Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân phường (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.08 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỒ ĐĂNG QUANG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƢỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ HIẾN PHÁP
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƢỜNG

Chuyên ngành: Luật Hành chính và Hiến pháp Định
hƣớng nghiên cứu Mã số: 8380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Nhật Thanh
Học viên: Nguyễn Hồ Đăng Quang
Lớp: cao học khóa 27

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn cao học “Tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân phƣờng” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, khơng sao chép của bất
cứ ai. Các số liệu và tài liệu trong luận văn là trung thực, tất cả những tham khảo và
kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ. Tơi sẽ chịu hồn tồn trách nhiệm
về luận văn của mình.

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Hồ Đăng Quang


DANH MỤC VIẾT TẮT

Stt
1
2

Ký hiệu
HĐND
Luật HĐGS

Từ đƣợc viết tắt
Hội đồng nhân dân
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân năm 2015

3
4
5

6
7
8
9
10

Luật TCCQĐP
PGS.TS
ThS
TP. HCM
TS
TT/HĐND
UBMTTQVN
UBND

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
Phó Giáo sư Tiến sĩ
Thạc sĩ
Thành phố Hồ Chí Minh
Tiến sĩ
Thường trực Hội đồng nhân dân
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƢỜNG.................................. 6
1.1. Khái quát quá trình phát triển của Hội đồng nhân dân phƣờng..............6

1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân phƣờng.................................................... 9
1.2.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân phường..........................................9
1.2.2. Đại biểu Hội đồng nhân dân phường........................................................9
1.2.3. Thường trực Hội đồng nhân dân phường:.............................................. 11
1.2.4. Các ban của Hội đồng nhân dân phường................................................ 13
1.3. Hoạt động của Hội đồng nhân dân phƣờng.............................................. 14
1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường.........14
1.3.2. Quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương.................................16
1.3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường.............................. 17
1.3.4. Hoạt động tiếp xúc cử tri của Hội đồng nhân dân phường.....................19
1.4. Các mối quan hệ công tác của Hội đồng nhân dân phƣờng....................20
1.4.1. Mối quan hệ công tác giữa Hội đồng nhân dân phường với Đảng ủy phường

20
1.4.2. Mối quan hệ công tác giữa Hội đồng nhân dân phường với Ủy ban nhân dân

phường.............................................................................................................. 22
1.4.3. Mối quan hệ công tác giữa Hội đồng nhân dân phường với Mặt trận Tổ
quốc

Việt Nam phường.............................................................................................. 23
1.5. Kết Luận......................................................................................................... 24
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG

NHÂN DÂN PHƢỜNG - TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ
KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN................................................................................ 26
2.1. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân phƣờng...............................26


2.1.1. Thực trạng về tổ chức đại biểu Hội đồng nhân dân phường...................26

2.1.2. Thực trạng về Thường trực Hội đồng nhân dân phường.........................30
2.1.3. Thực trạng về tổ chức các ban của Hội đồng nhân dân phường.............32
2.2. Thực trạng về hoạt động của Hội đồng nhân dân phƣờng......................34
2.2.1. Thực trạng hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương
.......................................................................................................................... 34
2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường............37
2.2.3. Thực trạng hoạt động tiếp xúc cử tri....................................................... 44
2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phƣờng
46
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân......................................................................... 46
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân......................................................................... 47
2.4. Kiến nghị hồn thiện................................................................................... 49
2.4.1. Tổ chức mơ hình tổ đại biểu Hội đồng nhân dân phường ở mỗi khu phố49
2.4.2. Tăng cường chất lượng tổ chức kỳ họp của Hội đồng nhân dân phường 50
2.4.3. Tăng cường chất lượng hoạt động bầu đối với các chức danh thuộc thẩm
quyền của Hội đồng nhân dân.......................................................................... 52
2.4.4. Nâng cao tỷ lệ chuyên trách và chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
phường.............................................................................................................. 53
2.4.5. Tăng cường tính tự quyết của Hội đồng nhân dân phường.....................55
2.5. Kết luận........................................................................................................ 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà

nước, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng,
nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý
hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ Trung ương
đến địa phương là cơng tác lâu dài, cần cả hệ thống chính trị và người dân quan tâm,
khơng ngừng chung tay nghiên cứu, tìm ra mơ hình phù hợp với Việt Nam trong
điều kiện hội nhập và cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra rất nhanh chóng và mạnh mẽ
nhưng vẫn phải giữ vững định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà
nước và Nhân dân đã lựa chọn. Trong 74 năm từ khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, hiện là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã có
đạt nhiều thành quả trong lý luận và thực tiễn xây dựng chính quyền địa phương nói
chung và Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng. Ngồi ra, việc thực hiện Nghị quyết
số 26/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khóa XII (kỳ họp thứ
4) về “Thực hiện thí điểm khơng tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường”
đã mang lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý giá về việc phân cấp quản lý Nhà
nước (dù nghị quyết này khơng cịn được áp dụng từ năm 2016).
Bên cạnh những thành quả đạt được, mơ hình tổ chức chính quyền địa
phương của chúng ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục, nhất là ở
cấp phường - cấp trực tiếp làm việc với Nhân dân, có ảnh hưởng vơ cùng to lớn đến
cuộc sống, quyền và lợi ích của Nhân dân. Từ khi tái lập Hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2016, Hội đồng nhân dân các
phường đã từng bước phát huy vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân. Tuy vậy,
trong 03 năm thực hiện nhiệm vụ, Hội đồng nhân dân, Thường trực và các ban Hội
đồng nhân dân phường đã bộc lộ nhiều hạn chế như: Việc xem xét, quyết định
những vấn đề quan trọng, nhất là về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, xây dựng
cơ bản có lúc cịn mang tính hình thức; hoạt động giám sát hiệu quả chưa cao, nhiều
kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm giải



