Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của thanh tra tỉnh từ thực tiễn thành phố hồ chí minh (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.21 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

QUÁCH HỮU VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hành chính và Hiến pháp
Định hƣớng nghiên cứu Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Nhật Thanh
Học viên: Quách Hữu Vinh
Lớp: Cao học Luật, Khóa 27

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ “Xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh
của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên
cứu của riêng cá nhân tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy
PGS.TS Phan Nhật Thanh. Các tài liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn gốc
rõ ràng và đã được công bố theo đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận văn


là do tơi tự tìm hiểu, tổng hợp, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù
hợp với thực tế.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Quách Hữu Vinh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến q thầy, cơ trong Khoa Luật Hành
chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng
dạy và trang bị cho tơi những kiến thức sâu sắc. Đặc biệt, tôi xin trân trọng gửi đến
thầy PGS.TS Phan Nhật Thanh một lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất, người đã
tận tình hướng dẫn tơi rất nhiều trong q trình làm luận văn thạc sĩ. Sự chỉ bảo và
định hướng của thầy đã giúp tôi tự tin nghiên cứu những vấn đề mới và đề xuất
phương hướng giải quyết một cách khoa học.
Tiếp theo, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo của cơ quan Thanh tra
thành phố Hồ Chí Minh, nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện tốt nhất để tơi tìm
hiểu và nắm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình học tập, nghiên cứu thực hiện
luận văn thạc sĩ này một cách tốt nhất.
Trong quá trình theo học và làm luận văn, tôi cảm thấy rằng bản thân đã học
tập và trải nghiệm được nhiều điều vơ cùng hữu ích mà có lẽ nếu khơng tự mình trải
qua thì sẽ khơng bao giờ có thể biết được. Từ đó để tơi có cơ hội học hỏi và rút kinh
nghiệm cho những bài nghiên cứu tiếp theo và xa hơn nữa là trong quá trình làm
việc sau này của mình.
Luận văn này tất nhiên sẽ khơng thể tránh được những hạn chế, thiếu sót. Tơi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và nhận xét chân thành từ quý thầy, cô
và mọi người. Tôi xin chân thành cảm ơn.



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ ĐƠN
KHIẾU NẠI, ĐƠN TỐ CÁO, ĐƠN KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH CỦA THANH
TRA TỈNH............................................................................................................... 6
1.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh..............................6
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh...............................6
1.1.2. Đặc điểm, chủ thể khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh.................10
1.2. Khái niệm, đặc điểm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh của Thanh tra tỉnh............................................................................ 17
1.2.1. Khái niệm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh................................................................................................. 17
1.2.2. Đặc điểm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh................................................................................................. 20
1.3. Điều kiện thụ lý giải quyết và thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại, đơn
tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh....................................... 24
1.3.1. Điều kiện thụ lý giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh của Thanh tra tỉnh.......................................................................... 24
1.3.2. Thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản
ánh của Thanh tra tỉnh................................................................................... 27
1.4. Quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh................................................................................................... 36
1.4.1. Quy trình xử lý đơn khiếu nại của Thanh tra tỉnh.................................36
1.4.2. Quy trình xử lý đơn tố cáo của Thanh tra tỉnh...................................... 38
1.4.3. Quy trình xử lý đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh................43
Kết luận Chƣơng 1............................................................................................... 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, ĐƠN TỐ CÁO,
ĐƠN KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH CỦA THANH TRA TỈNH - TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN....46



2.1. Thực trạng xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh
của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh............................46
2.1.1. Thực trạng xử lý đơn khiếu nại của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh............................................................................................ 48
2.1.2. Thực trạng xử lý đơn tố cáo của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh................................................................................................... 51
2.1.3. Thực trạng xử lý đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 53
2.2. Đánh giá thực trạng xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh...........54
2.2.1. Ưu điểm, hạn chế về pháp luật và việc thực hiện pháp luật về xử lý đơn
khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 55
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xử lý đơn khiếu nại, đơn tố
cáo, đơn kiến nghị phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh......................................................................................................... 72
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện việc xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn
kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................... 75
2.3.1. Một số kiến nghị hồn thiện việc xử lý đơn khiếu nại của Thanh tra
tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh..................................................... 75
2.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện việc xử lý đơn tố cáo của Thanh tra tỉnh từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh............................................................... 80
2.3.3. Một số kiến nghị hồn thiện việc xử lý đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh..................................... 82
Kết luận Chƣơng 2............................................................................................... 84
KẾT LUẬN............................................................................................................ 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát
triển với thế giới, kinh tế, xã hội phát triển, an ninh, quốc phòng được bảo đảm, đời
sống nhân dân từng bước được cải thiện, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao. Do đó thực tế địi hỏi cách thức quản lý nhà nước ở tất cả các
lĩnh vực phải thực sự đạt hiệu quả nhằm củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân
vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt
là trong công tác xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
Như đã biết, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đã được Hiến pháp năm 2013
và các văn bản luật ghi nhận là một trong những quyền cơ bản của công dân. Quốc hội,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị nhằm
tăng cường hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Các bộ,
ngành, địa phương đã xác định được trách nhiệm của mình trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân và coi đây là một trong những cơng tác
quan trọng góp phần phát huy quyền dân chủ của công dân trong thời kỳ hội nhập.

