truyền thống văn hố của người Thái ở Nam Trung Hoa, Đơng Nam Á và Tây
Bắc, khi vào Nghệ An, sống trong những điều kiện vừa có tính chất chung của
núi rừng nhiệt đới vừa có nét riêng do ảnh hưởng các điều kiện địa lí tự nhiên,
đặc biệt là địa hình và khí hậu, đồng bào Thái ở Tây Nghệ An đã tích luỹ
được nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất nơng nghiệp. Những tri
thức đó thể hiện sự hài hồ giữa khai thác và bảo vệ mơi trường tự nhiên vừa
thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về môi trường xung quanh của người dân bản
địa. Mặc dù vốn kiến thức bản địa phong phú, nhưng việc sử dụng chúng
trong phát triển kinh tế - xã hội của người Thái chưa được thật sự hiệu quả.
Người Thái vẫn là dân tộc có nhiều hộ nghèo trong các huyện nằm trong
KBTTN Pù Hoạt, đặc biệt là các huyện Kì Sơn, Quỳ Châu, Tương Dương.
Tác động của biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nhiều đến đời sống và sản
xuất của người Thái vốn d còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Khả năng sử
dụng các kiến thức bản địa để thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển

kinh tế của người Thái chưa nhiều. Mặt khác, trước sự phát triển như vũ bão


3
của khoa học k thuật và xu thế toàn cầu hoá, kiến thức bản địa của người
Thái ở Tây Nghệ An đang dần bị mai một, thậm chí có nguy cơ biến mất. Ở
Nghệ An các đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu văn hoá các dân tộc.
Kiến thức bản địa của các dân tộc thiểu số cũng chưa được chú trọng nghiên
cứu, đặc biệt là đối với dân tộc Thái. Nghiên cứu tri thức bản địa của dân tộc
Thái nhằm thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến trình phát triển,
ứng dụng và điều chỉnh kỹ thuật, góp phần bảo tồn và phát huy những kinh
nghiệm quý báu cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở KBTTN Pù
Hoạt.
Vì vậy, tác giả tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu kiến thức bản
địa của người Thái trong quản lý tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên
nhiên Pù Hoạt, tỉnh Nghệ An.” Nhằm góp phần nghiên cứu một cách hệ
thống, đầy đủ kiến thức bản địa của dân tộc Thái, đánh giá khả năng ứng dụng
kiến thức bản địa trong phát triển kinh tế - xã hội ở khu bảo tồn thiên nhiên
Pù Hoạt và đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy và kết hợp kiến thức bản
địa với kiến thức khoa học một cách hiệu quả trong quản lý rừng theo định
hướng bền vững.


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Trên thế giới
Thuật ngữ tri thức bản địa” được Robert Chambers dùng lần đầu tiên


trong ấn phẩm Indigenous Technical Knowledge: Analysis, Implications and
Issues” xuất bản năm 1979. Sau đó, thuật ngữ này được Brokensha và
D.M.Warren sử dụng vào năm 1980 trong tác phẩm Indigenous knowledge
systems and development” và tiếp tục được sử dụng, phát triển cho đến ngày
nay trích dẫn theo Hồng Xn Tý và Lê Trọng Cúc, 1998 . Khái niệm này
đã được sử dụng trong trong tác phẩm Làm việc với kiến thức bản địa: một
chỉ dẫn cho nhà nghiên cứu” của Louise Grenier 1998 . Bên cạnh đó, cơng
trình này đã đưa ra nội dung bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sự phát triển một tổ
chức nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, một số nghiên cứu điển hình và đánh giá,
công nhận và thử nghiệm cùng kiến thức bản địa [18].
Các vấn đề sâu hơn trong nghiên cứu kiến thức bản địa như: quan điểm
địa phương và nghiên cứu khoa học; mối quan hệ,sự bổ sung cho nhaugiữa
khoa học, công nghệ và tri thức bản địa; kiến thức bản địa cho phát triển; Các
bên liên quan trong nghiên cứu, sử dụng tri thức bản địa; quyền và sự tham dự
của người dân,... được đề cập trong nghiên cứu "Sự phát triển của tri thức bản
địa, một ngành nhân học ứng dụng mới" của Paul Sillitoe 2000 .
Trong Sổ tay lưu giữ và sử dụng kiến thức bản địa của Viện nghiên cứu
lúa quốc tế IRRI do Nhà xuất bản Nông nghiệp ấn hành 2000 , các vấn đề
được phân tích gồm: kiến thức bản địa với sự nghiệp phát triển; các phương
pháp ghi chép và đánh giá; đánh giá kiến thức bản địa; các trường hợp nghiên
cứu cụ thể; các câu hỏi hướng dẫn; các từ viết tắt và định ngh a[13 .Trong bài
viết Kiến thức bản địa và phát triển - Sự cẩn trọng hậu thuộc địa”, John
Briggs và Joanne Sharp 2004 đã nhấn mạnh nội dung lắng nghe tiếng nói
khác,kiến thức bản địa về mơi trường, định vị tri thức bản địa [23].