2
quyết kịp thời; hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân; một số đại biểu Hội đồng nhân dân chưa làm tròn trách nhiệm của
người đại biểu dân cử, chưa dành thời gian cần thiết cho hoạt động của Hội đồng
nhân dân, chưa thường xuyên tiếp công dân theo quy định…
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân phường” làm luận văn thạc sĩ của mình, đây là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong những năm qua đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như cơng trình Chính quyền địa phương
với việc đảm bảo thi hành hiến pháp và pháp luật ở địa phương của PGS.TS
Trương Đắc Linh, cơng trình Hồn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan
chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay của TS Trần Công Dũng, cơng trình
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân của TS Bùi Giang
Hưng, cơng trình Hồn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân xã ở nước ta hiện nay của ThS Nguyễn Văn Thái, cơng trình Đổi mới
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay của ThS
Hồng Thu Trang, cơng trình Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở
phường của ThS Trần Thị Phương Thảo, cơng trình Tổ chức và hoạt động của hội
đồng nhân dân phường - thực trạng và phương hướng hồn thiện của tác giả Trần
Thanh Bình. Các cơng trình trên đã tập trung làm rõ quan niệm, vị trí, vai trị và cơ
cấu tổ chức của chính quyền địa phương nói chung và hội đồng nhân dân địa
phương nói riêng; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất một số giải
pháp cơ bản để nâng cao chất lượng hoạt động, từ đó có ý kiến về việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
nhiều cơng trình được thực hiện trên cơ sở Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 1994, 2003 hiện đã được thay thế bởi Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015; chưa có cơng trình nào đề cập trực tiếp, cụ thể đến mơ hình

tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân
phường đặc biệt là các phường ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh, thời gian qua có các cơng trình
nghiên cứu Tổ chức hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Thực trạng và đổi


3
mới của ThS Tất Thành Cang, cơng trình Tổ chức và hoạt động của thường trực
Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương (từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh) của ThS Nguyễn Thị Minh Tâm, cơng trình Tổ chức và hoạt động của
các ban hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương của ThS Nguyễn An
Thính. Các cơng trình này đã nghiên cứu mơ hình tổ chức chính quyền địa phương
nói chung và Hội đồng nhân dân nói riêng gắn với thực tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy vậy, mơ hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực và các
ban của Hội đồng nhân dân phường có nhiều đặc thù so với mơ hình của thành phố
nên cần thiết có một cơng trình nghiên cứu riêng về vấn đề này.
Ngồi ra, về vấn đề không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số cấp hành
chính có các cơng trình Cơ chế giám sát đối với Ủy ban Nhân dân huyện, quận
trong điều kiện không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận của ThS Trần Nhật
Thanh, cơng trình Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong điều kiện
không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường của ThS Phạm Quỳnh Anh,
cơng trình Mơ hình chính quyền phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng
Nhân dân của ThS Trần Thị Yến, cơng trình Thực hiện thí điểm khơng tổ chức hội
đồng nhân dân huyện, quận, phường (từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh) của tác
giả Phan Thị Ngọc Hiền, cơng trình Khơng tổ chức hội đồng nhân dân một số cấp
phương hướng đổi mới và hồn thiện tổ chức hoạt động chính quyền địa phương
của nước ta trong giai đoạn hiện nay của tác giả Bùi Thị Bích Thủy. Các cơng trình
nêu trên đã tập trung làm rõ vị trí, vai trị của mơ hình tổ chức chính quyền địa
phương trong điều kiện khơng tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số cấp hành chính,
so sánh, đánh giá hiệu quả khi có và khơng có hội đồng nhân dân. Đây là mơ hình tổ

chức chính quyền địa phương có nhiều ưu điểm, thể hiện quan điểm phân biệt đơn
vị hành chính tự nhiên mang tính cơ bản và đơn vị hành chính nhân tạo mang tính
trung gian (đã từng xuất hiện trong giai đoạn 1945
- 1959 ở nước ta). Tuy nhiên, việc thực hiện thí điểm hiện đã bãi bỏ theo quy định
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, bên cạnh đó, dù có nhiều ưu
điểm nhưng việc khơng tổ chức hội đồng nhân dân vẫn có những hạn chế nhất định
trong quá trình thực hiện.
Vì những nguyên nhân trên, cần thiết có một cơng trình nghiên cứu riêng về
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phường trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, đề xuất những
giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của mơ hình Hội đồng
nhân dân phường.
* Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về vai trò, tổ chức, hoạt động của Hội
đồng nhân dân, Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân phường.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm và
đề xuất những giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân phường, Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân phường
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Mơ hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phường.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng tổ chức, hoạt động

của Hội đồng nhân dân, Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân phường.
Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát tập trung chủ yếu từ năm 2016 đến 2018 ở một
số phường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Hệ thống các quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
pháp chế Xã hội chủ nghĩa; quan điểm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng chính quyền địa phương nói chung và Hội
đồng nhân dân nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn chất lượng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường
trực và các ban của Hội đồng nhân dân phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí


5
Minh; các tư liệu, số liệu trong các báo cáo sơ kết, tổng kết kết quả thực hiện nghị
quyết của các đơn vị, kết quả giám sát chuyên đề và định kỳ của Hội đồng nhân
dân, Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân các quận, phường.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê ở
chương 1 nhằm khái quát hóa tình hình nghiên cứu của đề tài cũng như tổng hợp,
đánh giá thông tin để làm nền tảng cho chương 2. Trong chương 2 tác giả đã nghiên
cứu theo phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, đặc biệt coi trọng phương pháp
tổng kết thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn. Tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp và đánh giá trong kiến nghị và giải
pháp cho đề tài (Chương 2).
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung những luận cứ khoa học
cho việc xây dựng mơ hình chính quyền địa phương ở đô thị, việc thực hiện phân

cấp quản lý Nhà nước, xây dựng chính quyền thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến đến “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Những kết luận, kiến nghị trong luận văn cũng có thể góp phần tích cực vào
cơng tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 (LTCCQĐP), Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (LHĐGS) và các văn bản pháp luật hiện
hành về chính quyền địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 02 chương, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân phường.

-

Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phường
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh và kiến nghị hoàn thiện.


6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƢỜNG
1.1. Khái quát quá trình phát triển của Hội đồng nhân dân phƣờng
Giai đoạn từ năm 1930 - 1945, thiết chế ch nh quyền địa phương được h nh
thành ngay trong cuộc đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các Ủy ban giải phóng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở các
huyện, làng, thơn, bản là h nh thức tổ chức chính quyền tiền thân của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ
lâm thời về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ và

Sắc lệnh số 77/SL ngày 21/12/1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính thành phố, khu phố. Lần đầu tiên, mơ hình Hội đồng nhân dân được tổ chức ở
nước ta. Ngày 09/11/1946, Quốc hội chính thức thơng qua bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, trong đó kế thừa và khẳng định mơ hình tổ
chức chính quyền địa phương được ghi nhận tại hai Sắc lệnh số 63/SL và số 77/SL.
Chương V Hiến pháp 1946 (từ Điều 57 - 62) quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành ch nh, theo đó Hội đồng nhân dân được thành lập ở tỉnh, thành phố, thị xã
và xã (các đơn vị hành chính cơ bản mang tính tự nhiên) do đầu phiếu phổ thông và
trực tiếp bầu ra, khơng thành lập ở bộ và huyện (mang tính trung gian, nhân tạo).
Trong giai đoạn này, đơn vị hành chính phường chưa xuất hiện.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1959, khơng cịn sự phân biệt đơn vị hành chính cơ bản
với đơn vị hành chính trung gian. Điều 79 Hiến pháp 1959 quy định: “Ở mỗi đơn vị
hành chính nói trên đều tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính”. Ngồi
ra, để phân biệt quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền ở nơng thơn với quản lý và
tổ chức bộ máy chính quyền ở đơ thị. Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban hành chính các cấp năm 1962 quy định “Các thành phố có thể chia thành
khu phố ở nội thành và huyện ở ngoại thành”. Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong lịch
sử lập pháp, Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính các cấp năm 1962 xác định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương”. Cịn Ủy ban hành chính được xác định là “cơ quan chấp hành


7
của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa
phương”. Những quy định này của Hiến pháp 1959 đánh dấu xu hướng tổ chức
chính quyền địa phương của nước ta bắt đầu chịu ảnh hưởng của mơ hình tổ chức
chính quyền Xơ-viết địa phương, thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa,
đề cao vị trí và vai trị của Hội đồng nhân dân trong toàn bộ hệ thống các cơ quan
nhà nước. Hội đồng nhân dân khơng cịn đơn thuần là các “cơ quan thay mặt cho
nhân dân địa phương” mà nó cịn là cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt cho nhà

nước ở địa phương. Tuy vậy, trong giai đoạn này, đơn vị hành chính phường vẫn
chưa được thiết lập.
Hiến pháp 1980 không phân biệt sự khác nhau giữa địa bàn nông thôn và đô
thị nên đã phân chia các đơn vị hành chính của các tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương là như nhau, đều có ba cấp là: Tỉnh (Thành phố trực thuộc Trung ương)
- huyện (thành phố, quận, thị xã) - xã (phường, thị trấn). Từ lúc này, nước ta chính
thức đưa ra khái niệm về “đơn vị hành chính tương đương” và lấy địa bàn nông
thôn làm chuẩn. Tất cả các đơn vị hành chính đều là cấp tổ chức chính quyền hồn
chỉnh, có cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Như vậy, ở nội thành thành
phố Hồ Chí Minh lúc này đã có 03 cấp chính quyền hồn chỉnh gồm: Thành phố quận - phường và đều tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Ngày
30/6/1989, Quốc hội ra nghị quyết sửa đổi một số điều Hiến pháp 1980, quy định
thành lập cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân từ cấp huyện và tương đương trở
lên để tách chức năng thường trực Hội đồng nhân dân khỏi Ủy ban nhân dân. Điều
26 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 quy định
Thường trực Hội đồng nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký Hội đồng
nhân dân, do Hội đồng nhân dân bầu trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy
nhiên, ở xã, phường, thị trấn vẫn chưa có Thường trực Hội đồng nhân dân. Hiến
pháp 1980 đặc biệt đề cao vị trí, vai trị của các cơ quan dân cử, xác lập vị trí tối cao
và toàn quyền của các cơ quan dân cử trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước
khác cùng cấp. Điều 6 Hiến pháp 1980 quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp” và khẳng định “Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan nhà nước”.
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thể chế hóa đường lối đổi
mới được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Nhưng khác