Tuy nhiên hiện nay, tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công
dân ở các địa phương diễn ra có chiều hướng bất thường, ngày càng gia tăng về số
lượng và phức tạp về tính chất; nhiều đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản
ánh phức tạp và kéo dài nhiều năm do không được giải quyết hoặc giải quyết không
đúng quy định pháp luật, kết quả giải quyết khơng chính xác, biện pháp xử lý khơng
nghiêm minh. Bên cạnh đó cịn có nhiều đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh vượt cấp dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, không những tạo áp lực rất
lớn cho các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết mà cịn ảnh hưởng
đến kinh tế - xã hội của địa phương, sâu xa hơn là ảnh hưởng đến tình hình an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội và lịng tin của nhân dân đối với chế độ.
Để việc giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh đạt
hiệu quả thì nhiệm vụ trọng tâm trước mắt phải đảm bảo được công tác xử lý đơn

khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh. Theo quy định pháp luật hiện hành,
xử lý đơn là việc cơ quan nhà nước, tổ chức, người có thẩm quyền khi nhận được
đơn của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải căn cứ, đối chiếu với quy định của pháp luật
để thụ lý giải quyết nếu thuộc thẩm quyền của mình hoặc hướng dẫn công dân hoặc


2
chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền giải quyết theo quy
định của pháp luật. Do vậy, công tác xử lý đơn là việc vô cùng quan trọng, là tiền đề
cơ bản cho việc giải quyết đơn.
Bên cạnh đó, bản thân tơi hiện đang là Thanh tra viên của cơ quan Thanh tra
thành phố Hồ Chí Minh - cơ quan chun mơn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh, có trách nhiệm tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phịng, chống
tham nhũng. Bởi vì vậy, tơi ln mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về pháp luật
trong cơng tác xử lý đơn, qua đó đối chiếu với các tình huống thực tiễn trong cơng
việc để có những giải pháp nhằm góp phần hồn thiện, nâng cao chất lượng trong
công tác xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh
nói chung cũng như từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn
kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ - ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay, những vấn đề liên quan đến pháp luật về khiếu
nại, tố cáo và việc thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
trong các hoạt động chuyên ngành đã được khá nhiều nhà nghiên cứu về khoa học
pháp lý tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh quan tâm, có thể kể đến các
đề tài tiêu biểu như sau: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh: “Đổi mới việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban nhân dân Quận - Từ thực tiễn Quận Gò
Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh”, Khóa 1 - Thành ủy; Luận văn thạc sĩ của Phùng

Quốc Việt: “Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)”, Khóa 3 - Thành
ủy; Luận văn thạc sĩ của Hồ Hiếu Thảo: “Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơng dân
(từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)”, Khóa 4 - Thành ủy; Luận văn thạc sĩ của
Trần Văn Thuận: “Hoạt động phối hợp giữa cơ quan thanh tra thành phố với cơ
quan ủy ban kiểm tra Thành ủy trong giải quyết khiếu nại, tố cáo (từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh)”, Khóa 4 - Thành ủy; Luận văn thạc sĩ của Lê Trí Dũng:
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Khóa 14; Luận
văn thạc sĩ của Vũ Thị Mỹ Ngọc: “Cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc


3
Việt Nam quận với Ủy ban nhân dân cùng cấp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo”,
Khóa 16; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Sơn: “Hoạt động tiếp công dân, xử lý
đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh”, Khóa 2 - Lâm Đồng.
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên mới chỉ nghiên cứu các vấn đề về pháp
luật giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố
cáo vào một số hoạt động chuyên ngành, chưa đề cập chi tiết đến việc xử lý đơn
khiếu nại, đơn tố cáo (là tiền đề quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo)
và đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào chi tiết về kiến nghị, phản ánh và việc xử lý
đơn kiến nghị, phản ánh, đây cũng là một vấn đề quan trọng cần lưu ý khi nghiên
cứu pháp luật nói chung về khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, đối với pháp luật về tố
cáo, hiện nay Luật Tố cáo năm 2018 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2019 và thay thế cho Luật Tố cáo năm 2011. Do đó, những cơng trình nghiên
cứu về pháp luật tố cáo đối với Luật Tố cáo năm 2011 cũng cần được cập nhật mới
để phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
Như vậy, việc chọn đề tài luận văn thạc sĩ “Xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo,
đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí

Minh” là một hướng nghiên cứu mới, có tính thực tiễn cao trong giai đoạn hiện nay
vì sẽ tập trung nghiên cứu, làm rõ các vấn đề liên quan đến công tác xử lý đơn khiếu
nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh; đối với công tác xử lý
đơn tố cáo sẽ nghiên cứu cụ thể theo quy định của Luật tố cáo mới (Luật Tố cáo
năm 2018), có đối chiếu, so sánh với Luật tố cáo cũ (Luật Tố cáo năm 2011); bên
cạnh đó có liên hệ với cơng việc thực tế của bản thân để từ đó đề ra những giải pháp
nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế (nếu có), góp phần hồn thiện và nâng cao
chất lượng trong cơng tác xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh
của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về xử lý đơn khiếu nại, đơn
tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
Đánh giá thực trạng việc thực hiện xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến
nghị, phản ánh, phân tích những tồn tại, hạn chế (nếu có).
Đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể để khắc phục những tồn tại, hạn chế
nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng trong công tác xử lý đơn khiếu nại, đơn


4
tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh, góp phần vào việc đảm bảo quyền công dân, nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước, ổn định trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế
của địa phương.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật về khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có nội dung rất phong phú
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế, quốc
phịng, an ninh...; đồng thời hình thức của khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo
quy định pháp luật cũng tương đối đa dạng: đối với khiếu nại là đơn (Điều 49 Luật
Khiếu nại năm 2011), tố cáo là đơn hoặc trình bày trực tiếp (Điều 22 Luật Tố cáo năm
2018), kiến nghị, phản ánh là văn bản, điện thoại, phiếu lấy ý kiến, thư điện tử (Điều 6

Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 và Khoản 2, Điều 2 Nghị
định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ); bên cạnh đó, vụ
việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cũng xuất hiện từ trung ương tới cơ sở, từ
cấp xã, cấp huyện cho đến cấp tỉnh. Do vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ
ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích
các quy định pháp luật trong việc xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh ở lĩnh
vực hành chính cấp tỉnh (Thanh tra tỉnh) và ở hình thức chung nhất, phổ biến nhất là
đơn, được hiểu là văn bản có nội dung được trình bày dưới một hình thức theo quy định
của pháp luật, gửi đến cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền để
khiếu nại hoặc tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh. Cơ sở pháp lý được quy định tại Luật
Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018, Luật Tiếp cơng dân năm 2013, các Nghị
định của Chính phủ, Thơng tư của Tổng Thanh tra Chính phủ có liên quan. Bên cạnh
đó, luận văn có đánh giá thực tiễn của việc áp dụng các quy định pháp luật về xử lý đơn
khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh tại thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là tại
cơ quan Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh nơi tác giả đang công tác.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa Mac -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh và xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh để làm
sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. Bên cạnh đó, luận văn vận dụng
các thành tựu, những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách


5
chuyên khảo, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong
luận văn. Cụ thể:
Chương 1 có nội dung “Những vấn đề lý luận và pháp lý về xử lý đơn khiếu
nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh”: được áp dụng phương

pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, vận dụng chủ nghĩa duy vật
biện chứng chủ nghĩa Mac -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước, với mục đích làm nổi bật được cái nhìn tồn cảnh, bao qt về khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh và cũng như các cơ sở pháp lý cụ thể trong việc xử lý
đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh.
Chương 2 có nội dung “Thực trạng xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến
nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và một số
kiến nghị hồn thiện”: được áp dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp,
thống kê, vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, với mục đích kết hợp cơ sở
lý luận, pháp lý đã nêu tại Chương 1 với thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật để
giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở khoa học pháp lý, có kết hợp, đánh giá
vào thực tiễn, cụ thể tại thành phố Hồ Chí Minh; do đó góp phần bổ sung những
luận cứ khoa học cho việc xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
Ngoài ra, những kết luận, kiến nghị trong luận văn cũng có thể góp phần vào cơng
tác nghiên cứu, tổng hợp để sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Khiếu nại
năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 và các văn bản pháp luật hiện hành về xử lý đơn
khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; qua đó sẽ dần dần hồn thiện và chặt
chẽ hơn trong cơng tác xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh nói chung và thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 02 Chương, Kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Trong đó, 02 Chương có nội dung:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về xử lý đơn khiếu nại, đơn tố
cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh.
Chƣơng 2: Thực trạng xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản
ánh của Thanh tra tỉnh - từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và một số kiến nghị
hoàn thiện.



6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI,
ĐƠN TỐ CÁO, ĐƠN KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH CỦA THANH TRA TỈNH
1.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Từ thời phong kiến xa xưa, để trị vì đất nước, các bậc vua anh minh của nước
ta đều dựa vào nhân dân và coi việc an dân là sách lược quan trọng trong quá trình
xây dựng và chấn hưng đất nước. Thực hiện sách lược này, các triều đại phong kiến
đã có nhiều việc làm nhằm hướng đến nguyện vọng của dân chúng, trong đó có việc
giải quyết các khiếu nại của người dân. Lịch sử đã ghi nhận một số vương triều
phong kiến trong giai đoạn thịnh trị đã có những cách làm khác nhau nhằm tạo điều
kiện để người dân có thể dễ dàng bày tỏ nguyện vọng của mình với các quan lại,
triều đình; cụ thể là một số nhà nước phong kiến đã ban hành luật lệ và nhiều văn
bản quy định về việc gửi đơn thư của người dân và quy định trách nhiệm của quan
lại trong việc xem xét, giải quyết các khiếu nại của người dân. Trong đó phải kể đến
bốn Bộ luật có quy mơ tương đối lớn, có nội dung phong phú và đa dạng là: Bộ luật
Hình thư thời Lý, ban hành năm 1024 (Bộ luật này hiện nay đã thất truyền); Bộ
Quốc triều Hình Luật của thời Trần ban hành năm 1341; Bộ luật Hồng Đức thời Lê
ban hành năm 1483 và Bộ luật Gia Long của thời Nguyễn ban hành năm 1815, đã
1

ghi nhiều điều, khoản quy định giải quyết khiếu nại và kiện tụng của nhân dân .
Như vậy, khiếu nại có từ xa xưa và gắn liền với sự phát triển của các nhà nước, song
do pháp luật trong thời kỳ phong kiến chưa phát triển cho nên khiếu nại thường
mang trong nó lượng thông tin về sự không công bằng hoặc việc vi phạm các chuẩn
mực đã được xã hội thừa nhận.
Ngày nay, khiếu nại là thuật ngữ pháp lý thường được sử dụng trong cuộc sống

thường nhật, trên sách, báo, văn bản cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng,
qua đó khiếu nại được hiểu theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị
cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho
rằng là không đúng đắn, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
1

Vũ Thị Phụng, “Những bộ Luật cổ Việt Nam và một số giá trị đối với đương đại”, himinh
city.gov.vn/c/document_library/get_file?uuid=468d7ba4-020d-45b4-b696-265eba595e57&groupId =13025, ngày
2

tháng 5 năm 2020.