5
Năm 1998, Ngân hàng Thế giới thiết lập chương trình Kiến thức bản địa
cho sự phát triển nhằm học tập từ các hệ thống tri thức địa phương phục vụ

cho các thực hành phát triển tại các cộng đồng đó và mở rộng tính ứng dụng
của các tri thức này. Ngân hàng Thế giới tuyên bố rằng họ cần trao cho những
người nghèo trên thế giới cái quyền không chỉ là người tiếp nhận các tri thức
khoa học phát triển mà họ phải là những người đóng góp, những người đóng
vai trị chủ đạo trong phát triển của chính họ. James D. Wolfensohn, Chủ tịch
Ngân hàng thế giới cho rằng: Kiến thức bản địa là một phần không thể thiếu
trong văn hoá và lịch sử của một cộng đồng địa phương. Chúng ta cần thiết
phải học hỏi từ các cộng đồng địa phương để có thể thúc đẩy q trình phát
triển” [24].
Trên các vùng lãnh thổ khác nhau củathế giới, các nghiên cứu, ứng dụng
kiến thức bản địa khá phổ biến từ thế kỉ XIX.
Ở Nam Phi: Các nghiên cứu kiến thức bản địa trong nông lâm nghiệp
được thực hiện từ giữa thế kỉ 20. Tim Hart and Ineke Vorster tiến hành nghiên
cứu và ứng dụng kiến thức bản địa trong sản xuất nơng lâm nghiệp, thể hiện
trong cơng trình Indigenous Knowledge on the South African Landscape Potentials for Agricultural Development [21]. Cũng hướng nghiên cứu ứng
dụng kiến thức bản địa trong sản xuất nông lâm nghiệp bền vững, Edda
Tandi Lwoga, Patrick Ngulube, Christine Stilwell đã tiến hành nghiên cứu tại
các nước đang phát triển, nhấn mạnh khâu quản lý, bảo tồn tri thức bản địa,
thể hiện trong cơng trình: Managing indigenous knowledge for sustainable
agricultural development in developing countries: Knowledge management
approaches in the social context(Original Research Article The International
Information & Library Review, Volume 42, Issue 3, September 2010, Pages
174-185) [22].Kết quả nghiên cứu trên cho thấy nông dân nắm giữ một số
lượng đáng kể kiến thức về các nguồn tài nguyên xung quanh và kỹ thuật sản
xuất nông lâm nghiệp.


6
Ở Đông Nam Á: Soh và cộng sự (2012 nghiên cứu tại khu vực bờ biển
phía Đơng bán đảo Malaysia, đề xuất xây dựng sinh kế bền vững trên cơ sở

phát huy tri thức bản địa. Rerkasem 2009 , Yimyam và Rerkasem 2012 thực
hiện nghiên cứu về chuyển đổi sử dụng đất vùng đồi núi ở Đông Nam Á và vai
trò của tri thức, k năng bản địa trong quản lý tài nguyên rừng, ông kết luận: Hệ
thống quản lý rừng cần được điều chỉnh để đối phó với sự thay đổi, thích ứng
với kiến thức và kỹ năng bản địa.
Ở Trung Quốc:Juanwen và cộng sự 2012 thực hiện nghiên cứu ở Zhanli
Buyi của Guntang, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc và khẳng định: Kiến thức bản
địa đóng một vai trị quan trọng trong sự phát triển bền vững ở nông thơn
nhưng nó cũng nhanh chóng biến mất. Alan và nnk 1997 đã đưa ra hướng dẫn
cho tất cả các bên trong các dự án có liên quan đến người dân bản địa, chú
trọng sự tương tác giữa các bên từ các nền văn hóa khác nhau và hệ thống kiến
thức khác nhau với tri thức địa phương [16].
Ở Mexico: Bermeo (2014) và cộng sự nghiên cứu bảo tồn các hệ thống
canh tác truyền thống trên đất dốc tại Huasteca Poblana dựa trên sự liên kết
giữa khoa học và kiến thức bản địa. Gupta đưa ra các hướng dẫn cụ thể trong
nghiên cứu, thu thập tri thức bản địa, trong đó phương pháp sử dụng chủ yếu là
điều tra nhanh nông thôn RRA . Các câu hỏi gợi ý cũng được đưa ra trong
nhiều l nh vực: nông, lâm nghiệp, bảo tồn,…
Về cơ bản, các cơng trình nghiên cứu trên thế giới đều thống nhất với
quan niệm củaJohnson 1992 : Kiến thức bản địa

tri thức được tạo ra bởi

một nhóm người qua nhi u thế hệ sống v quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên
trong một vùng nhất định [23 . Các nghiên cứu ở Nam Phi, Đông Nam Á,
Trung Quốc,… đều nhấn mạnh vai trò của kiến thức bản địa trong phát triển
bền vững và cho rằng: Kiến thức bản địa đang d n bị mai một, thậm chí có
nguy cơ biến mất trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật v xu
thế to n c u hố. Hiện nay trên thế giới có trên 120 nước hoạt động trong l nh



7
vực nghiên cứu kiến thức bản địa nhằm tăng tính hiệu quả trong phát triển
nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, kiến thức
bản địa đang được nghiên cứu h trợ cho các nghiên cứu khoa học, làm tăng
nguồn tư liệu cơ sở về môi trường, được sử dụng để đánh giá tác động của
quy trình phát triển, được sử dụng như một cơng cụ để lựa chọn, quyết định
hành động phát triển. Tuy vậy, trong các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt là phát triển nông thôn, Kiến thức bản địa vẫn chưa được phân
tích đúng mức.
1.2.

