Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ứng dụng nền tảng Web 2.0 trong dạy học ngữ văn theo mô hình lớp học đảo ngược đáp ứng yêu cầu chương trình ngữ văn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.74 KB, 10 trang )

ỨNG DỤNG NỀN TẢNG WEB 2.0 TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN
THEO MƠ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC ĐÁP ỨNG U CẦU
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN MỚI
Phạm Thị Thanh Phượng1
Nguyễn Đức Can2
Lã Phương Thúy3
Trần Dỗn Vinh4
Tóm tắt
Mơ hình lớp học đảo ngược mới ra đời ở Mỹ khoảng hơn 10 năm nay, được áp dụng
rộng rãi trong các trường học nhiều nước trên thế giới, đã và đang được quan tâm,
thử nghiệm ở Việt Nam những năm gần đây. Đó là sự “đảo ngược” so với lớp học
truyền thống về tiến trình, mục tiêu, cách thức dạy học, vai trò của người dạy và
người học với một dụng ý và chiến lược sư phạm khoa học, hiện đại. Với sự phát
triển của công nghệ thông tin, việc ứng dụng nền tảng web 2.0 để xây dựng lớp học
trực tuyến đã hỗ trợ và phát huy rất nhiều ưu điểm vượt trội của lớp học đảo ngược.
Dựa trên cơ sở lí luận về mơ hình lớp học đảo ngược, nền tảng web 2.0 và các yêu
cầu của chương trình Ngữ văn mới, bài viết này muốn đề xuất một quy trình dạy học
Ngữ văn theo mơ hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0, từ đó
nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn đáp ứng yêu cầu của chương trình Ngữ văn
mới trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0.
Từ khóa: Lớp học đảo ngược; web 2.0; dạy học Ngữ văn; chương trình Ngữ văn mới;
cơng nghệ thông tin.

1. Đặt vấn đề
Cùng với bước chuyển của thế giới sang cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền giáo
dục của các quốc gia cũng bước vào một giai đoạn mới gọi là giáo dục 4.0. Đó là nền giáo dục
với những đặc trưng cơ bản là mở, học tập suốt đời, tương tác, cá thể hóa, đào tạo những con
người cho hội nhập, canh tân và sáng tạo. Với việc đổi mới căn bản, toàn diện, nền giáo dục
Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập với xu hướng phát triển của giáo dục thế giới. Sự
ban hành chính thức của Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn vào 12/2018 (cùng
với Chương trình tổng thể và chương trình các mơn học khác) là một chuyển động tích cực


trong bước tiến phát triển đó. Trong bài nghiên cứu này, dựa trên cơ sở lí luận về mơ hình
Khoa Cơng nghệ Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục, ĐHQGHN; ĐT: 0904660889
Email:

1, 2, 3, 4


296

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

lớp học đảo ngược (MHLHĐN), nền tảng web 2.0 và các yêu cầu của chương trình Ngữ văn
mới, chúng tơi muốn đề xuất một quy trình dạy học (DH) Ngữ văn theo MHLHĐN với sự
hỗ trợ của nền tảng web 2.0, từ đó nâng cao chất lượng DH Ngữ văn đáp ứng yêu cầu của
chương trình Ngữ văn mới trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0.
2. Một số vấn đề lí luận
2.1. Mơ hình lớp học đảo ngược

LHĐN (flipped classroom/ learning) là một mô hình DH mới ra đời ở Mỹ khoảng hơn
10 năm nay, được áp dụng rộng rãi trong các trường học nhiều nước trên thế giới. Năm 2000,
khái niệm về MHLHĐN được đề xuất bởi Lage và các cộng sự (với thuật ngữ “the inverted
classroom”). Theo đó, LHĐN được diễn giải đơn giản là “các công việc thực hiện ở trong lớp
học truyền thống (LHTT) thì bây giờ sẽ thực hiện ở ngoài lớp học và ngược lại” [3, tr.32]. Tuy
chưa đại diện một cách đầy đủ cho những gì các nhà nghiên cứu đang xây dựng về LHĐN,
bởi định nghĩa này chỉ đơn giản là việc sắp xếp lại các hoạt động ở trên lớp và ở nhà, nhưng
nó đã nói đến vấn đề cơ bản của khái niệm: đó là sự đảo ngược cách tổ chức dạy học theo
truyền thống. “Sự “đảo ngược” ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và chiến lược
sư phạm thể hiện ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu DH và các hoạt động DH khác với
cách truyền thống trước đây của người dạy và người học” [4, tr.2].
Có thể mơ tả cụ thể hơn sự khác biệt về hoạt động DH giữa LHTT và LHĐN như sau:

Theo MHLHĐN, giờ học ở lớp học sinh (HS) sẽ dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng
cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu thơng qua việc xem các bài giảng ở nhà qua mạng. HS sẽ
chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết hơn, các em có thể tiếp cận bài giảng bất
kỳ lúc nào, có thể dừng bài giảng lại, ghi chú và xem lại nếu cần. Công nghệ E-learning giúp
HS hiểu kỹ hơn về lý thuyết từ đó sẵn sàng tham gia vào các buổi học nhóm, bài tập nâng
cao tại giờ học của lớp.
Thang đo tư duy Bloom (2001) là cơ sở khoa học của phương pháp sử dụng mơ hình
lớp học đảo ngược. Theo thang đo này, “nhớ, hiểu” lý thuyết là những hoạt động đòi hỏi mức
tư duy thấp nhất. Do đó, HS có thể tự xử lý một mình tại nhà, cịn việc áp dụng, phân tích và
sáng tạo dựa trên kiến thức đã có là hoạt động địi hỏi mức tư duy đào sâu hơn và cần được
thực hiện tại lớp, khi có thầy cơ và bạn bè cùng thảo luận, chia sẻ, hỗ trợ.
Như vậy, với việc sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) để hỗ trợ giảng dạy nhằm
thúc đẩy q trình học tập ở bên ngồi lớp học, một mặt MHLHĐN phát triển năng lực
tự học của HS, mặt khác nó tạo cơ hội nhiều hơn cho các hoạt động thảo luận, tương tác,
hỗ trợ trên lớp giữa GV-HS, HS-HS, từ đó dịch chuyển nhiệm vụ học tập sang các bậc cao
theo thang đo Bloom. Bên cạnh đó, do mơi trường học tập linh hoạt, mang tính tương tác
cao, nên mơ hình này tạo cơ hội cho việc cá nhân hóa q trình học tập (về khả năng, thời
gian, thái độ, hành vi và sở thích học tập của mỗi cá nhân người học), từ đó tạo ra mơi
trường học thực (deep learning), học có ý nghĩa (meaningful learning), chủ động, tích cực
hơn cho HS.


Phần 2: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG GIÁO DỤC

297

2.2. Nền tảng web 2.0

Theo Wikipedia [5], trong các buổi tọa đàm và thuyết trình về cơng nghệ web, cụm
từ Web 2.0 được nói tới như là một xu hướng trong thiết kế và phát triển web- thế hệ 2 của

chuẩn web và các dịch vụ lưu trữ mà mục đích là nhắm tới những thuận tiện trong việc chia
sẻ, hợp tác và sáng tạo giữa các người dùng. Nền tảng web 2.0 tạo ra bước ngoặt mới so với
nền tảng web 1.0 ở sự linh hoạt và lấy người dùng làm trung tâm, vì nó được thiết kế và phát
triển để tạo điều kiện cho cộng đồng mạng được chia sẻ, đóng góp, chỉnh sửa thơng tin; tăng
khả năng tương tác và hợp tác trên World Wide Web chứ không dừng lại ở việc chỉ duyệt
và xem như thế hệ web 1.0.
Năm 2005, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành O’Reilly Media – Tim O’Reilly đã đúc kết
bảy đặc tính của web 2.0 như sau: Web có vai trị nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng; Tập
hợp trí tuệ cộng đồng; Dữ liệu có vai trị then chốt; Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch
vụ web và được cập nhật không ngừng; Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng; Phần
mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị; Giao diện ứng dụng phong phú.
Trong bối cảnh thời đại công nghiệp 4.0, web 2.0 không chỉ thuần túy giữ vai trị là
cơng cụ CNTT mà cịn tạo ra một khuynh hướng DH: DH trực tuyến, DH kết nối đa phương
tiện,… Với sự tương tác cao, DH trên nền tảng web 2.0 cho phép GV và HS chia sẻ ý tưởng
và hợp tác theo những cách sáng tạo. Điều này tạo cơ sở thuận lợi cho người học phát huy
tính chủ động, tích cực và lựa chọn cho riêng mình một “khơng gian học tập mở” với nhiều
tính năng phong phú.
2.3. Những yêu cầu của chương trình Ngữ văn mới