7
chính đáng của họ và địi bồi thường thiệt hại do việc làm khơng đúng gây ra. Qua
đó, cho phép chúng ta xác định chính xác hơn bản chất khiếu nại, vì nó bao trùm
các khiếu nại phát sinh trong các lĩnh của đời sống xã hội và người khiếu nại dường
như thường ở vị thế yếu hơn người giải quyết khiếu nại. Chẳng hạn, khiếu nại của
khách hàng với người bán hàng về giá cả sản phẩm, về hàng hóa kém chất lượng;
khiếu nại của thành viên với tổ chức nào đó về quyền lợi và nghĩa của thành viên;
khiếu nại của một vận động viên thể thao với trọng tài về một tình huống thi đấu...
Trong cuộc sống ngoài thuật ngữ khiếu nại với nghĩa chung nhất như đã nêu
trên, cịn có các thuật ngữ khiếu nại về các loại khác như: khiếu nại trong lĩnh vực
tư pháp về việc bắt, giam giữ, thi hành án..., gọi tắt là khiếu nại tư pháp; khiếu nại
đối với quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyến, gọi tắt là khiếu nại hành chính... Trong các loại khiếu nại đó, khiếu nại hành
chính là phổ biến nhất và chiếm tỷ lệ lớn hơn cả, nên luận văn này chỉ tập trung
nghiên cứu, phân tích về khiếu nại hành chính, do vậy từ đây khi nói về khiếu nại
tức là nói về khiếu nại hành chính. Trên thực tế, khiếu nại hành chính là phương
thức mà thơng qua đó cơng dân hướng đến các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời là phương tiện mà nhờ nó các cơ quan nhà
nước hoặc cán bộ, cơng chức trong các cơ quan đó kiểm tra được tính pháp lý, tính
đúng đắn của các quyết định, hành vi mà mình đã thực hiện. Khiếu nại hành chính
ln chứa đựng các chứng cứ của việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích được pháp
luật quy định. Do vậy, có thể hiểu khiếu nại hành chính là hình thức bảo vệ các
quyền công dân trước các quyết định hoặc hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước.
Khi có một khiếu nại hành chính cũng đồng nghĩa với việc một cơ quan, tổ chức
hoặc cơng dân cho rằng quyền, lợi ích mà pháp luật quy định cho họ đã bị xâm hại
hoặc có thể bị xâm hại. Nội dung của các khiếu nại hành chính khơng phụ thuộc vào
các cơ quan nhà nước mà chúng gửi đến mà phụ thuộc vào chính quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.
Theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, thì khiếu nại là việc công dân, cơ
quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục pháp luật quy định, đề nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.


8
1.1.1.2. Khái niệm tố cáo
Tố cáo xuất hiện khi xã hội có phân chia giai cấp và đặc biệt được thừa nhận khi
Nhà nước ra đời. Trong mỗi thời đại, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, khi có hành vi
xâm phạm lợi ích của tập thể, của cá nhân thì mọi người đều có quyền đưa vụ việc đó
đến cơ quan đại diện cho giai cấp thống trị để yêu cầu giải quyết. Khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay
là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, bản Hiến
pháp đầu tiên được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa thơng qua ngày 09
tháng 11 năm 1946 đã ghi nhận một số quyền lợi cơ bản của cơng dân: ví dụ tại Điều 6
“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,

văn hố”, Điều 7 “Tất cả cơng dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được
tham gia chính quyền và cơng cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của
mình”,... Đến khi bản Hiến pháp thứ hai được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 11 thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm
2

1959, quyền tố cáo của công dân đã lần đầu được khẳng định cụ thể . Từ đó cho đến
nay, tại các bản Hiến pháp tiếp theo, quyền tố cáo của công dân vẫn tiếp tục được Nhà
3

nước ta thừa nhận và quy định . Tố cáo xuất hiện từ các quyền khác của công dân được
nhà nước, xã hội ghi nhận, như các quyền về kinh tế, chính trị, nhân thân… khi các
quyền này bị xâm phạm thì người phát hiện hành vi xâm phạm đó có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân hoặc
của tổ chức, cá nhân khác. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải tiếp nhận và
giải quyết tố cáo, xác định hành vi của người bị tố cáo có vi phạm pháp luật khơng,
biện pháp xử lý đối với người bị tố cáo nếu người đó vi phạm pháp luật.

Do đó, khái niệm về tố cáo có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau,
4

theo giải thích tại Từ điển tiếng Việt , tố cáo là động từ có hai nghĩa, một là báo cho
mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào
đó, hai là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án,
ngăn chặn. Cịn dưới góc độ pháp lý, tố cáo được hiểu là việc cơng dân theo trình
tự, thủ tục pháp luật quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
2

Điều 29 Hiến pháp năm 1959: Cơng dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có quyền khiếu nại và tố cáo với
bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc

khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của
nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường.
3
Điều 73 Hiến pháp năm 1980, Điều 74 Hiến pháp năm 1992, Điều 30 Hiến pháp năm 2013.
4

Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1008.


9
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, cơ quan, tổ chức.
Như vậy, đối tượng của tố cáo là người thực hiện hành vi trái đạo đức, phong
tục tập quán, quy ước của cộng đồng xã hội, vi phạm pháp luật của nhà nước, gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể, cơng dân. Mục đích của tố cáo là nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm
pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể, của
cơng dân.
Theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018, tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục
quy định của pháp luật báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực.
Cụ thể, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ
của các đối tượng: cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ; người khơng cịn là cán bộ, cơng chức, viên chức nhưng đã thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức;
người khơng cịn được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ nhưng đã thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; cơ
quan, tổ chức. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật,
trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
1.1.1.3. Khái niệm kiến nghị, phản ánh
Trong khái niệm về khiếu nại, tố cáo nêu trên đã quy định cụ thể về nguồn gốc,
bản chất của từng loại, qua đó cho thấy khiếu nại, tố cáo đều là phương thức để nhân
dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và thực hiện quyền làm chủ của của mình, qua
đó hướng tới việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp
luật được thực thi một cách nghiêm minh nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền.