Ở Việt Nam
Ở nước ta, các nghiên cứu về kiến thức bản địa cũng đã bắt đầu được quan

tâm, chú ý nghiên cứu trong một vài thập niên trở lại đây. Vấn đề này cũng
được nhiều nhà khoa học thuộc cả hai l nh vực - khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội nghiên cứu như: Lê Trọng Cúc, Đào Trọng Hùng, Phạm Quang Hoan,
Ngô Đức Thịnh,...Ngô Đức Thịnh 2002 trong Tri thức dân gian và phát
triển" đã trình bày một số nội dung: Khái niệm tri thức dân gian; Các loại tri
thức dân gian của các tộc người; Vai trò của tri thức dân gian; Bảo tồn tri thức
dân gian. Trong bài viết "Thế giới quan bản địa" ông cũng đã trình bày một số
nội dung: Khái niệm tri thức bản địa; Các l nh vực của tri thức bản địa;
Những nghiên cứu trường hợp…Hai bài viết trên của tác giả Ngơ Đức Thịnh
trình bày tương đối đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các l nh vực liên quan
của kiến thức bản địa [9 .Vũ Trường Giang 2002 nghiên cứu Về kiến thức
bản địa và phát triển” đã đưa ra một số khái niệm và quan điểm: Khái niệm tri
thức bản địa; Tầm quan trọng của kiến thức bản địa trong phát triển [2].
Tuỳ theo cách hiểu của mình, các tác giả đã đưa ra nhiều kháí niệm với
những nội hàm khác nhau. Lê Trọng Cúc đồng nhất tri thức địa phương với văn

hố truyền thống. Theo ơng, tri thức địa phương được tích luỹ qua kinh
nghiệm to lớn nhờ tiếp xúc chặt chẽ với thiên nhiên, dưới áp lực chọn lọc,
trong q trình tiến hố của sinh quyển và dần dần trở thành văn hoá truyền


8
thống” Lê Trọng Cúc và cộng sự: … . Ngô Đức Thịnh lại gọi tri thức địa
phương là tri thức dân gian” Folklore Knowledge và cho rằng, đó là kinh
nghiệm của con người tích luỹ được qua q trình hoạt động lâu dài nhằm thích
ứng và biến đổi mơi trường tự nhiên và xã hội, phục vụ cho lợi ích vật chất và
tinh thần cho bản thân” Ngô Đức Thịnh, Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá
Việt Nam . Tuy nhiên, trên thực tế, các khái niệm kiến thức bản địa”
Indigenouse Knowledge , tri thức địa phương” Local Knowledge , tri thức
truyền thống” Traditional Knowledge và

tri thức dân gian” Folklore

Knowledge được quan niệm gần như đồng ngh a và thường được sử dụng
hốn đổi cho nhau mà khơng gây nên sự hiểu lầm. Các hướng nghiên cứu đã
được thực hiện gồm: bảo tồn văn hóa, xã hội học và nghiên cứu, khai thác giá
trị của kiến thức bản địa cho phát triển kinh tế bền vững Vũ Trường Giang, 2007 .
Các nhà khoa học tự nhiên thường tìm hiểu kiến thức bản địa trong quản
lý, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên; các nhà nông học
thường tìm hiểu về các tri thức liên quan đến giống cây trồng, vật nuôi, mùa
vụ, kinh nghiệm canh tác…; các nhà khoa học thuộc ngành y - dược thường
quan tâm đến các tri thức liên quan đến cây thuốc, các bài thuốc dân gian và
các y thuật cổ truyền…Chẳng hạn, nghiên cứu về cây thuốc và kiến thức bản
địa về cách sử dụng cây thuốc ở Việt Nam cho biết: Việt Nam được đánh giá
là nước đứng thứ 16 trên thế giới về sự phong phú và đa dạng sinh vật. Trong
đó, hệ thực vật cũng rất phong phú và đa dạng,... Về tính đa dạng sinh học:

Đến nay, Việt Nam đã phát hiện được khoảng 60 giống vật nuôi quý hiếm bản
địa, riêng tại 15 tỉnh miền núi phía Bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu đã góp
mặt 22 giống vật nuôi nội vùng, chiếm 30

tổng lượng giống vật nuôi bản địa

quý hiếm của cả nước, bao gồm nhiều lồi như: Bị H’mơng, lợn hung Hà
Giang , lợn táp ná Cao Bằng , gà tè Yên Bái , ngựa bạch, gà sáu ngón, vịt
đốm Lạng Sơn . Các giống vật ni q hiếm này khơng chỉ có giá trị về mặt
thực phẩm, hợp khẩu vị người Việt Nam, mà cịn có giá trị dược liệu.Tuy


9
nhiên, nhiều năm qua, do không được quan tâm đầu tư đúng mức, nhiều giống
bản địa đang đứng trước nguy cơ bị mai một, bị đe doạ tuyệt chủng” Nguyễn
Đăng Vang, Cục trưởng Cục thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả
lời phỏng vấn Vietnamnet ngày 20/6/2003 .
Hoàng Xuân Tý - Lê Trọng Cúc 1998 , trong tác phẩm "Kiến thức bản
địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên
nhiên" đã phân tích kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong một số
l nh vực cụ thể [11].Lê Trọng Cúc tán đồng quan điểm của Đào Thế Tuấn Hệ
sinh thái nông nghiệp Việt Nam-1984 : Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng canh
tác nương rẫy vẫn là phương thức có hiệu quả nhất đối với các nước vùng nhiệt
đới ẩm. Một đơn vị năng lượng bỏ ra có thể thu được từ 5 đến 15 đơn vị năng
lượng sản phẩm. Một ngày công sản xuất nương rẫy thu được bằng 2 lần ngày
công ở Đồng bằng sông Cửu Long và 3 lần ở vùng Đồng bằng sông Hồng” Lê
Trọng Cúc . Thực tế canh tác nương rẫy đang được duy trì như một hệ nơng
nghiệp chủ yếu ở vùng nhiệt đới và đóng vai trị quan trọng, bởi vì nó bao trùm
một vùng rộng lớn, chứa đựng sự đa dạng về truyền thống, văn hoá và con
người và đang trở thành tiêu chuẩn thực tiễn, nơi mà các nhóm văn hoá truyền