Ngày 26/12/2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức ban hành “Chương trình giáo
dục phổ thơng mơn Ngữ văn” [2]. Chương trình Ngữ văn mới này được biên soạn theo yêu
cầu “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo”, đáp ứng yêu cầu hình thành và phát
triển cho HS những phẩm chất và năng lực cần thiết của người cơng dân trong thời đại tồn
cầu hố và cách mạng cơng nghiệp 4.0 như Chương trình tổng thể [1] đã đặt ra. Theo đó,
ngồi việc giúp HS phát triển hai năng lực đặc thù của môn học là năng lực ngôn ngữ và
văn học, môn Ngữ văn phải góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung: năng lực tự
chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Chính
vì thế, chương trình Ngữ văn mới đã được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không
quy định chi tiết về nội dung DH mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói
và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một

số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc
đối với học sinh toàn quốc. Điều này tạo điều kiện cho giáo viên chủ động, linh hoạt xây
dựng và tổ chức các bài học theo định hướng tích hợp, phân hóa đối tượng và tích cực hóa
hoạt động cho HS.
Về phương pháp giáo dục, với định hướng chung là “dạy học tích hợp và phân hóa;
đa dạng hố các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học; phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh”
[2, tr.79]; chương trình Ngữ văn mới đã chỉ ra những yêu cầu cụ thể trong việc tổ chức DH


298

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

Ngữ văn, nhấn mạnh tới hoạt động trải nghiệm, phát triển tư duy bằng nhiều hình thức
trong và ngồi lớp học, hoạt động tự học, tự nghiên cứu, thảo luận nhằm phát triển bốn kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết.
Về đánh giá kết quả giáo dục, chương trình Ngữ văn mới hướng tới mục tiêu “nhằm
cung cấp thơng tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm
chất, năng lực và những tiến bộ của học sinh trong suốt q trình học tập mơn học, để hướng
dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình,
bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục” [2,tr.85].
Như vậy, phân tích chương trình Ngữ văn mới trên các mặt mục tiêu, nội dung, phương
pháp, kiểm tra - đánh giá, có thể thấy yêu cầu bao trùm lên tất cả các khâu của quá trình
DH Ngữ văn là tập trung vào việc hình thành và phát triển năng lực (chung và đặc thù) cho
HS, với định hướng DH phân hóa, cá nhân hóa, tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Với
những ưu điểm đã phân tích ở trên, việc áp dụng MHLHĐN với sự hỗ trợ của nền tảng web
2.0 vào DH Ngữ văn là một hướng đi đúng đắn, khả quan đáp ứng các yêu cầu của chương
trình Ngữ văn mới.
3. Tổ chức dạy học Ngữ văn theo mơ hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của nền tảng web 2.0

MHLHĐN mà chúng tôi xây dựng sẽ bao gồm hai phần chính: các hoạt động học tập
trực tuyến bên ngồi lớp học và các hoạt động học tập tương tác trực tiếp trên lớp. Vì thế
trong phần này chúng tơi sẽ đề cập hai nội dung chính: thiết kế lớp học trực tuyến và thiết
kế quy trình DH.
3.1. Thiết kế lớp học trực tuyến