10
Tuy nhiên trong thực tiễn, có những loại vụ việc phát sinh mà cơ quan quản lý hành
chính nhà nước không thể xếp cùng loại với khiếu nại hoặc tố cáo, là bởi vì tuy
chúng có phần nào tương đồng với khiếu nại, tố cáo về hình thức, nhưng về bản
chất lại có những tính chất và đặc điểm riêng, đó chính là kiến nghị, phản ánh.
Khái niệm về kiến nghị, phản ánh được quy định cụ thể lần đầu, chi tiết theo
từng loại tại Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 của Chính
phủ về việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định
hành chính, qua đó, phản ánh là việc cá nhân, tổ chức có ý kiến với cơ quan hành
chính nhà nước về những vấn đề liên quan đến quy định hành chính, bao gồm:
những vướng mắc cụ thể trong thực hiện; sự không hợp pháp, không hợp lý, không
đồng bộ, không thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và những vấn đề khác; kiến nghị là việc cá nhân,
tổ chức có phản ánh với cơ quan hành chính nhà nước theo quy định pháp luật và đề
xuất phương án xử lý hoặc có sáng kiến ban hành mới quy định hành chính liên

quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.
Sau đó, khái niệm về kiến nghị, phản ánh đã được rút gọn hơn tại Khoản 2
Điều 2 Luật Tiếp công dân năm 2013: “kiến nghị, phản ánh là việc công dân cung
cấp thơng tin, trình bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời
sống xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó”.
Do đó, từ các khái niệm Luật định nêu trên, có thể hiểu kiến nghị, phản ánh là
một phương tiện hữu ích, giúp cho người dân đưa được những nguyện vọng, ý kiến
của mình và đề xuất các giải pháp đến các cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm
quyền về các chủ trương, đường lối, chính sách, cơng tác quản lý nhà nước trong tất
cả các lĩnh vực; đồng thời cũng là một kênh quan trọng đem lại nhiều thơng tin hữu
ích cho công tác quản lý nhà nước và xã hội; qua đó, nhà quản lý có thể lắng nghe,
chia sẻ được với người dân, từ đó đem lại biện pháp xử lý, giải quyết các vấn đề
được phù hợp.
1.1.2. Đặc điểm, chủ thể khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
1.1.2.1. Đặc điểm khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
Đặc điểm của khiếu nại trước hết được thể hiện ở mục đích nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại khỏi bị xâm hại bởi những việc làm,
-


11
những quyết định, chính sách trái pháp luật của các cơ quan nhà nước và người có
thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước. Sau đó, khiếu nại nhằm đảm bảo cho các
quy định pháp luật liên quan tới các quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, cơng dân
được thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ; giúp cho hoạt động quản lý, điều hành của
các cơ quan, tổ chức nhà nước có hiệu quả, các quyết định, hành vi hành chính trái
pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ kịp thời, ngăn ngừa các vi phạm pháp
luật có thể xảy ra từ phía đội ngũ cán bộ, cơng chức, những người thực thi cơng vụ,

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Sở dĩ khiếu nại có các đặc điểm trên là do xuất phát từ việc người khiếu nại
không được sử dụng quyền lực nhà nước trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại nên họ
khơng thể tự mình khơi phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm,
do đó họ phải đề nghị cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền tiến hành giải
quyết khiếu nại của họ theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Các cơ quan nhà
nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiến hành xác minh nội dung khiếu nại theo
hai hướng, một mặt sử dụng những tài liệu, chứng cứ tiếp nhận từ người khiếu nại
cung cấp; mặt khác thu thập, xác minh thêm các thông tin, tài liệu từ những nguồn
khác (từ các cơ quan nhà nước, từ việc đi kiểm tra thực tế,...) để làm căn cứ cho việc
giải quyết khiếu nại được chính xác, khách quan, vừa đảm bảo được quyền, lợi ích
hợp pháp của người khiếu nại, vừa bảo vệ được
Như vậy, việc khiếu nại của công dân xuất hiện trong mối liên hệ với quá
trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Q trình cơng dân thực hiện việc
khiếu nại là q trình cơng dân cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền các
tài liệu, chứng cứ về sự vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân từ phía cơ
quan và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Đặc điểm của tố cáo là việc phát hiện ra những vi phạm, những hành vi trái
pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào thì đều có quyền thơng báo cho
cơ quan, người có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm đó để có biện pháp xử lý,
ngăn ngừa và khắc phục hậu quả xảy ra. Ngồi ra, cịn góp phần xây dựng tổ chức
đảng, bộ máy chính quyền của các cấp trong sạch, vững mạnh, góp phần ngăn ngừa
và đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Tố cáo cũng cho
thấy được việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của các cơ
quan nhà nước, của cán bộ, cơng chức nhà nước, do đó phần nào hạn chế và đẩy lùi
nguy cơ sai phạm, lạm quyền của cán bộ, công chức, phát huy sức mạnh của toàn
-