8
với tổ chức bộ máy nhà nước ở Trung ương có sự đổi mới mạnh mẽ so với Hiến
pháp 1980, mơ hình tổ chức chính quyền địa phương về cơ bản khơng có sự thay
đổi đáng kể. So với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm

1989, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 quy định Hội
đồng nhân dân xã, phường, thị trấn cũng có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân và đến Luật năm 2003 quy định cho Hội đồng nhân dân cả ba cấp tỉnh huyện - xã đều thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân.
Ngày 15 tháng 11 năm 2008, Quốc hội ban hành Nghị quyết số
26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 ngày 16 tháng 01 năm 2009 điều
chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức Bộ máy của
Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường nơi khơng tổ chức Hội đồng nhân dân nhằm
thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X.
Tuy nhiên, việc thực hiện thí điểm mới dừng ở việc chuyển nhiệm vụ, quyền hạn
của hội đồng nhân dân huyện, quận, phường cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cùng cấp chứ chưa đổi mới đồng bộ về tổ chức,
hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị huyện, quận, phường. Do đó,
cơng tác thí điểm tuy mang lại nhiều kinh nghiệm quý giá và đạt được những kết
quả khả quan nhưng không thể xác định được các đơn vị hành chính cơ bản, trung
gian nên cơng tác quản lý Nhà nước nhìn chung khơng thực sự đổi mới.
Kết luận số 89-KL/TW ngày 03 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về tổng
kết thực hiện thí điểm khơng tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường đề
xuất 03 phương án để Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, cho ý kiến trước
khi Quốc hội thơng qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 gồm:
+ Phương án 1. Đơn vị hành chính quận, phường không tổ chức hội đồng
nhân dân mà chỉ tổ chức Ủy ban nhân dân.
+ Phương án 2. Đơn vị hành chính phường khơng tổ chức hội đồng nhân dân
mà chỉ tổ chức Ủy ban nhân dân.
+ Phương án 3. Tại các đơn vị hành chính, khơng phân biệt khu vực đơ thị,
nơng thơn đều có hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.


9

Tuy nhiên, cả 03 phương án trên chưa xác định được đâu là đơn vị trung gian,
đâu là đơn vị cơ bản nên nhìn chung khơng thể tiếp tục thực hiện thí điểm. Vì vậy,
hiện nay Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã tái lập mơ hình Hội đồng
nhân dân ở tất cả các cấp hành chính.
1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân phƣờng
1.2.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân phường
Trong năm bản Hiến pháp của nước ta, từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến
pháp năm 2013 đều ghi nhận một quan điểm rất quan trọng và cơ bản là ở nước ta,
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Người dân sử dụng quyền lực
của mình thơng qua 02 hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Biểu hiện rõ
nét nhất của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc tổ chức và hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp - cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước. Tính chất đại diện thể hiện rõ nét
nhất ở sự hình thành của các cơ quan này bao gồm những người thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri bầu ra theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín (cơ quan dân cử). Tính chất đại diện cao của các cơ quan
dân cử còn thể hiện ở chỗ thành phần các đại biểu phải mang tính đại diện cho khối
đại đồn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân.
Điều 113 Hiến pháp 2013 quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Ở đơn vị hành chính phường thì Hội đồng
nhân dân phường là cơ quan quyền lực nhà nước ở phường, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân phường bầu ra, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân phường và cơ quan nhà nước cấp quận.
1.2.2. Đại biểu Hội đồng nhân dân phường
Hội đồng nhân dân phường gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở
phường bầu ra. Việc xác định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân phường được
thực hiện dựa trên tổng số dân của phường, cụ thể theo Khoản 1 Điều 60 Luật Tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015: Phường có từ 8.000 dân trở xuống được
bầu 25 đại biểu; Phường có trên 8.000 dân thì cứ thêm 4.000 dân được bầu thêm 01