thống đang bị phá vỡ bởi những hoạt động khai thác của một nền văn hoá xa lạ.
Họ cùng khẳng định: Trải qua quá trình hàng trăm năm, người dân các dân tộc
thiểu số Việt Nam cũng đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong canh tác. Họ
rất giỏi trong việc nhận biết tự nhiên, đoán định thời tiết. Họ có thể dự đốn
mưa sớm, mưa muộn để gieo trồng cho thích hợp, biết trồng gối để tận dụng độ
ẩm còn trong đất sau khi kết thúc mưa. Đồng thời, họ cũng sử dụng các giống
cây trồng, vật nuôi phù hợp. Tất cả các loại cây trồng truyền thống của họ đều
có khả năng thích ứng với điều kiện tự nhiên nơi cư trú; các giống vật nuôi của
địa phương đã qua chọn lọc tự nhiên, có khả năng chịu được thời tiết và có khả
năng sinh sản tương đối tốt. Trong các hệ canh tác, họ cũng sử dụng những
cơng thức ln canh thích hợp, bố trí cây trồng trong hệ thống cây trồng theo


10
sự giảm dần mức độ dinh dưỡng trong đất. Sử dụng những loại cây trồng có
thời gian thu hoạch biến động, có thời gian sinh trường rất khác nhau.
Có thể tìm thấy rất nhiều kết quả nghiên cứu kiến thức bản địa ở các cơng
trình đã được cơng bố của các khoa học chuyên ngành. Trong các báo cáo đánh
giá của các tổ chức thế giới và NGO ở Việt Nam, việc tận dụng các kiến thức
bản địa vào phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp địa phương luôn tạo
nên ấn tượng tốt bởi sự thành công về cả khía cạnh kinh tế cũng như văn hố.
Khơng chỉ giúp người dân tăng thu nhập, việc tăng cường thực hành sinh kế
trên cơ sở của kiến thức bản địa cịn góp phần rất lớn vào việc bảo tồn và phát
triển văn hố truyền thống. Các mơ hình thí điểm của Craft Link ở Lào Cai, Hà
Giang, Thừa Thiên - Huế, Nghệ An hay Quảng Ngãi đã chứng tỏ tính hiệu quả
khi kết hợp giữa kiến thức bản địa với các công nghệ mới trong bối cảnh thị
trường ngày càng được mở rộng. Những lợi thế cạnh tranh của kiến thức bản
địa là điều rất cần được đánh giá đúng cả bằng các phương pháp định tính và
định lượng. Trong l nh vực nghiên cứu kiến thức bản địa trong ứng phó với
biến đổi khí hậu, một số nghiên cứu ở Bắc Trung Bộ đã chỉ ra khả năng ứng

phó với biến đổi khí hậu dựa vào kiến thức bản địa của người dân [17].
Các nhóm cộng đồng được nghiên cứu chủ yếu là các nhóm dân tộc Dao,
Mường, H’mong Mèo , Tày, Nùng, Thái ở vùng núi phía Bắc và J’rai,
M’nông ởTây Nguyên hay Cơ Tu ở Thừa Thiên - Huế, thể hiện trong nhiều
nghiên cứu như: kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc vùng cao trong nơng
nghiệp và quản lí tài ngun thiên nhiên Hồng Xn Tý và Lê Trọng Cúc,
1998 , nghiên cứu kiến thức bản địa của người H’Mông tại khu BTTN Hang
Kia - Pà Cị, tỉnh Hịa Bình trong bảo vệ rừng Phạm Quốc Hùng và Hoàng
Ngọc , 2009 , kiến thức bản địa của người dân tộc Dao khu vực miền núi phía
Bắc trong lựa chọn đất đai, địa hình canh tác và hệ thống cây trồng Đặng Thị
Nhuận, Dương Quỳnh Phương, Đại học Tây Bắc, Đại học Thái Nguyên, năm
2013). Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Thường 2003 ,


11
Lê Thị Diên 2002 , Hoàng Xuân Tý 2000 , Lê Trọng Cúc 1998 , Hoàng
Cầm 1998 , Vương Xuân Tình 1998 , Nguyễn Thị Quỳ 1998 và của nhiều
tác giả khác là những nghiên cứu cụ thể về kinh nghiệm và thực hành bản địa,
nghiên cứu về luật tục.
Các nghiên cứu v kiến thức bản địa dân tộc Thái: Nghiên cứu riêng về
kiến thức bản địa dân tộc Thái cũng đã được các nhà khoa học thực hiện:
Nguyễn Thị Hồng, Viện nghiên cứu Kiến thức bản địa của người Thái trong
canh tác nương rẫy ở vùng ven thành phố Sơn La”[4 đã phân tích kinh
nghiệm, kiến thức của người Thái trong chọn đất, làm đất, lịch thời vụ,…của
người Thái ở ven thành phố Sơn La; Vũ Trường Giang nghiên cứu tri Kiến
thức bản địa của người Thái ở Thanh Hóa” một cách tổng hợp và tồn diện
hơn. Những nghiên cứu này cho thấy kiến thức bản địa là nguồn lực quan trọng
đối với bảo tồn và phát triển nếu chúng được phát huy và kết hợp sử dụng với
các kiến thức khoa học tiên tiến, phù hợp Hàn Tuyết Mai, 2004 . Kiến thức
bản địa đã đóng góp cho khoa học trong nhiều l nh vực liên quan đến việc