12

dân trong đấu tranh phịng chống tội phạm; qua đó giúp cho các cơ quan kiểm tra,
thanh tra, điều tra của Nhà nước nhanh chóng phát hiện sai phạm, kịp thời ngăn
chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, giảm được thiệt hại có thể xảy ra.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy trách nhiệm của Nhà nước ta trong việc
quản lý đất nước, không chỉ là khắc phục những hành vi gây thiệt hại mà trước đó
cịn phải phịng ngừa và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm có thể xảy ra,
tránh những thiệt hại cho xã hội. Việc tố cáo của công dân cũng theo đó mà địi hỏi
Nhà nước phải có biện pháp giáo dục, trừng trị kịp thời, thậm chí là áp dụng các
biện pháp nghiêm khắc để loại trừ những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
Như vậy, khi thực hiện việc tố cáo là công dân đã thực hiện quyền làm chủ
của mình trong việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà
nước ngày càng phát huy hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hay nói
rõ hơn thực hiện việc tố cáo chính là việc tỏ rõ trách nhiệm của công dân không chỉ
trong việc giám sát hoạt động quản lý của Nhà nước để xây dựng bộ máy nhà nước
ngày càng trong sạch, vững mạnh mà còn đối với cả việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước để đây thực sự là những “người đại biểu của nhân dân”, góp
phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền của
một bộ phận cán bộ công chức nhà nước. Tuy nhiên, công dân thực hiện việc tố cáo
thường bị đặt vào tình thế bất lợi, thường bị hành hung, đe dọa, ức hiếp, trả thù.
Chính bởi vậy mà trong những năm qua, Luật Tố cáo đã nhiều lần được sửa đổi, bổ
5

sung , quy định đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tố
cáo, người bị tố cáo và người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, tạo điều kiện thuận
lợi để cơng dân thực hiện quyền tố cáo của mình.
- Đặc điểm của kiến nghị, phản ánh là việc tổ chức, cá nhân cung cấp thơng
tin, có ý kiến, đề xuất nguyện vọng, giải pháp với cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về chính sách, pháp luật và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối tượng của kiến nghị, phản

ánh rất rộng, không chỉ các quyết định, hành vi cụ thể mà cả nội dung các văn bản
chính sách, pháp luật nói chung, các hiện tượng tiêu cực,… Kiến nghị, phản ánh có
hình thức đa dạng, phong phú nhất, trong đó có thể là việc đơn thuần chỉ nêu thông
5Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005; Luật Tố cáo năm 2011; Luật Tố cáo
năm 2018.


13
tin trên các phương tiện thông tin truyền thông hoặc chủ động gửi đơn kiến nghị,
phản ánh đến bất kỳ chủ thể có thẩm quyền nào bằng nhiều cách khác nhau.
Việc xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị tạo ra cơ chế quan trọng để người
dân có thể kiểm soát trực tiếp quyền lực của cơ quan nhà nước, đặc biệt là việc ban
hành các văn bản pháp luật; giúp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các văn
bản, chính sách pháp luật. Bên cạnh đó, kiến nghị, phản ánh cịn có mục đích giúp
phát hiện hành vi tiêu cực, chấn chính việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua các đề xuất giải pháp của cá nhân,
tổ chức. Từ đó, tạo ra cách thức đơn giản, thuận tiện nhất để khuyến khích cá nhân,
tổ chức cung cấp thơng tin đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đảm bảo thực hiện
quyền con người, quyền công dân, phát huy dân chủ.
1.1.2.2. Chủ thể khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
Khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 là việc công dân, cơ quan,
tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật
cán bộ, cơng chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, chủ thể khiếu nại là công dân, cơ
quan, tổ chức, cán bộ, công chức và cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam
(trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác, chủ thể khiếu nại khơng áp dụng cho người khơng có quốc tịch);

trong đó cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân. Một điểm cần lưu ý là quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khiếu nại phải liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể
khiếu nại. Bên cạnh đó, Luật Khiếu nại năm 2011 còn quy định việc ủy quyền khiếu nại
cho người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trong trường hợp vì lý do khách
quan mà chủ thể khơng thể tự mình khiếu nại (theo Bộ luật Dân sự năm 2015, người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải là người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị
mất năng lực hành vi dân sự do mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi hoặc không bị hạn chế năng lực hành vi do nghiện ma
túy hoặc các chất kích thích khác).
Tố cáo theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018 là việc cá nhân báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ


14
quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, chủ thể tố cáo là
cá nhân, không phải là cơ quan, tổ chức; tuy Luật Tố cáo năm 2018 không đề cập cụ
thể về việc tố cáo của cá nhân nước ngoài, của cá nhân ở nước ngoài, nhưng Nghị định
số 31/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo, có nội dung tố cáo có yếu tố nước
ngoài (người tố cáo ở nước ngoài hoặc là người nước ngoài) là một loại vụ việc phức
tạp; nên chủ thể tố cáo được hiểu là công dân Việt Nam, người nước ngồi, người
khơng có quốc tịch. Khác với chủ thể khiếu nại nêu trên, hành vi vi phạm pháp luật mà
chủ thể tố cáo có thể liên quan hoặc không liên quan trực tiếp đến người tố cáo.
Tuy Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2018 đều không quy định chủ
thể tố cáo không được ủy quyền cho người khác để thực hiện việc tố cáo, nhưng theo
quy định của Luật Tố cáo thì người tố cáo phải có nghĩa vụ trình bày trung thực về nội
dung tố cáo và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo. Do đó, có thể