10
1

đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu . Như vậy, trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, Hội đồng nhân dân các phường, xã có khoảng từ 25 - 35 đại biểu; trong
đó, cao nhất là Hội đồng nhân dân Phường Bình Hưng Hịa A với 35 đại
2

biểu/123.000 người dân . Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân phường có
thể có thay đổi số lượng đại biểu vì nhiều lý do như: nghỉ hưu, chuyển công tác,
chuyển chỗ ở, qua đời… nên số lượng đại biểu thực tế có thể ít hơn quy định như
Hội đồng nhân dân Phường 17 Quận Phú Nhuận hiện chỉ cịn 22 đại biểu, ít hơn 03
đại biểu so với quy định (tại thời điểm ngày 30/7/2019), Hội đồng nhân dân Phường
25 Quận Bình Thạnh hiện chỉ cịn 18 đại biểu, ít hơn 07 đại biểu so với quy định (tại
3

thời điểm ngày 22/11/2019) .
Theo khoản 2 điều 6 Luật TCCQĐP, đại biểu Hội đồng nhân dân phường là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân trên địa bàn phường, chịu
trách nhiệm trước cử tri và trước tập thể Hội đồng nhân dân phường về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. Nhiệm kỳ của đại biểu Hội đồng nhân
dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân (05 năm). Dựa trên quy định tại khoản 1
Điều 101 Luật TCCQĐP, đại biểu Hội đồng nhân dân phường phải có mối liên hệ
mật thiết với phường, thể hiện ở yếu tố có cư trú trên địa bàn phường hay công tác
trên địa bàn phường. Nếu khơng đảm bảo những điều kiện trên thì đại biểu phải xin
thôi làm nhiệm vụ đại biểu.

Các đại biểu Hội đồng nhân dân phường bình đẳng với nhau trong thảo luận
và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Khi
biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân thì mỗi
đại biểu tương ứng với 01 phiếu biểu quyết và các phiếu có giá trị ngang nhau. Đây
là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung và hoạt
động của Hội đồng nhân dân phường nói riêng.
1

Ủy ban nhân dân Phường 6 Gị Vấp, 22/11/2019
Ủy ban nhân dân Phường 11 Gò Vấp, 22/11/2019
Ủy ban nhân dân Phường 3 Gò Vấp, 22/11/2019
2
Đức Lâm – Duy Anh, 22/11/2019
22/11/2019
Trung Hiếu, 22/11/2019
3

Ủy ban nhân dân Phường 25 B nh Thạnh, 22/11/2019


11
Khác với các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các đại biểu
Hội đồng nhân dân phường không được tổ chức thành các Tổ đại biểu. Chủ thể duy
nhất có quyền tiếp xúc cử tri ở cấp phường chỉ có cá nhân đại biểu Hội đồng nhân
dân phường. Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi
năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân
nơi mình là đại biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
Ngoài ra, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp công dân theo quy
định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại

biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến chủ thể có
thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn
đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu Hội đồng nhân dân có
quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu
xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
1.2.3. Thường trực Hội đồng nhân dân phường
Thường trực Hội đồng nhân dân phường gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân
phường và 01 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường. Hầu hết các Chủ tịch Hội
đồng nhân dân là kiêm nhiệm. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp Chủ tịch Hội
đồng nhân dân hoạt động chuyên trách. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường là
đại biểu hoạt động chuyên trách. Số lượng thành viên Thường trực Hội đồng nhân
dân phường chỉ có 02 thành viên là khá ít so với cấp quận là 05 thành viên và cấp
thành phố là 08 thành viên; bên cạnh đó, cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân
phường khơng có các trưởng ban Hội đồng nhân dân.
Theo khoản 3 điều 6 Luật TCCQĐP thì Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ
quan thường trực của Hội đồng nhân dân, có trách nhiệm báo cáo cơng tác trước
Hội đồng nhân dân. Đặc biệt, thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không
thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Đây là một trong những
quy định giúp đảm bảo vai trò độc lập của Hội đồng nhân dân trước Ủy ban nhân
dân cùng cấp.
Thường trực Hội đồng nhân dân được bầu ra trong số đại biểu Hội đồng nhân
dân và có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Hội đồng nhân dân. Cụ thể,


12
Thường trực Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ký các văn bản của Hội đồng nhân dân;
chịu trách nhiệm chuẩn bị tổ chức và chủ trì các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; thực
hiện chức năng giám sát theo quy định, tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố

cáo, phản ánh, kiến nghị và quan trọng nhất là tạo điều kiện cho đại biểu Hội đồng
4

nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân thực hiện tốt vai trị của mình . Đặc biệt ở
cấp phường - cấp gần nhất với đời sống nhân dân, vai trò của Thường trực Hội đồng
nhân dân phường đặc biệt quan trọng trong việc duy trì mối quan hệ giữa đại biểu Hội
đồng nhân dân phường với nhân dân trên địa bàn, trực tiếp thực hiện công tác dân vận
của chính quyền ở cơ sở; đồng thời giúp các ban của Hội đồng nhân dân phường (vốn
khơng có nhân sự hoạt động chuyên trách như cấp tỉnh, cấp huyện) thực hiện mạnh mẽ
vai trò giám sát các hoạt động của Ủy ban nhân dân phường, qua đó kiến nghị Ủy ban
nhân dân quận, phường giải quyết các bức xúc của nhân dân.

Thường trực Hội đồng nhân dân có các chức năng:
- Triệu tập các kỳ họp của Hội đồng nhân dân phường; phối hợp với Ủy ban
nhân dân phường trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
- Đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân phường thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân.
- Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật tại địa phương.
- Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân
phường; giữ mối liên hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn của đại
biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân; yêu cầu các cơ quan, tổ
chức, cá nhân giải trình các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thường
trực Hội đồng nhân dân tại phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân phường.
- Tổ chức để đại biểu Hội đồng nhân dân phường tiếp công dân theo quy định
của pháp luật; đơn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân để báo cáo tại
kỳ họp Hội đồng nhân dân phường.
- Phê chuẩn danh sách Ủy viên của các Ban Hội đồng nhân dân trong số đại
biểu Hội đồng nhân dân và việc cho thôi làm Ủy viên của Ban của Hội đồng nhân
dân theo đề nghị của Trưởng ban Hội đồng nhân dân.