quản lý tài nguyên thiên nhiên qua các nghiên cứu về thực vật dân tộc học
hiện đại. Cụ thể là kiến thức bản địa đã giúp các nhà khoa học nắm được
những vấn đề về đa dạng sinh học và quản lý rừng tự nhiên. Kiến thức bản địa
cũng đóng góp vào khoa học những hiểu biết sâu sắc về thuần hoá cây trồng,
gây giống, quản lý và giúp các nhà khoa học nhận thức đúng đắn về nguyên
tắc, thói quen đốt nương làm rẫy, nông nghiệp sinh thái, nông lâm kết hợp,
luân canh cây trồng, quản lý sâu hại, đất đai và nhiều kiến thức khác về khoa
học nông nghiệp. Thêm nữa, các nhà khoa học cũng thường quen với kiến
thức bản địa và ứng dụng vào trong các dự án về hợp tác phát triển và trong
nhiều bối cảnh hiện tại khác Lê Trọng Cúc: ai tr của tri thức địa phương
trong phát triển b n v ng vùng cao-1999).
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là điều tra, khảo sát thực địa và đánh giá
nơng thơn có sự tham gia của người dân PRA . Các phương pháp này được


12
hướng dẫn trong tài liệu “Phương pháp thu thập v sử dụng kiến thức bản địa”
của Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường Rừng. Như vậy, nghiên
cứu kiến thức bản địa trong l nh vực nông lâm nghiệp đã được thực hiện ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi của các
nước đang phát triển và Việt Nam.
Nghiên cứu v kiến thức bản địa c liên quan v rừng Hoàng Xuân Tý
và các cộng tác viên 1997 - 1998 trong khuôn khổ dự án Đánh giá kiến
thức bản địa của đồng bào dân tộc trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên
thiên nhiên ở Việt Nam” do Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế Canada
IDRC và quỹ FORD tài trợ 1997-1999 đã nghiên cứu về kiến thức bản địa
của đồng bào dân tộc trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên ở
Việt Nam và xuất bản ấn phẩm cùng tên [11 .Đ Đình Sâm và các cộng tác
viên (1994-1998), trong chương trình nghiên cứu về nơng nghiệp du canh
được tài trợ bởi Viện quốc tế về Môi trường và Phát triển Anh IIED , Tổ

chức hợp tác lâm nghiệp hải ngoại Nhật Bản JOFCA cũng đã nghiên cứu
những kiến thức bản địa về canh tác nương rẫy, nông lâm kết hợp, các quy
định về làm rẫy, chọn rừng...[8 .Trong chương trình Thái học Việt Nam do
Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hoá thuộc Đại học quốc gia
Hà Nội thực hiện 1989 và kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trong ấn
phẩm Văn hoá và lịch sử người Thái ở Việt Nam”, do Cầm Trọng 1998
chủ biên cũng đã đề cấp tới một số quy ước quản lý, bảo vệ rừng, rẫy.Đ
Đình Sâm và các tác giả khác 2005 , Điều tra nghiên cứu kiến thức bản địa
về quản lý, phát triển tài nguyên rừng của một số cộng đồng thơn bản miền
núi phía Bắc Việt Nam [8 . Nghiên cứu tiến hành điều tra, khảo sát và đánh
giá kinh nghiệm bản địa của đồng bào Thái, H’Mông ở Sơn La, đồng bào Dao
ở Quảng Ninh trong bảo vệ, quản lý và phát triển rừng trên các đối tượng
rừng đầu nguồn, rừng thiêng, rừng ma, rừng lấy g và lâm sản ngoài g và đã
đưa ra nhiều chỉ dẫn quan trọng trong việc áp dụng kiến thức bản địa vào


13
cơng tác quản lý bảo vệ rừng.Phạm Quốc Hùng, Hồng Ngọc

2009 trong

khn khổ dự án Thí điểm tiếp cận thị trường tổng hợp nhằm h trợ công tác
bảo tồn thiên nhiên: Nâng cao đời sống cộng đồng vùng đệm để giảm thiểu
tác động lên tài nguyên tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, huyện
Mai Châu, tỉnh Hịa Bình, được tài trợ bởi Quỹ Blue Moon đã nghiên cứu
kiến thức bản địa trong bảo vệ rừng của người H’Mơng tại khu BTTN Hang
Kia - Pà Cị, tỉnh Hịa Bình [3 . Nghiên cứu đã đưa ra các kiến thức bản địa
liên quan tới hoạt động quản lý bảo vệ rừng: Các quy ước về quản lý bảo vệ
rừng; kiến thức, kinh nghiệm trồng trọt; kinh nghiệm chăn nuôi, kinh nghiệm
khai thác sử dụng lâm sản. Kiến thức/phong tục bản địa đã mất, hoặc khơng