hiểu người tố cáo không được ủy quyền cho người khác khi thực hiện việc tố cáo của
mình do Luật đã ràng buộc trách nhiệm cụ thể của cá nhân người tố cáo; cũng như giải
thích được việc Luật quy định chủ thể tố cáo chỉ là cá nhân, không phải là tổ chức. Bên
cạnh đó, nếu quy định chủ thể tố cáo là cơ quan, tổ chức thì cơ quan chức năng sẽ
khơng dự liệu được trường hợp, tình huống có một số cá nhân sẽ lợi dụng dưới danh
nghĩa của tổ chức để gửi đơn tố cáo, tố cáo tràn lan, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, ảnh
hưởng đến danh dự, uy tín của người bị tố cáo, gây náo loạn trật tự xã hội.
Chủ thể kiến nghị, phản ánh là cá nhân, tổ chức. Theo quy định tại Nghị định số
20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ về việc tiếp nhận, xử lý
phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính, thì đối với cá nhân là
cơng dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài, đối với
tổ chức là doanh nghiệp, hội, hiệp hội doanh nghiệp, cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp và các tổ chức khác được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Như vậy, trong các chủ thể khiếu nại, chủ thể tố cáo và chủ thể kiến nghị,
phản ánh; thì chủ thể kiến nghị, phản ánh là đa dạng và phong phú nhất, bao trùm
toàn bộ các loại chủ thể theo quy định pháp luật, không bị hạn chế như chủ thể
khiếu nại và chủ thể tố cáo.
1.1.1.3. Phân biệt khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh
Từ những khái niệm, đặc điểm và chủ thể nêu trên, nhận thấy khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị, phản ánh đều là những phương thức thực hiện quyền tự do, dân


15
chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây cũng
là những phương thức hữu hiệu để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của
mình và thực hiện quyền làm chủ của mình. Khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản
ánh đều hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm
pháp luật được thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng nhà nước pháp quyền.

Tuy nhiên, ngoài những điểm chung cơ bản, khiếu nại, tố cáo và kiến nghị,
phản ánh vẫn là các khái niệm khác nhau nhưng thường được nhắc đến cùng nhau,
đặc biệt là khiếu nại và tố cáo. Trên thực tế, rất nhiều đơn gửi đến các cơ quan có
thẩm quyền đều chứa đựng nhiều nội dung bao gồm cả về khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị, phản ánh. Nguyên nhân là do công dân chưa phân biệt rõ được sự khác nhau,
đặc điểm của từng loại theo quy định; dẫn đến tình trạng còn lúng túng, chậm trễ
của các cơ quan chức năng trong quá trình tiếp nhận xử lý, giải quyết đơn. Do đó,
thực trạng này địi hỏi cần phải có sự phân biệt rõ ràng, cụ thể giữa khiếu nại, tố cáo
và kiến nghị, phản ánh vì nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp cá nhân, tổ
chức thực hiện việc khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh của mình đúng trình tự,
thủ tục theo Luật định, xác định đúng nơi cần gửi để gửi đơn khiếu nại, đơn tố cáo,
đơn kiến nghị, phản ánh, tránh lãng phí thời gian, cơng sức, tiền bạc khi thực hiện
việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh không đúng thẩm quyền, thiếu căn cứ;
giúp cho cơ quan chức năng tiếp nhận đơn có cách thức xử lý phù hợp theo từng
loại đơn khiếu nại, đơn tố cáo và đơn kiến nghị, phản ánh, qua đó đảm bảo việc giải
quyết đơn được nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tránh được nhầm lẫn, sai sót.
Khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản ánh khác nhau ở những điểm cơ bản sau:
- Về đặc điểm:
Khiếu nại là việc người khiếu nại đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định
kỷ luật cán bộ, cơng chức có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khiếu nại.
Tố cáo là cá nhân báo cho cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo
biết về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi
vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.


16
Kiến nghị, phản ánh có đặc điểm được mở rộng hơn là việc cá nhân, tổ chức
trình bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, người có thẩm quyền

về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, cơng tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Về mục đích:
Mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp
có liên quan trực tiếp đến người khiếu nại.
Mục đích của tố cáo không chỉ là để bảo vệ quyền và lợi ích của người tố cáo
mà cịn để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và của tập thể, của cá nhân khác và
nhằm trừng trị kịp thời, áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để loại trừ những hành
vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
Mục đích của kiến nghị, phản ánh trước hết là giúp cơ quan nhà nước hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các chính sách, quy định pháp luật. Qua đó, cịn
giúp nhà quản lý phát hiện hành vi tiêu cực, chẩn chính việc thực hiện nhiệm vụ,
cơng vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thơng qua các đề xuất giải
pháp của cá nhân, tổ chức có kiến nghị, phản ánh.
- Về chủ thể:
Chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam (trừ trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác, chủ thể
khiếu nại không áp dụng cho người khơng có quốc tịch); đồng thời các chủ thể
khiếu nại này phải bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Chủ thể khiếu nại được ủy quyền cho
người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại.
Chủ thể tố cáo bị hạn chế hơn chủ thể khiếu nại, chủ thể tố cáo chỉ có thể là
cá nhân, khơng phải là cơ quan, tổ chức. Cá nhân thực hiện việc tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; các hành vi vi phạm pháp luật này có
thể tác động trực tiếp hoặc không tác động đến người tố cáo. Chủ thể tố cáo không
được ủy quyền cho người khác mà phải tự mình thực hiện việc tố cáo do Luật Tố
cáo đã ràng buộc trách nhiệm cụ thể của cá nhân người tố cáo.
Chủ thể kiến nghị, phản ánh không bị hạn chế chủ thể như khiếu nại, tố cáo,

bao gồm các chủ thể là cá nhân, tổ chức. Trong đó, theo quy định, cá nhân là cơng


17
dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài; tổ chức là
doanh nghiệp, hội, hiệp hội doanh nghiệp, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và
các tổ chức khác được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật.
- Về đối tượng:
Đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc
quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức. Những quyết định và hành vi này phải tác
động, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Đối tượng của tố cáo rộng hơn khiếu nại, là các hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, của mình và
của người khác. Hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo có thể tác động trực
tiếp hoặc khơng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người tố cáo.
Đối tượng của kiến nghị, phản ánh được mở rộng hơn khiếu nại, tố cáo rất nhiều,
có thể liên quan hoặc khơng liên quan đến cá nhân, tổ chức kiến nghị, phản ánh và
hướng tới việc kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân, là các chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội.