4Điều 78, 79, 80, 82, 83, 86, 87, 88, 89, 90 Luật TCCQĐP năm 2015


13
- Trình Hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo quy định.
- Trình Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân phường lên Hội đồng nhân
dân quận.
- Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
phường; mỗi năm hai lần thông báo cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường về hoạt
động của Hội đồng nhân dân.
1.2.4. Các ban của Hội đồng nhân dân phường
Đây là quy định hoàn toàn mới so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 2003 (chỉ tổ chức ban của Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh và
huyện). Ban của Hội đồng nhân dân phường là các cơ quan của Hội đồng nhân dân
phường, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình
Hội đồng nhân dân, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ
trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân phường thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội.
Ban của Hội đồng nhân dân phường gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và
các ủy viên.
Số lượng ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân
phường quyết định. Do Hội đồng nhân dân phường có từ 25 – 35 đại biểu nên mỗi
ban có khoảng 05 thành viên (tức khoảng 03 ủy viên). Do hiện chưa có quy định cụ
thể về số lượng cũng như cơ cấu thành viên mỗi ban nên cũng chưa có căn cứ để
nhận định số lượng thành viên ban là số lẻ hay chẵn cũng như cơ cấu thành viên
gồm những tiêu chuẩn nào. Điều này dẫn đến việc thực hiện nguyên tắc làm việc tập
thể của Ban sẽ gặp khó khăn ở khâu biểu quyết nếu số lượng thành viên của ban là
số chẵn và số phiếu đồng ý - không đồng ý là 50% - 50% (trong trường hợp này

khơng có căn cứ pháp luật về xác định kết quả dựa vào lựa chọn của Trưởng Ban).
Do đó, số lượng thành viên các ban thông thường là số lẻ. Việc đưa ra tiêu chí lựa
chọn nhân sự các thành viên của Ban cũng chưa được quy định cụ thể mà phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của Hội đồng nhân dân phường (trong việc lựa chọn Trưởng
Ban, Phó trưởng ban) và Trưởng Ban Hội đồng nhân dân phường (trong việc lựa
chọn các ủy viên) nên hiện chưa có sự thống nhất giữa các địa phương.


14
Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân
dân phường hoạt động kiêm nhiệm. Khác với các ban Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
và huyện, trưởng ban Hội đồng nhân dân phường không phải là thành viên của
Thường trực Hội đồng nhân dân phường.
Hoạt động của các ban Hội đồng nhân dân phường chủ yếu là giám sát hoạt
động của Ủy ban nhân dân phường, cán bộ, công chức phường, các dự án đầu tư
công trên địa bàn phường và thẩm tra các văn bản, đề án theo sự phân công của
Thường trực Hội đồng nhân dân phường.
1.3. Hoạt động của Hội đồng nhân dân phƣờng
1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 thì Hội đồng
nhân dân có 02 chức năng cơ bản sau:
- Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng
của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
- Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Một chức năng luật định khác của Hội đồng nhân dân phường là thực hiện
quyền lập pháp thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới dạng
5

nghị quyết để quy định những vấn đề được luật giao. Tuy nhiên, chức năng này
chưa được thực hiện trên thực tế dù được quy định khá cụ thể trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng
5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Lý do xuất phát từ đặc thù cấp quận, phường
chỉ là cấp thừa hành các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và thành phố;
những vấn đề quản lý nhà nước khi xuống đến phường đã được quy định khá chi
5Khoản 14 Điều 14 và Điều 30 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015


15
tiết và có thể áp dụng trực tiếp vào cuộc sống nên hầu như chính quyền phường
khơng phát sinh nhu cầu lập pháp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Từ khi Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm 2015 đến nay, những
trường hợp duy nhất các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ban hành
văn bản quy phạm pháp luật là khi ban hành quy chế hoạt động của các phòng, ban
thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện và bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật
của các nhiệm kỳ trước (dù những trường hợp này có phải văn bản quy phạm pháp
luật hay khơng cịn nhiều tranh cãi); cịn cấp phường xã thì hồn tồn khơng ban
hành bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào.
Bên cạnh đó, theo Điều 61 Luật TCCQĐP thì Hội đồng nhân dân phường có
những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng
ban của Hội đồng nhân dân phường; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân phường;

quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách
phường; điều chỉnh dự toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết; phê
chuẩn quyết toán ngân sách phường. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự
án trên địa bàn phường theo quy định của pháp luật; giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
phường; giám sát hoạt động của Thường trực và các ban Hội đồng nhân dân
phường, Ủy ban nhân dân phường; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm theo
quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật TCCQĐP; bãi nhiệm đại biểu Hội đồng
nhân dân phường và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân phường xin thôi
làm nhiệm vụ đại biểu; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy
ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường.
Tuy nhiên, riêng đối với thẩm quyền giám sát, cần căn cứ quy định của Điều
5 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. Hội đồng
nhân dân phường giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật trên địa bàn phường
và việc các tổ chức, cá nhân thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường;
giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các
Ban của Hội đồng nhân dân phường; giám sát các quyết định của Ủy ban nhân dân