Hiện nay có rất nhiều phần mềm ứng dụng chạy trên nền tảng web 2.0 có thể giúp GV
thiết kế các lớp học trực tuyến (Moodle, Edmodo,…). Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này,
chúng tôi giới thiệu ứng dụng Google Classroom để thiết kế bài học theo MHLHĐN. Đây
là cơng cụ tích hợp các dịch vụ của Google (Gmail, Google Drive, Google Docs), hồn tồn
miễn phí, rất tiện ích, hiệu quả để tạo và quản lí các lớp học trực tuyến.
Về cơ bản, Google Classroom giúp tổ chức một lớp học thông qua sự hỗ trợ của 3 tính
năng quan trọng: Giao tiếp, Giao bài tập và Lưu trữ. Nó cho phép giáo viên (GV) tạo lớp học,
mời học sinh (HS) tham gia; cung cấp các tài liệu học tập; xây dựng lịch học, tạo thông báo,
câu hỏi, bài tập cho HS; kiểm tra tiến độ hoàn thành bài tập của HS, chấm bài, phản hồi về
bài làm của HS. Đối với người học, lớp học trực tuyến sẽ tạo thông báo nhắc nhở về thời hạn
nộp bài, giúp HS tự học mọi lúc mọi nơi. Các tài liệu, bài kiểm tra đã làm đều được lưu lại
giúp HS tra cứu khi cần. Với Google Classroom, việc trao đổi bài học giữa GV với HS và thảo
luận giữa các HS trở nên tiện lợi, nhanh gọn hơn. Ứng dụng này đã mở ra một phương pháp
học tập mới cho HS ngay trên các thiết bị di động; thậm chí phù hợp với cả những người gặp
khó khăn trong việc trực tiếp đến trường.
Trước hết, GV cần tạo một lớp học trực tuyến bằng cách truy cập vào website https://
classroom.google.com và đăng nhập bằng tài khoảng Gmail, nhấp chuột vào dấu “+” ở góc


Phần 2: ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ TRONG GIÁO DỤC

299

phải phía trên, chọn “Tạo lớp học”. Sau đó mời HS tham gia lớp học bằng cách gửi mã lớp

học (bên trái phía trên giao diện chính của lớp học) cho HS.

Hình 1. Giao diện chính của lớp học trực tuyến trên Google Classroom.
Trong mỗi lớp học, chúng tôi thiết kế 5 nội dung chính sau (đây cũng là 5 nội dung học
tập mà HS sẽ trải qua trong quá trình tự học online trước khi đến lớp):
3.1.1. Hướng dẫn nhiệm vụ học tập

Đây là những chỉ dẫn về trình tự, cách thức thực hiện, mục tiêu cần đạt trong mỗi một
nhiệm vụ học tập. Thơng thường HS có 4 nhiệm vụ bắt buộc sau trước khi đến lớp: nghiên
cứu bài học trong SGK, xem video bài giảng, làm bài kiểm tra trắc nghiệm (KTTN) và đưa
ra ý kiến thắc mắc, trao đổi trên chủ đề “Thảo luận”.
3.1.2. Video bài giảng

Đây là công cụ quan trọng nhất mà GV cần đầu tư thiết kế để HS tự học tại nhà. Để
tạo những video chất lượng, đảm bảo tiêu chí giáo dục - thẩm mĩ, chúng tôi đã thiết kế dựa
trên các tiêu chí sau:
- Về dung lượng: tối đa là 10 phút, đủ để duy trì sự tập trung, cuốn hút với HS.
- Về nội dung: là những kiến thức cơ bản, cốt lõi nhất của bài học sao cho khi xem xong
bài giảng, học sinh có thể giải quyết được ít nhất 70% các nhiệm vụ nêu ra trong phiếu học
tập. Theo lí thuyết về LHĐN, HS sẽ học trước ở nhà những kiến thức bậc thấp theo thang
đo Bloom (ở mức độ nhớ, hiểu, vận dụng thấp). Vì vậy, trước khi thiết kế video (cũng như
BT trắc nghiệm), GV cần xây dựng được một bảng ma trận mục tiêu theo thang đo bậc nhận
thức của Bloom, từ đó có cơ sở để lựa chọn các nội dung sẽ xây dựng trong video bài giảng.
- Về hình thức: là một bài giảng đa phương tiện để lôi cuốn, hấp dẫn người học. Muốn
thế phải có sự kết hợp giữa các clip, hình ảnh, âm thanh, cao hơn là các cơng nghệ mô phỏng
vật 3D, 4D, chứ không nhất thiết chỉ là hình ảnh người thầy đứng trước bảng và giảng bài





×