cịn phổ biến. Đặc điểm văn hoá và vấn đề quản lý bảo vệ rừng và những vận
dụng kiến thức bản địa trong quản lý bảo vệ rừng.Hàn Tuyết Mai 2007 đã
tiến hành nghiên cứu Kiến thức bản địa trong quản lý và sử dụng thực vật
lâm sản ngoài g của cộng đồng người Vân Kiều ở thơn Là Tó, xã Húc Nghì,
huyện Đa Krông, tỉnh Quảng Trị”; nghiên cứu đã hệ thống kiến thức của
người Vân Kiều trong sử dụng và quản lý tài nguyên rừng dưới các dạng kiến
thức về thông tin, về kỹ thuật/cơng nghệ, tín ngưỡng, phong tục tập qn. Tác
giả cũng đã đề xuất các giải pháp về nông lâm kết hợp, khôi phục nghề thủ
công để nâng cao sinh kế và bảo tồn kiến thức bản địa ở khu vực nghiên cứu.
Ngồi ra có một số nghiên cứu khác như: nghiên cứu kiến thức và kỹ
thuật bản địa về sử dụng đất, quản lý lâm sản ngoài g và rừng bởi cộng đồng
người Tày và Dao quanh vườn Quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn do Viện kinh tế
sinh thái thực hiện năm 2002; nghiên cứu về kiến thức bản địa trong bảo tồn
đa dạng sinh học các loại lan rừng tại VQG Ba Bể do Vũ Thanh Thu và các
tác giả khác thực hiện năm 2008; Nghiên cứu về Luật tục Ê đê về bảo vệ
rừng, đất đai, nguồn nước do Trương Bi thực hiện năm 2009…
Như vậy,nghiên cứu kiến thức bản địa ở Việt Nam được tiến hành muộn
hơn so với tình hình chung của thế giới. Tuy nhiên, gần đây vấn đề này đã


14
được quan tâm nghiên cứu ở rất nhiều l nh vực khác nhau như: dân tộc học,
thực vật dân tộc học, lâm nghiệp xã hội, y học cổ truyền, phát triển nơng
thơn… Mặc dù cịn có nhiều quan niệm và cách diễn giải khác nhau về kiến
thức bản địa như: tri thức địa phương, văn hóa truyền thống, tri thức dân
gian, kiến thức bản địa, kiến thức truyền thống, kiến thức địa phương, ,
tri thức tộc người, hay luật tục…thìnội hàm của những thuật ngữ này đều là
các tri thức được tạo ra và lưu giữ bởi cộng đồng cư dân bản địa.Các nghiên
cứu đều khẳng định: kiến thức bản địa


yếu tố quan trọng trong phát triển

kinh tế mi n núi gắn với bảo tồn v n hóa v sử dụng, bảo vệ t i nguyên thiên
nhiên khu vực.
Các nghiên cứu kiến thức bản địa về rừng đa số được lồng ghép trong các
nghiên cứu kiến thức bản địa về quản lý tài nguyên thiên nhiên, canh tác nông
nghiệp, y học cổ truyền…Các nghiên cứu chuyên môn về quản lý và sử dụng
tài nguyên rừng tại một khu vực đã được tiến hành nghiên cứu ở một vài nơi
nhưng nhìn chung là chưa thể đáp ứng được nhu cầu tư liệu hóa vốn kiến thức
bản địa đặc sắc về rừng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ở Nghệ An,
nghiên cứu về các dân tộc thiểu số cũng đã được chú trọng. Các đề tài chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu văn hoá, tập quán các dân tộc: Nguyễn Đình Lộc
1993 trong các dân tộc và quan hệ các dân tộc ở miền núi Nghệ An” 6] đã
phân tích mối quan hệ giữa các dân tộc với điều kiện địa lý, văn hóa các dân
tộc, mối quan hệ giữa các dân tộc. La Quán Miên 1977 đã nghiên cứu, phân
tích phong tục tập quán các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”[ 6 , trong đó có dân
tộc Thái. Ngồi ra, cịn có rất nhiều các nghiên cứu về văn hóa tâm linh hay
thơ ca của các dân tộc Mông, Khơ Mú, Thái,…
Các nghiên cứu riêng về dân tộc Thái ở KBTTN Pù Hoạt cũng rất phong
phú, đặc biệt là về văn hóa. Các giá trị văn hóa vật chất của người Thái ở
miền núi Nghệ An” được nghiên cứu, sưu tầm bởi Artha Nantachukra 1998 .
Nghiên cứu sâu hơn về phong tục tập quán, Vi Văn An có cơng trình thiết


15
chế bản mường truyền thống của người Thái ở KBTTN Pù Hoạt” hay Nguyễn
Thị Nuôi 2009 nghiên cứu đời sống vật chất của người Thái ở huyện Qùy
Châu”,…Ngoài ra, phong tục, tập quán của người Thái được đề cập trong các
cơng trình nghiên cứu khác như: Địa chí huyện Quỳ Hợp, Địa chí huyện Kỳ
Sơn Ninh Viết Giao , Địa chí huyện Quỳ Châu Trần Văn Thức – chủ

biên ,…
1.3.

Đặc điểm, vai trò của kiến thức bản địa

1.3.1. Khái niệm kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa là một khái niệm khá rộng, bao gồm các kiến thức về
sản xuất kinh tế, về việc thích ứng với tự nhiên trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn,
hái lượm, hoạt động ngành nghề , về quản lý quản lý đất đai, xã hội, con
người , về giáo dục các mối quan hệ, các thế ứng xử giữa con người với con
người, với cộng đồng, với xã hội , về y tế cộng đồng dinh dưỡng, sức khỏe, y
học dân gian ,... Kiến thức bản địa gắn liền với kinh nghiệm trong sinh hoạt
và ứng xử với môi trường của người dân địa phương. Trong quá khứ, các
cộng đồng dân tộc bản địa sống phụ thuộc rất nhiều vào môi trường tự nhiên
và họ sở hữu những kho tàng tri thức khổng lồ về môi trường ở địa phương.
1.3.2. Đặc điểm của kiến thức bản địa
Từ các cơng trình nghiên cứu trên, có thể rút ra một số đặc điểm để
nhận diện tri thức bản địa của khu vực như sau:
- Kiến thức bản địa mang tính địa phương, bắt nguồn từ một địa điểm
cụ thể, là một tập hợp của các kinh nghiệm có được từ những con người sống
tại địa điểm đó. Việc di chuyển những kiến thức này sang một địa điểm khác
sẽ đưa đến nguy cơ làm biến đối các tri thức này.
- Kiến thức bản địa là những tri thức được truyền miệng, hoặc được
chuyển giao thông qua các hình thức mơ phỏng hoặc mơ tả. Ghi chép lại
những tri thức này bằng văn bản có thể làm thay đổi những thuộc tính đặc


16
trưng của chúng. Ghi chép lại có thể làm cho các tri thức này dễ tiếp cận và
lâu bền nhưng lại cũng làm biến đổi các tri thức này như trong trường hợp trên.

