Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Phân tích và chứng minh nhận định sau - Các nhà triết học cổ Hy Lạp là những nhà biện chứng bẩm sinh, còn Aristoteles là bộ óc bách khoa toàn thư thời cổ Hy Lạp (Tiểu luận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.22 KB, 35 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN MÔN

TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI 10: Phân tích và chứng minh nhận định
sau:
CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ HY LẠP LÀ NHỮNG
NHÀ

BIỆN

CHỨNG

BẨM

SINH,

CỊN

ARISTOTELES LÀ ”BỘ ĨC BÁCH KHOA TOÀN
THƯ” THỜI CỔ HY LẠP.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH: ĐINH VŨ HỒNG LINH
LỚP:

ĐÊM 1 – K.19


TP.HCM, tháng 02 năm 2010


GVHD: TS. Bùi Văn
Mưa

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Lời nói đầu.......................................................................................... 2
1. Tổng quan về triết học Hy Lạp cổ...............................................3
1.1.

Giới thiệu..............................................................3

1.2.

Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu.............3

2. Cuộc đời của Aristoteles.............................................................. 6
3. Aristoteles – ”Bộ óc bách khoa tồn thư” của nhân loại thời cổ Hy
Lạp................................................................................................10
3.1.

Logic học.............................................................12

3.2.


Khoa học xã hội...................................................14
3.2.1. Ngôn ngữ và Nghệ thuật.............................14
3.2.2. Quan niệm về Đạo đức................................14
3.2.3. Quan niệm về Chính trị ‐ xã hội...................16

3.3.

Khoa học tự nhiên...............................................17
3.3.1. Vật lý học...................................................17
3.3.2. Siêu hình học..............................................18
3.3.3. Thiên văn học.............................................19
3.3.4. Thực vật học và sinh học............................19

3.4.

Triết học..............................................................22

4. Ảnh hưởng của Aristoteles........................................................ 29
Kết luận............................................................................................. 31
Tài liệu tham khảo........................................................................... 32

SVTH: Đinh Vũ Hồng
Linh

1


LỜI NÓI ĐẦU
Aristoteles là nhà triết học, tự nhiên học danh tiếng nhất của nền văn minh Hy
Lạp cổ. Cuộc đời ơng là một câu chuyện thú vị bởi ngồi tư cách là một nhà

khoa học vĩ đại thời cổ ông còn là một người học trò lớn của nhà triết học
Platon, là một người thầy, một người bạn tâm giao của nhà quân sự và chính trị
lẫy lừng nhất thời bấy giờ- Alexander Đại Đế . Với những gì mà ông để lại bao
gồm hệ thống các ghi chép để nói chuyện hoặc giảng bài, bao quát rất nhiều
ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa
chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca
và văn biện luận. Có nhận định cho rằng: Aristoteles là ”Bộ óc bách khoa tồn
thư thời cổ Hy Lạp”, một nhà tư tưởng thông hiểu tất cả sự vật sự việc trong thế
giới này lúc bấy giờ. Liệu nhận định trên hay câu nói ”Những gì mà người Hy
Lạp biết, Aristoteles đều biết” chỉ là những mỹ từ dành cho ông? Bởi trước và
sau thời ông cũng có rất nhiều các nhà tư tưởng Hy Lạp vĩ đại như Socrates,
Platon...Chúng ta cùng tìm hiểu.


1.

TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ:

1.1

Giới thiệu:

Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được tạo nên từ thế kỷ VI trước Công
Nguyên đến thế kỷ VI sau Công Nguyên, tượng trưng cho thành tựu rực rỡ của
văn minh phương Tây, và là cái nôi của văn hố châu Âu.
Trong đó phải kể đến sản phẩm vĩ đại của Triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng và
Triết học thời kỳ này nói chung chính là Phép biện chứng duy vật chất phác. Tuy
cịn mang tính trực quan, cảm tính, phi khoa học do đạt được từ việc quan sát
trực tiếp, trình độ khoa học và tư duy chưa tiến bộ nhưng các nhà triết học tự
nhiên Hy Lạp đã góp phần to lớn đặt nền tảng cho Phép tư duy biện chứng duy

tâm khách quan và duy vật sau này.
1.2

Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại: tiêu biểu gồm:


Socrate (sinh năm 469 – mất năm 399 trước Công

Nguyên) là người đầu tiên đặt vấn đề con người với tư cách
là một sinh thể có đạo đức vào trọng tâm của triết học. Tự
giới thiệu như một người chẳng biết gì cả, kích thích suy
nghĩ bằng cách liên tục đặt ra những cân hỏi, ông đã nghiên
cứu bản chất nhân đạo của con người, thế nào là thiện, ác,
chính nghĩa, tình u, lương tâm, danh dự, … tức là những
điều tạo thành bản chất tâm hồn của con người. Ông hướng triết học đến với sự
tự nhận thức, nhận thức chính mình, một con người, một nhân cách có đạo đức
và mang ý nghĩa xã hội. Con người đức hạnh đạt tới sự tuyệt vời khi điều mình
muốn biết phải là điều thiện thực sự. Thế giới đầy những bấp bênh nhưng bao
nhiêu bất hạnh của bạn cũng sẽ không đáng kể miễn là linh hồn bạn giữ được sự
thanh cao. Ông đã sống và chết xác tín như vậy.


Platon (sinh năm 427 – mất năm 347 trước

Công

Nguyên) là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm,

một


trào lưu mạnh và có nội dung phong phú nhất

trong

lịch sử tư duy nhân loại. Triết học Platon là hệ

thống

các quan điểm hoàn chỉnh về tất cả các bộ phận cơ

bản

của triết học: bản thể luận, nhận thức luận, triết

học



chính trị, đạo đức, mỹ học.
Cái căn bản trong triết học Platon là học thuyết về ý niệm. Nhận thức thông
thường cho chúng ta hình ảnh về thế giới hiện tượng, nó khơng mang tính chân
thực, chỉ là cái bóng mờ của bản chất sự vật. Hiện thực đích thực khơng phải là
cái mà nó hiện ra, mà là cái làm cho sự vật là cái nó có, được tinh thần nắm bắt
và thể hiện ra trong ngôn ngữ. Thế giới bản chất thuần t – đó là thế giới ý
niệm, nó nằm ngồi khơng gian, thời gian và khơng thay đổi. Có thể nhận thức
thế giới ý niệm bằng trí tuệ nhờ phép biện chứng hoặc thông qua hồi tưởng.