16
phường. Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân giúp
Hội đồng nhân dân phường giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân phường, các
cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân phường, giám sát văn bản quy phạm pháp luật,
giám sát việc tiếp công dân, giải quyết đơn thư. Đại biểu Hội đồng nhân dân
phường chất vấn các thành viên của Ủy ban nhân dân phường; trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương. Đặc biệt, khi
xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của
Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

ở địa phương.
1.3.2. Quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương
Theo điều 61 Luật TCCQĐP, Hội đồng nhân dân phường có quyền quyết
định các vấn đề nhân sự, tài chính, lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân phường bầu, chủ trương đầu tư các chương trình, dự án
trên địa bàn phường, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy
ban nhân dân phường. Trong đó, các vấn đề quan trọng của địa phương nhìn chung
nằm ở quyền quyết định về nhân sự, tài chính và chủ trương đầu tư các chương
trình, dự án của phường. Các quyết định này được văn bản hóa bằng hình thức nghị
quyết và phải được tập thể Hội đồng nhân dân phường thông qua tại kỳ họp với tỷ lệ
đại biểu tham gia biểu quyết tán thành theo quy định tại Khoản 3 Điều 91 Luật
TCCQĐP (quá bán với các nghị quyết thông thường và từ 2/3 trở lên đối với các
nghị quyết bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân). Đối với việc bãi nhiệm đại biểu
Hội đồng nhân dân, Điều 102 Luật TCCQĐP quy định có 02 hình thức bãi nhiệm
đại biểu Hội đồng nhân dân là Hội đồng nhân dân thực hiện bãi nhiệm và cử tri thực
hiện bãi nhiệm; trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân thì
việc bãi nhiệm được tiến hành theo trình tự do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định. Tuy nhiên, Ủy ban thường vụ Quốc hội vẫn chưa có văn bản quy định về vấn
đề này nên việc bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân hiện vẫn chỉ được thực hiện
theo hình thức duy nhất là do tập thể Hội đồng nhân dân biểu quyết.
Để quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương được Hội đồng
nhân dân thực hiện một cách hiệu quả thì vai trị cá nhân của mỗi đại biểu là rất
quan trọng. Do đó, các đại biểu phải có kỹ năng, phẩm chất đạo đức tốt, có thơng tin
đầy đủ, chính xác về vấn đề được biểu quyết, đồng thời phải có cơ chế đảm bảo


17
tính khách quan khi biểu quyết để mỗi quyết định của Hội đồng nhân dân có tính
dân chủ, phát huy được trí tuệ tập thể và có tính khả thi cao. Tuy nhiên, đây là
những vấn đề cịn nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động của cơ quan

Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân phường nói riêng.
Ngồi ra, việc cung cấp, cơng khai, minh bạch thông tin của các cơ quan
trong hệ thống chính trị địa phương là điều kiện cơ bản thực hiện quyết định các vấn
đề quan trọng của Hội đồng nhân dân phường một cách hiệu quả. Để việc ra quyết
định đúng, kịp thời thì lượng thơng tin phải rõ ràng, chính xác và có tính thời sự
cao; khơng thể có quyết định đúng khi thiếu hoặc khơng có thơng tin, thông tin sai
lệch, lỗi thời. Điều 7 và khoản 3 Điều 88 Luật HĐGS năm 2015đã quy định về trách
nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể chịu sự giám sát và các chủ thể liên quan,
tuy nhiên trách nhiệm này chưa có cơ chế hiệu quả để đảm bảo thực hiện trên thực
tế.
Bên cạnh đó, vai trị cụ thể hóa nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường do
các cơ quan của Hội đồng nhân dân phường và Ủy ban nhân dân phường thực hiện
cũng rất quan trọng. Việc ban hành nghị quyết chỉ là bước đề ra chủ trương, còn
việc tổ chức thực hiện của các cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
phường mới là quá trình quan trọng giúp đưa những chủ trương đi vào thực tiễn
cuộc sống. Do đó, việc phối hợp chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân phường theo đúng quy định của Hiến pháp 2013 và Luật TCCQĐP là yếu tố
quyết định tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của quyền quyết định các vấn đề quan
trọng ở địa phương của Hội đồng nhân dân.
1.3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường
Theo Khoản 4 Điều 61 Luật TCCQĐP thì Hội đồng nhân dân phường có
quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện
nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường; giám sát hoạt động của Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp
mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Tuy
nhiên, do Hội đồng nhân dân phường không tổ chức các tổ đại biểu Hội đồng nhân
dân nên không thực hiện quyền giám sát của các tổ đại biểu như Hội đồng nhân dân
thành phố và quận. Việc thực hiện quyền giám sát của Hội đồng nhân dân phường
được quy định chi tiết trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội



18
đồng nhân dân các cấp năm 2015 (Luật HĐGS). Trong đó, thẩm quyền giám sát của
Hội đồng nhân dân, thường trực, các ban và đại biểu Hội đồng nhân dân phường
được quy định tại điều 5 Luật HĐGS; quy trình và nghiệp vụ giám sát được quy
định từ điều 57 đến điều 90 Luật HĐGS. Nhìn chung, hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân được quy định khá đa dạng về hình thức (bao gồm giám sát thường
xuyên, giám sát chuyên đề, thẩm tra, chất vấn…), chủ thể cũng như đối tượng giám
sát.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phải tuân theo các nguyên tắc tại
Điều 3 Luật HĐGS: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm khách quan, công
khai, minh bạch, hiệu quả và không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Việc đề ra các nguyên tắc là điểm mới khá
quan trọng so với quy định tại Điều 63 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp năm 2003 vốn chỉ quy định đây là trách nhiệm của đồn giám sát.
Theo quy định mới thì khơng chỉ đồn giám sát mà Hội đồng nhân dân, Thường
trực, các Ban và đại biểu Hội đồng nhân dân cũng phải tuân thủ nguyên tắc ngay từ
khi xây dựng chương trình giám sát nhiệm kỳ, hàng năm và kế hoạch giám sát cụ
thể chứ không chỉ giới hạn từ khâu thực hiện giám sát của đoàn giám sát như quy
định cũ. Điều này giúp việc xác định các nội dung giám sát khả thi, thực tế và hiệu
quả hơn, đồng thời giảm khả năng phát sinh tiêu cực trong giám sát.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 89 Luật HĐGS quy định “Nghị quyết về giám sát
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân có giá trị pháp lý bắt
buộc thực hiện” nhưng không nêu đến các kết luận giám sát của Thường trực, các
ban và đại biểu Hội đồng nhân dân. Như vậy, kết luận giám sát của những chủ thể
này có thể hiểu là có thể được tùy nghi lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện, và
do đó có phần mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 7 là cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát phải thực hiện kết luận, kiến nghị của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu
Hội đồng nhân dân. Ngoài ra, trách nhiệm thực hiện những nghị quyết, kết luận,

kiến nghị theo Điều 7 và điều khoản 3 Điều 89 Luật HĐGS chỉ dừng lại ở những
chủ thể chịu giám sát; nếu trong quá trình giám sát, chủ thể giám sát phát hiện ra
những vấn đề cần kiến nghị các chủ thể khác có liên quan hỗ trợ thực hiện thì những
kiến nghị này có tính pháp lý bắt buộc hay khơng có tính pháp lý bắt buộc chưa
được luật đề cập. Mặt khác, Điều 89 Luật HĐGS tuy nêu quy định về bảo đảm


19
việc thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát nhưng chưa xây dựng được cơ chế cụ thể
để đảm bảo thực hiện các quy định tại này nếu như đã kiến nghị “cơ quan có thẩm
quyền xử lý” nhưng cơ quan có thẩm quyền khơng xử lý; đồng thời cũng khơng có
cơ chế thật sự rõ ràng thực hiện trách nhiệm theo dõi, đôn đốc nhất là trong điều
kiện việc công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước
chưa được thực hiện thật sự tốt. Có thể nói, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân vẫn còn phụ thuộc vào mức độ hợp tác của cơ quan chịu sự giám sát.
1.3.4. Hoạt động tiếp xúc cử tri của Hội đồng nhân dân phường
Tiếp xúc cử tri là một trong những hoạt động quan trọng nhất của Hội đồng
nhân dân do mục đ ch cao nhất mà Hội đồng nhân dân hướng tới không nằm ngồi
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cử tri. Tiếp xúc cử tri cũng
chính là diễn đàn dân chủ, công khai, đối thoại trực tiếp, tạo điều kiện để cử tri thể
hiện tâm tư, ý chí, nguyện vọng đối với cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
thông qua người đại diện của mình. Thơng qua tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng
nhân dân liên hệ và lắng nghe, ghi nhận các ý kiến của những người mà mình đại
diện đồng thời phải liên hệ các cơ quan chức năng để giải quyết. Hoạt động tiếp xúc
cử tri giúp giải quyết từ đầu những ý kiến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị,
làm giảm số lượng đơn thư gửi đến phường cũng như Ban tiếp công dân của quận.
Việc thông tin hai chiều giữa người dân và Hội đồng nhân dân còn là một cách để
tuyên truyền, vận động người dân hỗ trợ, chấp hành và ủng hộ, thực hiện các đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, thực hiện hiệu quả
việc xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trên địa bàn. Điều 94

Luật TCCQĐP quy định về trách nhiệm tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân
dân, và trách nhiệm này được phối hợp thực hiện bởi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam theo khoản 4 Điều 103 Luật TCCQĐP. Bên cạnh việc tiếp xúc, lắng nghe ý
kiến cử tri thì các đại biểu cịn có nhiệm vụ giải thích và vận động cử tri thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Như vậy, quy định pháp luật về tiếp xúc cử
tri của các đại biểu Hội đồng nhân dân thể hiện tính song trùng trong vai trò của đại
biểu: vừa đại diện cho cử tri vừa là cánh tay nối dài của chính quyền trong mối quan
hệ giữa Nhà nước với nhân dân.
Điều 6 Nghị quyết số 629/2019/UBTVQH14 ngày 30 tháng 01 năm 2019 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số hoạt động của Hội đồng nhân dân
quy định đại biểu Hội đồng nhân dân phường trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc


×