- Kiến thức bản địa là hệ quả của các gắn kết thực tế trong đời sống
hàng ngày và liên tục được củng cố bằng các kinh nghiệm, các lần thử, các l i
và các thử nghiệm cẩn trọng. Những trải nghiệm này là sản phẩm tiêu biểu
của rất nhiều thế hệ. Những thất bại của các thử nghiệm này ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống của những người đang thực hành nó trong khi những thành
cơng của các thử nghiệm này có thể được coi là cơng cụ đo lường tốt cho lý
thuyết thích nghi của Darwin.
- Kiến thức bản địa có xu hướng là loại kiến thức mang tính thực tiễn
và giả thuyết - kinh nghiệm hơn là mang tính lý thuyết theo ngh a chính xác
nhất. Ở một mức độ nào đó thì tính truyền miệng, phi văn bản, cũng như sự
gắn kết của nó trong các hoạt động thực tiễn hàng ngày và những hồi ức chứa
đựng nó gây trở ngại cho những kiểu tổ chức cần thiết cho sự phát triển của
loại tri thức mang tính lý thuyết sng.
- Truyền thống là một nhân tố hay thay đổi và làm biến đổi không hồi
kết” khi được gắn với tri thức. Kiến thức bản địa vì thế liên tục thay đổi, được
tạo ra và tái tạo, được khám phá và bị mất đi mặc dù dường như nó thường
được thể hiện như trong một trạng thái t nh.
- Kiến thức bản địa được chia s ở một mức độ lớn hơn rất nhiều so với
các loại tri thức khác, bao gồm cả tri thức khoa học. Đấy chính là lý do vì sao
đơi khi nó cịn được gọi là tri thức của dân”, một cách gọi bắt nguồn từ chính
thế hệ của nó trong đời sống sản xuất hàng ngày. Tuy nhiên, sự phân bố của
kiến thức bản địa vẫn mang tính phân đoạn, phân biệt về mặt xã hội. Nó
thường được phân biệt đối xứng trong khuôn khổ một khu vực dân cư, ví dụ
như theo giới hoặc tuổi hoặc được phân bố trong ký ức của từng cá nhân riêng
biệt. Cũng có thể là có các chun gia thơng qua các kinh nghiệm của họ,
hoặc các nghi lễ hoặc quyền lực về mặt chính trị.


17
- Mặc dù kiến thức bản địa có thể tập trung vào các cá nhân và có thể

được đạt đến bằng mức độ gắn kết với các nghi lễ hoặc các cấu trúc biểu
tượng khác nhưng sự phân bố của nó ln gián đoạn. Nó khơng tồn tại trong
một thể tổng thể mà ở từng nơi và với từng cá nhân. Kiến thức bản địa không
được chuyển giao thông qua thực hành và giao tiếp xã hội trong đó.
- Việc coi kiến thức bản địa mang tính chỉnh thể hợp nhất trong khn
khổ của các truyền thống văn hố rộng lớn hơn, tách rời những vấn đề kỹ
thuật với cái khơng mang tính kỹ thuật, lý tính với cái khơng lý tính là cần
được xem xét lại.
Để hiểu một cách r ràng kiến thức bản địa chúng ta có thể so sánh với
tri thức khoa học. Không giống tri thức khoa học, kiến thức bản địa ngầm ẩn
và không phổ biến rộng. Kiến thức bản địa không được tiêu chuẩn hố, thể
hiện bằng ngơn ngữ địa phương trong khi tri thức khoa học được tiêu chuẩn
hoá và được thể hiện bằng các thuật ngữ có tính tồn cầu. Ở phương diện này,
kiến thức bản địa nhìn chung khơng thể di chuyển được ra khỏi khu vực của
mình trong khi tri thức khoa học là một hệ thống tri thức, có khả năng ứng
dụng toàn cầu. Kiến thức bản địa là kiến thức sinh kế trong khi tri thức khoa
học phục vụ phát triển kinh tế thị trường. Kiến thức bản địa là các kỹ thuật
cho việc sản xuất theo quy mơ nhỏ, đáp ứng nhu cầu của gia đình, trong khi
khoa học dựa trên sản xuất quy mô lớn để cung cấp cho thị trường quốc gia,
quốc tế. Những người sống trong nền kinh tế sinh kế, tự cung, tự cấp thường
sản xuất ra đủ đáp ứng cho nhu cầu của gia đình mình, do vậy mà khơng q
cố gắng chế ngự thiên nhiên hay khai thác nó một cách triệt để, họ phát triển
những cơng nghệ hài hồ với tự nhiên.