Aristoteles (sinh năm 385 – mất năm 322 trước Cơng Ngun) là học trị


của Platon, nhưng ông không tán đồng quan điểm của thầy mình. Ý niệm phản
ánh cái phổ biến của sự vật, song cái phổ biến luôn được biểu hiện từ cái đơn
nhất và như vậy ý niệm nằm trong sự vật chứ khơng phải bên ngồi chúng.
Aristoteles đã đưa ra những kết luận quan trọng:


Thế giới chỉ có một, đó là thế giới vật chất – tinh

thần, tồn tại hiện thực.


Các sự vật và quá trình của thế giới hiện thực có

thể được nhận biết từ bản thân nó, tức là nghiên cứu thực
tế.


Khoa học là nhận thức về thế giới hiện thực, khoa học cần phải có những

cơng cụ, tức các khái niệm. Tư duy cũng có những quy luật của nó. Các hình
thức và quy luật của tư duy là đối tượng nghiên cứu của logic học và chính ông
đặt nền móng cho khoa học này.


Bên cạnh đó cịn có Thales, Pythagoras, Democritus, Epicurus, Hypatia thành
Alexandria…Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là tư duy
về nguồn gốc và bản chất của thế giới. Ví dụ như đối với Thales đó là bản chất
của vạn vật là nước, Pythagor tìm cái chìa khố phổ qt của hiện thực trong các
con số. Đặc biệt là Democritus, cùng với Leucippus tạo ra thuyết ngun tử thơ
sơ. Ơng cho rằng mọi vật chất đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những

phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô
hạn. Héraclite đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp
của các yếu tố vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể
được thừa nhận chính là sự biến đổi, chuyển hố vĩnh hằng đó.
Nổi bật trong các nhà triết học thời Hy Lạp cổ là Aristoteles. Cùng với Platon,
Aristoteles được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất của
triết học Hy Lạp cổ đại cũng như triết học thế giới ngày xưa cũng như nay.
Aristoteles được xem là “Bộ óc bách khoa tồn thư của nhân loại”, có ảnh hưởng
trong nhiều thế kỷ về sau. Tuy là học trị của Platon nhưng Aristoteles có lập
luận, tư duy riêng, và cơ bản đối lập với người thày của mình. Ơng là người thiết
lập mơn lý luận học và cũng là người đầu tiên thiết lập một phương cách tiếp cận
với triết học bằng việc quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng.
Bên cạnh đó, ơng cịn được xem là nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh
hưởng hết sức lớn lao trong nền Văn Minh Tây Phương. Tuy cũng có một số ý
kiến cho rằng, Aristoteles là “kẻ đạo văn lớn nhất của mọi thời đại” với lý luận
rằng sau khi Alexandrea đại đế chinh phục được Ai Cập, ông đã cho thày của
mình là Aristoteles tiếp cận với thư viện Ai Cập và những ý tưởng của ông do
xuất phát từ đây, nhưng không thể phủ nhận được những đóng góp của ơng đối
với sự phát triển của khoa học và đặc biệt là triết học nhân loại.

2. CUỘC ĐỜI CỦA ARISTOTELES:
Aristoteles ra đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước Công nguyên.
Thrace cổ xưa (tức là nơi mà các dân tộc trên lãnh thổ Thracians sống) ngày nay


bao gồm Bulgaria, châu Âu - Thổ Nhĩ Kỳ, phía đơng-bắc Hy Lạp và các phần
của phía đơng Serbia và phía đơng nước Cộng hồ Macedonia. Cha Aristoteles,
ơng Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình Vua Amyntas II,
cha của Vua Philip, nước Macedonia. Trong 17 năm đầu, Aristoteles đã sống với
cha mẹ và được cha dạy cho về Y Khoa. Năm 18 tuổi, Aristoteles tới thành

Athens và theo học tại Trường Academos của Platon – học trò của Socrates, được
xem là một trong các nhà tư tưởng vĩ đại. Vào thời gian này, Platon 61 tuổi và đã
liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos đặc
biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Tốn Học và Thiên Văn.
Aristoteles được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các
bạn về trí thơng minh và lòng nhiệt thành. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng
thêm số giờ làm việc, Aristoteles đã nghĩ ra phương pháp sau: khi đọc sách hay
lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên
một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức
ông dậy. Aristoteles bị đau dạ dày và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường
đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng.
Theo như truyền thống, những học viên giỏi sẽ được trợ giảng cho thầy.
Aristoteles phụ trách giảng dạy mơn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ơng cũng soạn ra
vài tập Đối Thoại theo khuôn mẫu của Thầy Platon. Các tác phẩm này đều trở
nên rất nổi tiếng vì cách viết rõ ràng, dễ hiểu. Ơng học với Platon vào khoảng từ
8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu xét mức độ ảnh hưởng của
Platon trong các tác phẩm của Aristoteles. Có người
cho rằng thời kỳ sống cùng Platon là một thời gian đẹp
nhất trong cuộc đời Aristoteles, một môn đệ thông
minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng.
Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông
minh xuất chúng, hiếu học vì Aristoteles là một trong
những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu
tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của


Aristoteles được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen,
nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú
trọng vào lý thuyết, sách vở của Aristoteles. Người ta còn kể rằng Platon đã phải
gọi Aristoteles là “Trí Tuệ của Nhà Trường” (l'entendement de l'Ecole). Danh

hiệu trên là thành tựu đầu tiên của Aristoteles khi có được sự công nhận của một
người thông tuệ như Platon.
Tuy có thể mối quan hệ giữa hai thầy trị khơng phải luôn luôn tốt đẹp, do
khoảng cách tuổi tác 43 tuổi, sự thơng cảm khơng phải dễ dàng có. Đặc biệt, vào
cuối đời Platon, Aristoteles tỏ thái độ quan điểm đối lập về tư tưởng với thầy
mình. Có nhiều tài liệu cho rằng điều này làm Platon rất bất bình và coi
Aristoteles như một đứa con vơ ơn. Cịn đối với Aristoteles, có lẽ tuy bất đồng ý
kiến song ơng lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lịng biết ơn, cụ thể khi
Platon qua đời vào năm 347, Aristoteles viết một bài điếu văn trong đó ca tụng
Thầy.
Vào năm 347 khi Platon qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu trường
Academos. Aristoteles đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Platon, rời
thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Platon và cũng là
bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á. Aristoteles có cảm
tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, em gái của Hermias. Vì
khơng cảm thấy an tồn tại Atarneus, Aristoteles đã theo lời khuyên của
Theophrastus, một môn đệ, ông dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344.
Chính tại nơi này, Aristoteles đã nghiên cứu trong hai năm môn Sinh Học, đặc
biệt là ngành Hải Sinh Học.
Năm 342, Aristoteles được mời tới Macedonia
để dạy dỗ Thái Tử Alexander khi đó mới 13
tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do
lúc tuổi trẻ, Aristoteles đã từng sống tại triều
đình này, có thể là do danh tiếng của


