Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Khuynh hướng chống DARWIN cuối thế kỷ XX ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.89 KB, 7 trang )


Khuynh hướng chống
DARWIN cuối thế kỷ XX



Thuyết Lamarck cơ giới
Học thuyết này tuyệt đối hoá vai trò của
ngoại cảnh, xem sự di truyền các biến đổi
cá thể do sự tác động trực tiếp của ngoại
cảnh là động lực của quá trình tiến hoá.
Thuyết cân bằng của H. Xpenxơ (1864)
cho rằng cơ thể là một tổ hợp các cơ
quan thường xuyên có thể cân bằng động
với môi trường và tiến hoá là sự liên tục
thích nghi của những quan hệ nội tạng cơ
thể với ngoại cảnh. Xpenxơ phân biệt hai
hình thức cân bằng: cân bằng trực tiếp
(cơ thể thích ứng bằng những biến đổi
phù hợp với ngoại cảnh và ngoại cảnh
vừa là nguyên nhân phá vỡ cân bằng vừa
là nguyên nhân thiết lập thế cân bằng
mới) và cân bằng gián tiếp là sự sống sót
những dạng thích nghi nhất, sự tác động
của chọn lọc tự nhiên. Xpenxơ cho rằng
khả năng thích nghi với ngoại cảnh thay
đổi là phương thức cơ bản của sự tiến
hoá và điều kiện sống càng phức tạp thì
vai trò của chọn lọc tự nhiên càng mờ
nhạt.
Thuyết cơ sinh lý của Negheli (1884) cho


rằng chất di truyền là cơ sở di truyền các
dấu hiệu và chất nuôi dưỡng có chức
năng nuôi tế bào. Ngoại cảnh ảnh hưởng
tới chất nuôi dưỡng sẽ gây ra thường
biến không di truyền. Tác dụng kéo dài
của ngoại cảnh qua nhiều thế hệ có thể
làm thay đổi chất di truyền và biến đổi đó
có thể di truyền cho thế hệ sau. Theo
Negheli chất di truyền là một hệ thống
phân tử rất nhỏ, phần lớn ở dạng tinh thể,
gọi Mixen. Sự phức tạp hoá cấu trúc của
chất di truyền là cơ sở của sự phức tạp
hoá tổ chức cơ thể trong quá trình tiến
hoá.
Thuyết lực sinh trưởng của Cope E.
(1887) quan niệm sự tiến hoá cũng giống
như sự sinh trưởng của một cơ thể do tác
động của "Lực sinh trưởng". Lực này
chịu sự tác động trực tiếp của các điều
kiện lý hoá trong môi trường hoặc chịu
tác động gián tiếp của ngoại cảnh thông
qua sự tăng cường hay suy giảm hoạt
động của các cơ quan. Các biến đổi cá
thể đều tương ứng với ngoại cảnh, có
tính thích nghi, do đó không cần vai trò
của chọn lọc tự nhiên.
Thuyết Lamarck tâm lý
Xem các nhân tố tâm lý nội tại cơ thể là
động lực tiến hoá của động vật và thực
vật. Các tác giả Lamarck tâm lý cho rằng

ý thức đó có ở mọi cơ thể sống, sự tiến
hoá theo hướng tăng cường dần vai trò
của ý thức, từ ý thức thô sơ dẫn tới
những sinh vật cao có trí tuệ. Sự cố gắng
của ý thức quy định mọi phản ứng thích
nghi với ngoại cảnh. Họ thừa nhận thực
vật cũng có ý thức. Học thuyết này mang
tính chất duy tâm rõ rệt không có cơ sở
khoa học nên đã nhanh chóng bị loại bỏ.
Thuyết Darwin mới
a/ Giả thuyết "chất di truyền độc lập" của
A. Weismann (1905) đưa ra khái niệm về
các đặc tính tập nhiễm không di truyền.
Việc đưa giả thuyết này vào nhóm các
nhân tố cơ bản trong lập luận của Darwin
đã biến đổi học thuyết Darwin thành một
học thuyết mới đối lập hoàn toàn với
thuyết Lamarck, được gọi là thuyết
Darwin mới. Vào thời Weismann, tính
không di truyền của các tính trạng tập
nhiễm được xem là một vấn đề viển
vông, vì không có cơ sở thực nghiệm
vững chắc. Song, ngày nay điều đó lại là
hiển nhiên dưới ánh sáng của sự hiểu biết
về các cơ chế di truyền. Từ đầu thế kỷ
XX, thuyết Lamarck đã mất dần vị trí của
mình trong kho tàng lý luận về sự tiến
hoá của thế giới sinh vật.
b/ Thuyết đột biến của H. De Vries
(1901) cho rằng loài mới được hình

thành qua các đột biến. Các biến đổi di

×