1.3.3. Vai trò k
Ngày nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, kiến thức bản địa càng
ngày càng được chú ý trong quá trình phát triển và quản lý bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống kiến thức bản địa này thực tế đã phát
triển bên ngoài và song song với hệ thống tri thức khoa học hiện đại của nhân
loại. Điều đó thể hiện r trong việc vận dụng kiến thức bản địa trong việc thực



18
hiện các dự án phát triển mang tính bền vững trên thế giới. Không những chỉ
các nước đang phát triển mà các nước có nền khoa học phát triển cao như Mỹ,
Canađa, Hà Lan,… cũng rất chú ý sưu tầm, phân tích và ứng dụng tri thức bản
địa, nhằm tìm kiếm những giải pháp quản lý dựa vào cộng đồng bền vững.
Hiện nay, trên thế giới có trên 3000 chuyên gia tại 124 nước đang hoạt động
trong l nh vực nghiên cứu tri thức bản địa. Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu
và sử dụng kiến thức bản địa đã được thành lập năm 1987 thông qua Trung
tâm kiến thức bản địa phục vụ phát triển nông nghiệp CIKARD ở đại học
Iowa State Mỹ ; tại Hà Lan có Trung tâm thông tin về nông nghiệp bền vững
và đầu tư thấp từ bên ngoài ILEIA ,…
Việc phát huy và áp dụng kiến thức bản địa trên thế giới đã mang lại
nhiều thành công trong nhiều l nh vực, chẳng hạn: việc sử dụng kiến thức của
người E-xki-mô ở Ca na đa trong việc tìm kiếm, theo d i sự di chuyển của
đàn cá voi, để tiến hành đánh số hiệu từng con; việc sử dụng hiểu biết của thổ
dân trên núi cao trồng khoai tây bằng hạt đã tạo được giống khoai sạch bệnh ở
Pê-ru… Rất nhiều nghiên cứu cho rằng, đa dạng sinh học phải vận dụng kiến
thức bản địa nằm trong nền văn hoá của các tộc người địa phương. Tại
Inđônêxia cũng như Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở châu Á đang cố gắng
dựa vào tri thức của cư dân bản địa để bảo vệ rừng, duy trì đa dạng sinh học
mà người dân bản địa là lực lượng tham gia chính.
Như vậy, để đạt tới mục tiêu phát triển bền vững nhấn mạnh đến khả
năng đáp ứng được nhu cầu của của hiện tại mà khơng làm ảnh hưởng đến
những thế hệ tiếp theo thì kiến thức bản địa cần được nghiên cứu, bản tồn và
kết hợp với tri thức khoa học bởi tri thức truyền thống, thế giới quan và văn
hoá của các tộc người bản địa ẩn chứa mối quan hệ hài hoà, thân thiện với
môi trường. Chẳng hạn, trong nông nghiệp, vốn trải qua một q trình thích
nghi từ rất lâu đời, người dân ở từng địa phương đã hiểu rất r mối quan hệ

giữa vật nuôi, cây trồng với các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng tới q trình
sinh trưởng và có các biện pháp k thuật phù hợp. Khi các nhà khoa học biết
cách phối hợp những kiến thức bản địa này với những tri thức và phương


19
pháp khoa học hiện đại, họ có thể giúp cây trồng và vật ni thích nghi tốt
hơn với điều kiện địa phương. Trường hợp người Aru sống trên quần đảo Aru
ở khu vực Đơng Indonesia là một ví dụ tiêu biểu. Các hoạt động kinh tế của
tộc người này chủ yếu phụ thuộc vào 2 loại gió mùa Đơng và gió mùa Tây.
Trong giai đoạn gió mùa Đơng từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, người Aru
chỉ tiến hành thu thập hải sâm ở các bãi thu triều, bãi cát, đánh bắt cá hoặc
làm việc và săn bắn trên đất liền. Đến đợt gió mùa Tây kéo dài từ tháng 11
đến tháng 4 hàng năm, người Aru tập trung vào việc thu hoạch hải sâm tại các
dải đá ngầm, vụng nước sâu, lặn mị ngọc trai và thậm chí là săn bắt cá mập.
Người Aru hiểu được yếu tố mùa và thu triều là hai nhân tố then chốt quyết
định số lượng hải sâm người Aru có thể thu hoạch được trong m i lần đi.
Người Aru lưu giữ cho mình những hiểu biết sâu sắc về hải sâm và các cách
thức để thu hoạch hải sâm được hiệu quả nhất Osseweijer, 2003: 64-65) [20].
Ngày nay, kiến thức bản địa được xem như là một trong những vấn đề
then chốt trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững và sự cân bằng
trong phát triển Brokensha và ctv., 1980; Compton, 1989; Gupta, 1992;
Niamir, 1990; Warren, 1991a . Kiến thức bản địa cũng đã được sử dụng ở
cấp địa phương bởi các cộng đồng ở các quốc gia đang phát triển như là cơ sở
trong các quyết sách đối với các vấn đề liên quan tới an ninh lương thực, y tế
và thú y, quản lý giáo dục, quản lý nguồn tài nguyên và các hoạt động sống
còn khác. Việc khai thác kiến thức bản địa sẽ tạo ra thế mạnh cho các cộng
đồng địa phương và có thể góp phần nâng cao hiệu quả của việc trợ giúp
trong xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, kiến thức bản địa cũng có những mặt
hạn chế. Sự hạn chế này xuất phát từ đặc tính địa phương tính bản địa, tính

tộc người của nó rất cao, nên khó phổ biến rộng rãi đến các tộc người khác,
vùng khác. Nhiệm vụ của các nhà khoa học là tìm hiểu và học hỏi tri thức bản
địa, sử dụng nó như một nguồn ý tưởng và kiểm tra những giả thuyết đó trong
khn khổ của khoa học hiện đại.


×