ơng nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Aristoteles đã từng liên lạc chặt
chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư.
Aristoteles đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, nhà Đại Hiền
Triết đã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristoteles cũng soạn

một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Aristoteles đã cố gắng làm
phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ơng, rất cần
thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristoteles đã soạn ra cuốn
“Khảo Sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái Tử nhưng
tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn.
Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền
hành. Vào thời gian này, ông cũng giành thời gian cho riêng mình để học hỏi
thêm. Aristoteles cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn
phá vài năm trước thành một thành phố hiến pháp.
Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ
Aristoteles bên cạnh. Thái Tử ln ln tỏ lịng biết ơn đối với Thầy cũ bằng
cách biệt đãi nhà Đại Hiền Triết trong mọi công việc. Tuy vậy, dù rất mến yêu
Thầy nhưng trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di
truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vơ hạn, với một ý
chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”. Những cố gắng của Aristoteles
để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình như khơng đem lại nhiều kết quả.
Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristoteles như cha ruột của mình và về phần
Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là
chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì khơng đúng với sự
thật. Alexandre ln ln là một chiến sĩ thích
chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristoteles,
Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế
giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một phần
nào do ảnh hưởng của Aristoteles và người ta
thường so sánh thiên tài của Aristoteles trong lãnh vực triết lý với thiên tài của


Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có cơng với nhân loại:
một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý.
Vào năm 335 khi Đại Đế Alexander đi chinh phục

châu Á thì Aristoteles tự thấy rằng nhiệm vụ của
mình đã chấm dứt. Ơng đề nghị để người cháu tên
là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại Đế.
Sau khi từ biệt Alexander, Aristoteles trở lại thành
Athens và lập ra trường Lyceum, gần đền Apollon
Lycien, vì vậy ngày nay được gọi là “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ Thần
Muse, vị nữ thần chủ về Văn Chương, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trường có
rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi trường
này, Aristoteles trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc
dạo chơi ngồi vườn, vì vậy ngơi trường của Aristoteles còn được gọi là “Trường
Dạo Chơi”. Bên cạnh đó, Lyceum của Aristoteles chuyên nghiên cứu về sinh lý
học và động vật học.
Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Aristoteles cũng bị ảnh
hưởng. Mặc dù Aristoteles chỉ cịn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi người
cháu của ơng bị tử hình, nhưng nhà Đại Hiền Triết thường đi lại với Antipater và
được viên tổng trấn này che chở. Đảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes
lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế Alexander khơng
cịn nữa. Aristoteles nhận thấy đời sống và tài sản của mình bị đe dọa. Người ta
đã tố cáo ơng phạm tội bất kính vì 20 năm trước, ơng đã sáng tác một bài thơ
tưởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thượng Đế.
Aristoteles nhớ lại số phận của Socrates rồi khơng đợi tịa án xét xử, vì chắc chắn
ơng sẽ bị kết án, Aristoteles rời bỏ thành Athens, trốn về q mẹ là miền Chalcis.
Ơng tun bố “Tơi sẽ khơng để người Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I
will not let the Athenians offend twice against Philosophy).


Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristoteles qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh
đau dạ dày, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường, cũng có giả
thuyết là ơng chết do tự tử. Ơng để lại hai người con, con trai cùng tên với ông
nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ Pithias. Theo như lời yêu cầu,

nắm xương tàn của nhà Đại Hiền Triết được chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt
của Pithias, vợ ơng.
3.

ARISTOTELES – “BỘ ĨC BÁCH KHOA TỒN THƯ” THỜI CỔ

HY LẠP
Những năm tháng học tại Hàn Lâm Viện cùng giáo sư tài hoa Platon, những nỗ
lực học tập, nghiên cứu không mệt mỏi cùng tố chất thông minh, tư duy sắc bén,
Aristoteles được xem là cha đỡ đầu của một số các ngành khoa học tự nhiên như
Vật lý học, Thiên văn học, sinh vật học…, đặc biệt trở thành nhà triết học có tầm
ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triết gia sau này tuy những phương tiện nghiên cứu
của Aristoteles vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu hiện đại
ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà khơng có đồng hồ, đo lường nhiệt độ
mà khơng có hàn thử biểu, xem thiên văn mà khơng có kính viễn vọng, đốn thời
tiết mà khơng có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristoteles đã
sử dụng là một cái thước và một cái la bàn. Sức hút của Trái Đất, hiện tượng phát
điện, áp lực khơng khí, ngun lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý
thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh. Cuộc
đời của ông, đặc biệt trong thời gian ở trường Lycyum, Aristoteles tập trung đọc
sách, nghiên cứu, giảng dạy và viết sách. Hệ thống các tác phẩm của Aristoteles
hầu hết là những ghi chếp để nói chuyện hoặc giảng bài. Nó bao quát rất nhiều
ngành kiến thức khác nhau như: sinh học, tâm lý, chiêm tinh học, địa lý học, địa
chất học, giải phẫu học, lý luận triết học siêu hình, thẩm mĩ học, chính trị, thơ ca
và văn biện luận. Số lượng tác phẩm của Aristoteles lên đến hàng trăm cuốn, có
người bảo 400 cuốn, có người bảo 1.000 cuốn. Những cuốn còn lại đến nay chỉ là
một số nhỏ khoảng 40 cuốn nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách.