Tóm lại, việc phân biệt các khái niệm khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản
ánh sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng cơ chế, thiết chế thực hiện quyền
con người, quyền công dân và cũng là cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm, từ đó xác
định thẩm quyền và xây dựng trình tự xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo và đơn kiến
nghị, phản ánh ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tiết kiệm và hợp lý hơn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh của Thanh tra tỉnh
1.2.1. Khái niệm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh
của Thanh tra tỉnh

Trước khi phân tích, làm rõ về khái niệm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn
kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh, cần xem xét, tìm hiểu các quy định về cơ cấu tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Thanh tra tỉnh là như thế nào trong bộ máy cơ
quan hành chính nhà nước. Theo Điều 20 Luật Thanh tra năm 2010, Điều 12 Nghị định
số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, thì Thanh tra tỉnh là cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân
cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và


18
phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra tỉnh có Chánh
Thanh tra, các Phó Chánh Thanh tra, các Thanh tra viên và công chức khác. Chánh
Thanh tra tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ. Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ
đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo về công
tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của
Thanh tra tỉnh có các phịng nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Do đó, theo quy định nêu trên, Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn ngang
Sở trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Thanh tra tỉnh chỉ có các phịng nghiệp
vụ, khơng có đơn vị trực thuộc. Việc giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo là một
trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Thanh tra tỉnh, nhằm mục đích
tham mưu, giúp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nói chung và cơng tác
giải quyết nói riêng. Tuy nhiên, trước khi Thanh tra tỉnh tham mưu cho Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố
cáo, đơn kiến nghị, phản ánh thì phải thực hiện cơng đoạn bắt buộc rất quan trọng
đó là xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
Về khái niệm xử lý đơn đã được giải thích, quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều

4 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Tổng Thanh tra
Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản
ánh, theo đó: “xử lý đơn là việc cơ quan nhà nước, tổ chức, người có thẩm quyền
khi nhận được đơn của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải căn cứ và đối chiếu với quy
định của pháp luật để thụ lý giải quyết nếu thuộc thẩm quyền của mình hoặc hướng
dẫn cơng dân hoặc chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền
giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, với khái niệm chung về xử lý đơn, tùy tính chất khác nhau của từng
loại đơn phải xử lý, kết hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
Thanh tra tỉnh và các quy định pháp luật có liên quan, có thể hiểu cơ bản, bao quát
nhất về khái niệm xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh của
Thanh tra tỉnh như sau:
Khái niệm xử lý đơn khiếu nại của Thanh tra tỉnh: là việc Thanh tra tỉnh khi
nhận được đơn khiếu nại; nếu đơn đủ điều kiện thụ lý giải quyết và thuộc thẩm
-


19
quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh thì phải đề
xuất thụ lý giải quyết; nếu đơn không đủ điều kiện thụ lý giải quyết và thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh thì Thanh tra
tỉnh đề xuất có văn bản trả lời, hướng dẫn cho người khiếu nại được biết rõ lý do
không được thụ lý; nếu đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh thì Thanh tra tỉnh cần hướng dẫn cho
người khiếu nại gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết.
Việc xử lý đơn khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật khiếu
nại.

6


- Khái niệm xử lý đơn tố cáo của Thanh tra tỉnh: là việc Thanh tra tỉnh khi
nhận được đơn tố cáo; nếu đơn đủ điều kiện thụ lý giải quyết và thuộc thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh
tra tỉnh thì phải đề xuất ra quyết định thụ lý tố cáo; nếu đơn không đủ điều kiện thụ
lý giải quyết thì phải đề xuất khơng thụ lý và có thơng báo cho người tố cáo biết lý
do không thụ lý tố cáo; nếu đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh thì
Thanh tra tỉnh phải chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải
quyết và thông báo cho người tố cáo được biết; nếu đơn không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh
Thanh tra tỉnh và được gửi đồng thời cho nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó
có cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết hoặc trường hợp đã hướng
dẫn nhưng người tố cáo vẫn gửi đơn thì Thanh tra tỉnh đề xuất
khơng xử lý đơn. Việc xử lý đơn tố cáo phải được thực hiện theo quy định của pháp
7

luật tố cáo .
- Khái niệm xử lý đơn kiến nghị, phản ánh của Thanh tra tỉnh: là việc Thanh
tra tỉnh khi nhận được đơn kiến nghị, phản ánh; nếu đơn thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh
thì Thanh tra tỉnh đề xuất thụ lý giải quyết; nếu đơn không thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh Thanh tra
tỉnh, thì Thanh tra tỉnh chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm
6

Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 quy định chi tiết một số điều của
Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Tổng Thanh tra Chính phủ.
7

Luật Tố cáo năm 2018; Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật Tố cáo; Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của
Tổng Thanh tra Chính phủ.


×