Các tác phẩm của Aristoteles được chia làm ba loại:

(1) các bài viết phổ thông (popular writings),
(2) các sách ghi chép (memoranda); và
(3) Các sách luận đề (treatises).
Các bài viết phổ thông đa số gồm các tập đối thoại theo mẫu của Plato và được
viết ra khi Aristoteles còn cư ngụ tại trường Academos. Với văn phong trong
sáng, các công trình sáng tạo này được Aristoteles gọi là các bài viết phổ biến
bên ngồi với ý định dành cho cơng chúng bên ngoài trường học, hơn là các học
viên của trường. Ngoại trừ một số đoạn rời rạc cịn sót lại, hầu hết các tập đối
thoại này đã bị thất lạc.
Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu. Những sách
này do Aristoteles và các môn đệ của ông thực hiện với chủ đích dùng làm nguồn
tư liệu cho các học giả. Giống như các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi
chép đều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận đề, được viết ra
dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng tại Trường Lyceum, liên quan tới mọi
ngành của Kiến Thức và Nghệ Thuật.
Không giống như các bài viết phổ thông, các sách luận đề chỉ được dùng cho học
viên trong trường. Danh tiếng của Aristoteles được căn cứ vào các cơng trình này
và đây là các tác phẩm mà các nhà biên tập đời sau đã thu thập và xếp đặt. Trong
số đó, chủ yếu là Organon (công cụ nhận thức) gồm 6 luận văn về luận lý học;
Physics (vật lý học); Metaphysics (siêu hình học); De Anima (bàn về lồi vật);
Nichomachean Ethics và Eudemian (đạo đức học); Rhetoric (khoa hùng biện); và
một chuỗi các tác phẩm về sinh học cùng vật lý học. Tới thế kỷ 19, cịn tìm được
cuốn Constitution of Athens (Hiến pháp Athens), trong đó ơng tường trình về
chính quyền của thành quốc Athens.


3.1

Logic học:


Aristoteles ln trung thành với phương pháp lý tính - một phương pháp mà cho
đến nay, chúng ta vẫn cần phải học tập. Dưới ánh sáng của phương pháp ấy,
Aristoteles luôn chủ trương đi ngược lại truyền thống với những lễ nghi và mê
tín. Ơng cho rằng vũ trụ khơng chịu dự kiểm sốt của bất kì thế lực nào, dù có là
quỷ thần hay những pháp thuật siêu nhiên, huyền bí. Trái lại, nó vận hành theo
những quy luật tự nhiên nhất định nào đó. Trước mỗi hiện tượng thiên nhiên, ông
khuyên con người không nên lo lắng, sợ hãi mà nên quan sát, thí nghiệm và phân
tích logic để có kết luận cụ thể. Có lẽ chính tư duy biện chứng ấy đã giúp cho
Aristoteles cảm thấy: “ khơng kinh ngạc trước một thứ gì”” bởi đói với ơng bất
cứ điều gì cũng có logic riêng của nó- một thứ logic hồn tồn có thể khám phá.
Chính tư duy độc lập này của ông đã đi ngược lại quan điểm duy tâm của thầy
mình là Platon. Cho đến giờ, người ta vẫn khơng thể qn câu nói nổi tiếng của
ông: " Ta yêu thầy học của ta nhưng ta còn yêu chân lý hơn" . Chỉ một câu nói
mà bộc lộ được những đức tính tơt đẹp của Aistotle trong cuộc sống cũng như
trong khoa học. Cũng qua câu nói ấy, ta hiểu rằng, con người ấy đã thuộc về
khoa học. Chân lý khoa học mới chính là cái đích lớn lao trong suốt cuộc đời
ơng.
Aristoteles là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp nhờ đó một số định
đề được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định đề khác đã được
cơng nhận. Ơng tin rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên một hình
thức tranh luận mà ông gọi là Tam Đoạn Luận (Syllogism). Trong một tam đoạn
luận, một định đề được suy diễn từ hai định đề đúng khác.
Một thí dụ của lý luận này như sau: (1) mọi người đều sẽ qua đời, (2) Socrates là
một con người, vì thế có thể đi tới kết luận rằng (3) Socrates sẽ qua đời.
Tam đoạn luận đã giữ một vài trò quan trọng trong nền Triết Học sau này do tạo
nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristoteles đã phân


biệt rõ hai thứ: biện chứng và phân tích. Theo nhà Đại Hiền Triết, biện chứng chỉ
trắc nghiệm các ý kiến xét theo tính nhất qn về lý luận, cịn các cơng trình phân

tích được suy diễn từ các ngun tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ
ràng. Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm Viện của Platon, nơi cho
rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa Học và Triết Học.
3.2

Khoa học xã hội

3.2.1. Ngôn ngữ và nghệ thuật:
Nền giáo dục do Aristoteles chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần
cơng khai phổ biến ra bên ngồi. Nhà Đại Hiền Triết đề cập tới các câu hỏi hoàn
toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristoteles
giảng dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức trong đó mơn
Tu Từ Pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 năm liền, Aristoteles vừa thuyết
giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của
thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristoteles đã thiết lập bảng
liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens
mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng của các vở
kịch Hy Lạp.
3.2.2. Quan niệm về Đạo đức:
Aristoteles tìm kiếm các nguyên tắc căn bản nhất và tổng quát nhất của kiến thức
và sự thật. Bởi vì chỉ có Thượng Đế là không thay đổi, nhà Đại Hiền Triết gọi
ngành nghiên cứu Thượng Đế là Thần Học (theology). Đối với ông, hai bộ mơn
Đạo Đức Học (ethics) và Chính Trị Học (politics) đều khảo cứu kiến thức thực tế,
đây là sự hiểu biết cho phép con người hành động đúng cách và sống hạnh phúc.
Qua tác phẩm đề tặng cho con trai tên là Nichomachus và được gọi tên là
Nichomachean Ethics (Đạo Đức Học của Nichomachus), Aristoteles đã phân tích
cá tính và trí thơng minh khi những yếu tố này liên quan đến hạnh phúc, và ông
cho rằng một cuộc đời hạnh phúc của con người là cuộc đời làm theo lý trí, là cơ



sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh con người; còn ngu dốt, sai lầm là
nguồn gốc của cái ác. Phẩm hạnh của con người chỉ là thói quen thấy hiểu chân
lý (thông qua giáo dục và đào tạo) hay lẽ phải đời thường (thông qua tập quán lâu
đời của cộng đồng), và làm theo chúng một cách tự nhiên, khơng gị bó. Vì vậy
có hai loại phẩm hạnh là phẩm hạnh lý tính và phẩm hạnh luân lý. Ơng cho rằng
hạnh phúc của con người khơng chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự
khơn ngoan của lý trí, đức hạnh trong hành vi, sự khối lạc trong trạng thái…mà
cịn bị chi phối bởi các điều kiện khách quan như tiền bạn, sức khỏe, tình bạn, xã
hội cơng bằng…Quan niệm này thực sự vẫn đúng trong thời đại ngày nay.
Vài tác phẩm quan trọng khác của Aristoteles là các cuốn Rhetoric (Tu Từ Pháp),
Politics (Chính Trị) và Poetics (Thơ Phú). Qua tác phẩm sau cùng này, Aristoteles
khảo cứu bản chất của bi kịch, lấy dẫn chứng từ bi kịch Oedipus Rex của
Sophocles, và tin rằng bi kịch đã ảnh hưởng tới khán giả do gợi lên các cảm xúc
như sợ hãi, thương xót, và cách tẩy sạch những xúc động này được ông gọi là
“carthasis”.
Tồn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hi Lạp nhưng khác
với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Cơng trình
của Aristoteles xứng đáng được so sánh với cơng trình của Alexandre. Văn
chương của Aristoteles khơng bóng bẩy và thi vị như của Platơn, đó là một loại
văn chương chính xác và khoa học. Aristoteles phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để
có thể diễn tả tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mĩ hiện nay phải mượn ở những tác
phẩm của Aristoteles như faculty, mean, maxim, category, energy, actuality,
motive, principle, form Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây
dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau.
Aristoteles còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền.
Có người cho rằng những tác phẩm của Aristoteles khơng phải do chính
Aristoteles soạn thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng
của Aristoteles. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristoteles



qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi
Aristoteles còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị
được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristoteles để lại. Có người cho rằng trong tất
cả các tác phẩm và Aristoteles chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống
nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristoteles thấm nhuần tư tưởng
của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay Aristoteles soạn thảo ra các tác
phẩm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc chắn là của Aristoteles.
3.2.3. Quan niệm về Chính trị- xã hội:
Trật tự xã hội chiếm hữu nô lệ bấy giờ ông xem là một trật tự xấu, nhưng đó là
một trật tự cần thiết. Aristoteles xem xét cả mối liên hệ giữa đạo đức và kinh tế
trên bình diện xã hội. Theo ơng, cơng bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng
của công bằng xã hội và bình đẳng giữa các cá nhân trong cộng đồng. Aristoteles
đòi hỏi phải quan tâm đến lao động và phân công lao động.
Khi phê phán lý luận về nhà nước lý tưởng của Platon, xem đó là xa rời thực tế,
q đề cao cơng ích coi thường lợi ích và sáng kiến cá nhân…, Aristoteles tự vận
dụng thuyết trung dung để xây dựng lý luận chính trị - xã hội của riêng mình.
Trung tâm của lý luận này là học thuyết về nhà nước. Con người không chỉ là
sinh thể biết nhận thức, biết sống có đạo đức mà cịn biết làm chính trị. Con
người về bản chất phải thuộc về nhà nước. Sứ mạng của nhà nước là đảm bảo
cho mọi người (trừ nô lệ) trong cộng đồng một cuộc sống hạnh phúc với mức độ
phúc lợi ngày càng cao. Để thực hiện sứ mạng này, nhà nước phải tiến hành hoạt
động trên ba lĩnh vực: lập pháp, hành chính và xét xử. Theo ơng chính quyền nên
thuộc về tầng lớp chủ nơ trung lưu.
Bên cạnh đó, Aristoteles đã viết cuốn “Hiến Pháp của Thành Athens” (The
Constitution of Athens), biên khảo về Hiến Pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại
tác phẩm “Khảo Sát về Hiến Pháp của Thành Athens” (On the Athenian
Constitution).


Aristoteles cịn có sở thích sưu tập các bản Hiến Pháp. Nhờ người học trò lớn

Alexander Đại đế hỗ trợ, Thư Viện Lyceum của ông đã sưu tập được 158 bản
Hiến Pháp của dân Hy Lạp và các quốc gia khác nhau.
3.3
3.3.1

Khoa học tự nhiên:
Vật lý học:

Đối với Aristoteles, bản chất của thiên nhiên là thay đổi và ông đã định nghĩa
môn triết học của thiên nhiên là sự khảo sát các sự vật đổi thay. Trong tác phẩm
Physics (Vật Lý), Aristoteles đã phân biệt “hình thể” (form) với “chất liệu”
(matter) của một vật, chẳng hạn như khi một nhà điêu khắc tạc ra một bức tượng
bán thân bằng đồng, chất liệu là đồng và hình thể là hình nửa người. Aristoteles
đã nghiên cứu các nguyên nhân của sự thay đổi và phân biệt bốn loại: (1) nguyên
nhân chất liệu (material cause) là thứ mà một vật được làm ra, (2) nguyên nhân
hữu hiệu (efficient cause) là hành động của nhà điêu khắc, là nguồn gốc của
chuyển động (source of motion), (3) nguyên nhân
hình thể (formal cause) là hình dáng bên ngoài, là loại
(kind, type) để xếp hạng và (4) nguyên nhân cuối
cùng (final cause) là chương trình (plan), là kiểu mẫu
(design) hay mục đích của người sáng tạo hay phát
minh. Khoa Vật Lý của Aristoteles là khoa học thiên
nhiên bao gồm bên trong các bộ mơn Thiên Văn, Khí Tượng, Thực Vật Học và
Sinh Học, các bộ môn này có mối quan hệ mật thiết và tương hỗ nhau.
Có sáu hình thức vận động là: phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm,
di chuyển vị trí. Aristoteles đã dừng lại trước quan niệm vận động tự thân của vật
chất mà thừa nhận cái hích đầu tiên của Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên
là nguồn gốc thần thánh của mọi vận động xảy ra trong giới tự nhiên. Ông cho
rằng vũ trụ là hữu hạn, liên tục và khép kín trong khơng gian nhưng vĩnh viễn về
thời gian. Vạn vật trong vũ trụ đều được cấu thành từ 5 yếu tố: đất, nước, lửa,

khơng khí (từ mặt trăng trở xuống trái đất), và éther (bên ngoài mặt trăng bao


trùm toàn vũ trụ). Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật
nhẹ, và mỗi yếu tố có một xu hướng vận động riêng, chiếm giữ một vị trí riêng
trong trật tự cấu trúc vũ trụ, Aristoteles đặt nền móng cho thuyết vũ trụ địa tâm.
Bên cạnh đó, ơng cịn xây dựng nên cả một hệ thống các định luật vật lý mà ngày
nay được gọi là vật lý Aristoteles, tuy dù hệ thống vật lý này sau này bị Galilei
chứng minh là sai lầm và bác bỏ.
3.3.2

Siêu hình học:

Siêu hình học là một nhánh triết học quan tâm đến việc giải
thích bản chất của thế giới. Đây là một môn học về sự tồn
tại hoặc sự thật. Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản chất
của sự thật là gì? Đâu là vị trí đầu tiên của con người trong
vũ trụ? Màu sắc là chủ quan hay khách quan? Liệu thế giới
có xuất hiện bên ngồi trí óc của chúng ta hay khơng? Bản
chất của vật thể, sự kiện, nơi chốn là gì? Aristoteles được xem là cha đẻ của siêu
hình học.
3.3.3

Thiên văn học:
Trong quan điểm về thế giới của Aristotle, Trời đất luôn
gắn liền với sự hoàn hảo, các vật thể trên bầu trời tồn tại
như một quả cầu hồn hảo có quỹ đạo trịn hồn hảo;
trong khi đó Trái Đất thuộc về sự khơng hồn hảo; 2
quan điểm này khơng được xem là có liên quan với


nhau. Aristoteles cũng nghiên cứu chuyển động của các thiên thể qua tác phẩm
On the Heavens (Về Bầu Trời) và tìm hiểu các thay đổi khi một vật được tạo ra
hay bị hủy diệt.
3.3.4

Thực vật học và sinh học:


Trong một bức thư gửi cho bạn mình, Charles Darwin (1809-1882), nhà Sinh học
nổi tiếng người Anh với thuyết Tiến hoá đã viết: “...Linnaeus ((1707-1778), nhà
Thực vật học người Thụy Điển) và Cuvier ((1769-1832), nhà Cổ sinh vật học
người Pháp) đều là thần tượng của tôi, theo những
cách hiểu khác nhau, nhưng cả hai người đó đều chỉ là
những học trị nhỏ so sánh với ơng thầy vĩ đại
Aristoteles”. Hẳn lời nhận xét trên cũng đủ để xác
định tầm cỡ và mức giá trị của Aristoteles, nhà Sinh
học thời Cổ đại. Ðược Alexander Ðại đế hỗ trợ,
Aristoteles lập thảo cầm viên đầu tiên của loài người
để làm cơ sở học hỏi. Tại hai nơi đó, người ta kể rằng thầy lẫn trò trong các buổi
học tập đều đi tới đi lui khơng ngừng. Có tài liệu ghi, Alexander ra lệnh cho các
nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristoteles tất cả những giống vật mới
lạ. Tục truyền có cả thảy một đội quân 1.000 người rải rác khắp Hi Lạp và châu
Á để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristoteles là người đầu tiên đã lập nên
vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới. Ông đã nhận được sự cộng tác,
hỗ trợ quý giá của Thephrastus (về Thực vật học) và Meno (về Y học), các mẫu
và tài liệu quý giá từ học trị mình lấy từ Ba Tư và Ấn Độ, Ai Cập.
Các bài viết về Lịch sử tự nhiên và Khoa học, trong đó quan trọng nhất là các tập
“Lịch sử động vật”, “Bàn về các bộ phận của động vật” “Về sự tiến triển của
động vật” (đề cập đến bản chất và nguyên nhân các sinh thái), “Hoạt động của
giới động vật”, “Quá trình tái tạo của động vật” (bàn về các chức năng chung của

cơ thể và linh hồn) ra đời. Cuốn “Nghiên cứu các động vật” là một tập hợp
những dữ kiện về đời sống các loài vật. Ông đã mô tả khoảng 500 loại động vật
(phần lớn thu thập từ đảo Lebos). Chính Aristoteles đã đặt ra nhiều thuật ngữ
Giải phẫu học như: “aorta” (động mạch, để chỉ một động mạch xuất phát từ tim),
“rectum” (trực tràng, để chỉ đoạn ruột đi thẳng xuống hậu môn). Aristoteles cũng
phân biệt các loại mô khác nhau (như mỡ, xương, limphô...) và nhiều cấu trúc
Giải phẫu học (như thực quản, khí quản, các xoang mũi, mê cung tai, đại tràng,


manh tràng...) Bản thân Aristoteles không viết tài liệu về Thực vật, lĩnh vực này
ơng dành cho người học trị danh tiếng của ơng là Theophratus. Có lẽ người cha
vốn là một thầy thuốc giỏi đã ảnh hưởng tác động mạnh đến tâm trí của
Aristoteles từ tuổi ấu thơ nên ơng đã sớm có xu hướng tìm hiểu thế giới sinh vật.
Đặc điểm nổi trội nhất trong tồn bộ cơng trình nghiên cứu Sinh học của ơng là
khối lượng to lớn những nhận xét phong phú khi mô tả giới động vật. Trong khối
lượng đó, các nhà khoa học của thế kỷ XX vẫn hứng thú vì tìm thấy những dữ
kiện về đời sống động vật, những nguyên nhân tạo ra các hình thái sống, các
chức năng chung của cơ thể và linh hồn.
Trong suốt quá trình nghiên cứu Sinh học, Aristoteles đã phát hiện ra chu trình
biến đổi của thiên nhiên: các sinh thái luôn cố gắng tự thân để hồn thiện hơn,
nhưng các động vật ln ln là những cá thể không vĩnh cửu nên chúng cũng
phải tuân theo một chu trình sống và chết, hình thái liên tục này giống như bản
sao chép vòng quay của vật chất. Kết quả đó là hiện tượng đến để tồn tại rồi qua
đi, liên tục và không ngưng nghỉ. Như vậy hình thành và hủy hoại là những bậc
thang của mọi giống loài. Người sinh ra người và cây sồi lại tạo ra cây sồi. Quan
niệm này có lẽ phần nào đã loại bỏ mọi q trình tiến hóa của các loài.
Aristoteles xác nhận rằng nguồn gốc sâu thẳm của mọi hoạt động ở các hình thái
sống chính là sức nóng mà ơng thường gọi là “nhiệt nội sinh” hoặc “thở hít”, đây
cũng là “dụng cụ” của linh hồn tác động bằng cách đẩy và kéo những bộ phận
khác nhau của cơ thể nhằm tạo hiệu quả phục vụ cho những ham muốn của linh

hồn. Quan điểm này là nội dung chính của luận thuyết “khí hợp sinh” (connate
pneuma) nổi tiếng của Aristoteles.
Theo cách nhìn này, Aristoteles là nhà khoa học đầu tiên đã phân loại giới động
vật thành hai hệ thống lớn: hệ có máu (nghĩa là máu đỏ) và hệ không máu, đây là
cách xếp loại dựa trên nội dung “nhiệt” và là đặc điểm đầu tiên của cách phân
loại động vật. Một đặc điểm thứ hai trong cách phân loại động vật của Aristoteles
là dựa vào phương thức tái tạo: giống đực cung cấp hình thái (nghĩa là linh hồn)


còn giống cái cung cấp vật liệu (nghĩa là các bộ phận cơ thể, nơi tiếp nhận sự
sống từ linh hồn). Cách phân loại này cũng liên quan đến nhiệt: các thế hệ sau,
các con, cháu sẽ có những đặc điểm càng giống cha, ông khi những thế hệ trước
càng chứa đựng nhiều “nhiệt sinh lực” nhất. Xếp hàng đầu trong hệ phân loại này
là các động vật đẻ con (như người)..
Trong khi nghiên cứu quá trình tái tạo các lồi, Aristoteles khơng chỉ quan tâm
đến giới và tính di truyền, mà ơng cịn chú ý cả đến những yếu tố mơi trường,
q trình đấu tranh để tồn tại, do vậy ơng đã phân tích các chức năng khác nhau
và cách phản ứng của từng tạng và bộ phận cơ thể. Ơng ln chú ý đến cái mục
đích cuối cùng của sự sống cũng như của mọi hoạt động tái tạo và sinh tồn. Theo
Aristoteles, đây cũng là trách nhiệm của nhà Sinh học trong suốt quá trình nghiên
cứu sự sống hữu cơ. Trong cách phân loại dựa trên phương thức tái tạo như vậy,
mặc dù nhận biết thấy có những điểm lấn chéo nhau giữa các giống loài nhưng
Aristoteles vẫn chưa tìm được cách sắp xếp hợp lý hơn. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu toàn bộ các tác phẩm của Aristoteles bàn về Sinh học, các nhà khoa học hiện
nay vẫn xác nhận rằng cách phân loại các hình thái sống như vậy đã đặt nền tảng
cho những “bậc thang thiên nhiên” (scala nature) giống như một kiểu mẫu quy
ước cho các nhà động vật học suốt nhiều thế kỷ về sau.
3.4

Triết học


Aristoteles am hiểu rất nhiều ngành khoa học, nhưng nổi bật nhất vẫn là triết học.
Marx (1818 – 1883, nhà tư tưởng, kinh tế chính trị, lãnh đạo cách mạng người
Đức) đã đánh giá ông là “ nhà tư tưởng vĩ đại nhất của phương Tây cổ đại” . Tư
tưởng triết học của ông năm giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghiã duy tâm.
Aristoteles không những kế thừa được những tinh hoa tư tưởng triết học thời ấy,
mà cịn tổng kết, tìm ra những giá trị tiến bộ của tư tưởng văn hóa, triết học và
nâng chúng lên tầm cao mới, giải thích, làm rõ thêm nhiều luận điểm triết học
của các bậc tiền bối. Gatpi - nhà nghiên cứu lịch sử triết học cổ đại nổi tiếng đã
làm rõ ý nghĩa triết học và vai trò của Aristoteles và tư cách là người đầu tiên


nghiên cứu lịch sử triết học và sáng lập ra môn học này, là người đầu tiên không
chỉ đặt nền móng vững chắc cho lâu đài triết học, logic học và khoa học hiện đại,
mà còn là người đầu tiên đặt nền móng cho lịch sử triết học. Nói cách khác, theo
ông, bắt đầu từ Aristoteles lịch sử triết học mới ra đời và phát triển.
Có thể nói, người đầu tiên nêu ra khuynh
hướng cơ bản trong triết học và cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm chính là Platon, mặc
dù ơng khơng quan tâm nghiên cứu, khảo sát
các học thuyết triết học của các bậc tiền bối
và cũng khơng có ý thức sử đụng các học thuyết ấy làm cơ sở để luận chứng
trong các đối thoại và tranh luận của mình. Nhưng sự thực thì khi giảng bài, đối
thoại, tranh luận... Platon không thể không sử dụng những tài liệu lịch sử triết
học. Tuy nhiên, sự vận động, phát triển tư duy triết học luôn tuân theo nhưng quy
luật logic của nó và như thế, phải đến Aristoteles thì lịch sử triết học mới ra đời
và có một vị thế nhất định. Aristoteles trở thành người đầu tiên tổng kết và hệ
thống hóa tư tưởng triết học trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại theo nghĩa rộng
của từ này, còn theo nghĩa hẹp, Aristoteles là người đầu tiên phân loại tri thức

khoa học, mặc dù đó mới chỉ là ban đầu, còn rất sơ khai. Vượt lên những người
đương thời, Aristoteles đã sử dụng phương pháp logic để diễn đạt quan điểm của
mình. Xét ở quan hệ này, có thể nói, Aristoteles là bậc tiền bối của Hegel. Bởi vì,
những điểm cơ bản trong quan điểm lịch sử triết học của Hegel khơng phải là cái
gì khác, mà chính là sự hoàn thiện những ý tưởng của Aristoteles đã phác thảo 23
thế kỷ trước đó. Lenin nhận xét: "Logic của Aristoteles là nhu cầu, là sự cố gắng
tìm tịi, là sự đến gần với logic của Hegel".
Nhằm hệ thống hóa và phân loại tri thức khoa học, Aristoteles đã thu thập một
khối lượng lớn các tài liệu lịch sử triết học, kể cả tài liệu của chủ nghĩa duy vật
và của chủ nghĩa duy tâm, đồng thời sử dụng phương pháp logic - lịch sử để tổng
hợp và phân loại các tài liệu ấy. Công lao của Aristoteles không chỉ là tổng kết


lịch sử triết học thời ấy, mà quan trọng hơn là tìm ra một phương pháp mới
phương pháp thống nhất logic và lịch sử trong nghiên cứu lịch sử triết học.
Phương pháp lịch sử có giá trị to lớn và quan trọng nhờ nó con người có thể nắm
bắt tương đối trọn vẹn quá trình đã diễn ra sự vật. Do đó nếu khơng có phương
pháp lịch sử thì khơng có khoa học lịch sử. Logic là phương pháp vạch ra bản
chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và
khái quát. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp nghiên
cứu khác nhau, nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì muốn hiểu biết bản
chất và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó. Mặt
khác có nắm được bản chất và quy luật của sự vật mới nhận thức thức được lịch
sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy
cái logic, phải rút ra sợi dây logic chủ yếu của lịch sử thơng qua việc phân tích
các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp logic phải dựa trên các tài
liệu lịch sử để khái quát và chứng minh và rốt cuộc phải đem lại lịch sử trong
tính bản chất của nó. Lịch sử mà thiếu logic sẽ mù qng, cịn logic mà thiếu lịch
sử thì khơng có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tư biện.
Aristoteles không chỉ nghiên cứu những quy luật logic của tư duy con người, mà

còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết học, phê phán
những sai lầm trong học thuyết “con số" của Pitago, học thuyết “ý niệm" của
Platon, chống lại sự đồng nhất cái tồn tại và cái không tồn tại của Pacmenit. Tên
tuổi của Aristoteles gắn liền với việc nghiên cứu các hiện tượng và những sự kiện
diễn ra ở những điểm khác nhau trong mối quan hệ với không gian và vận động
như một quá trình tạo lập và huỷ diệt, sáng tạo và phá huỷ. Quan niệm của ông là
đúng, bởi sự sinh thành, phát triển và diệt vong của vạn vật đều tn theo quy
luật khách quan, khơng ai có thể làm trái quy luật hoặc đi ngược lại lịch sử.
Chúng ta không thể đặt ra các điều kiện và đòi hỏi các bậc tiền bối phải giải
quyết các vấn đề triết học của lịch sử thế này hay thế khác. Xét hồn cảnh và
trình độ nhận thức ở thời ấy thì những gì mà họ làm được thật đáng làm ta kinh
ngạc và rất đáng trân trọng. Vấn đề là ở chỗ, họ là những người đi đầu trong việc


tạo dựng và thiết lập nên những quan điểm lịch sử triết học đầu tiên, khai phá con
đường mà sau này, các nhà triết học của nhiều thời đại đã đi trên con đường ấy.
Tính độc đáo và sâu sắc trong việc xác lập vị thế lịch sử triết học của Aristoteles
được thể hiện ở các nguyên tắc:
(1) Nguyên tắc quan hệ hữu cơ giữa bản thể luận và phương pháp nghiên cứu
trên cơ sở của sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử.
(2) Nguyên tắc nhất nguyên trong xem xét, phê phán các học thuyết triết học.
(3) Nguyên tắc kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quan điểm, học thuyết
triết học trong lịch sử triết học.
Có thể tìm hiểu kỹ các ngun tắc này trong phần I của "Siêu hình học" của
Aristoteles, nhất là khi ông bình xét quan điểm triết học về cái tồn tại và cái
khơng tồn tại của Pacmenit và Kxenophan. Tìm ra và sử dụng phương pháp logic
- lịch sử để nghiên cứu lịch sử triết học, Aristoteles đã chỉ ra mối liên hệ giữa học
thuyết triết học của Empedoccolo và học thuyết của Anacxagoro. Theo
Aristoteles, cả hai học thuyết này đều bắt nguồn từ học thuyết của
Anacnmandoro và giữa chúng cũng có sự khác nhau trong việc giải quyết vấn đề

khởi nguyên của thế giới.
Có thể nói, trên cơ sở phân tích các học thuyết khác nhau trong lịch sử triết học
Hy Lạp cổ đại, Aristoteles đã hình thành nên phương pháp logic - lịch sử, từ đó
đưa ra nguyên tắc nhất nguyên luận trong nghiên cứu lịch sử triết học. Nghiên
cứu "Siêu hình học" của ơng, chúng ta thấy ông coi lịch sử của tư tưởng triết học
chính là lịch sử con người đi tìm chân lý. Theo ơng, tìm chân lý trong một mối
quan hệ là rất khó, nhưng trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn. Việc tìm chân lý
trong lịch sử xã hội khơng thể dựa vào một vài sự kiện, mà cần phải có sự khảo
sát cơng phu từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều sự kiện khác nhau.
Aristoteles cho rằng, nếu khơng có sự kế thừa các học thuyết trước đó thì các
khái niệm mới đưa ra, các học thuyết mới hình thành chỉ là những tập hợp ngôn


từ trống rỗng, khơng có sức sống. Theo ơng, những gì người đương thời có được
đều khơng thể tách rời và xa lạ với tiền nhiệm. Trên cơ sở kế thừa tư duy lý luận
và kinh nghiệm lịch sử, chúng ta tồn tại và phát triển. Các thế hệ kế tiếp sau chỉ
có thể bước qua và leo lên nhưng nấc thang mới cao hơn, tiến lên phía trước là
nhờ nghiên cứu lịch sử triết học và tiếp thu, kế thừa những mặt tích cực ở những
người đi trước.
Với sự nhạy cảm của trực giác, Aristoteles đã nêu ra sự cần thiết phải làm rõ sự
khác biệt giữa các học thuyết triết học, tính quy định của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan của nhà triết học đối với sự phát sinh, phát triển của
mỗi học thuyết triết học. Có như vậy mới tìm ra được các khía cạnh khác nhau
của sự phát triển lịch sử triết học, tìm ra mặt tiến bộ, tích cực để kế thừa, đồng
thời lọc bỏ những hạn chế, không phù hợp, khơng có giá trị, khơng có ý nghĩa.
Tuy nhiên, sau khi Aristoteles qua đời, những người kế tục ông đã không làm
được cái mà ông mong muốn. Phương pháp logic - lịch sử được các học trị của
ơng vận dụng, nhưng khơng đạt được trình độ mà bậc thầy của mình đã có.
Trong thời kỳ Trung cổ, triết học phát triển rất chậm chạp. "Chủ nghĩa thầy tu đã
giết chết cái gì là sống động ở Aristoteles và làm thành bất tử cái gì đã chết rồi".

Những gì mà Aristoteles đã làm và chuẩn bị cho sự phát triển lịch sử triết học chỉ
được thực hiện từ khi có triết học Phục hưng đến nay.
Trong tác phẩm của mình, Gatpi không chỉ làm nổi bật học thuyết về vận động
của Aristoteles, mà còn từ quan điểm vận động này biểu đạt ý tưởng về sự vận
động tư tưởng trong lịch sử phát triển của nó. Gatpi đã chứng minh một cách
thuyết phục vai trò và ý nghĩa triết học của học thuyết triết học Aristoteles và coi
học thuyết này là khởi nguồn của sự phát triển tư tưởng lịch sứ triết học. Từ
những đánh giá đó, Gatpi đã khẳng định Aristoteles là người mở đầu, là ông tổ
của lịch sử triết học. Aristoteles xứng đáng được gọi như vậy, mặc dù cịn có
những hạn chế lịch sử nhất định, nhưng nếu khơng có ơng, khơng có người đại


×