Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Đường lối kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.75 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã để lại cho dân
tộc ta, con cháu mai sau một niềm tự hào to lớn. Thắng lợi đó trước hết là thắng lợi của
ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 1.
Đồng thời là thắng lợi của đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Ngày nay, nghiên cứu về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, không ngồi mục đích nêu cao niềm tự hào của dân
tộc Việt Nam anh hùng, của một Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Mặt khác giúp
chúng ra rút ra những kinh nghiệm, những bài học quý báu cho công tác thực tiễn. Một
trong những bài học có giá trị lớn nhất là: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Với đường lối chính trị, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã phát động
cuộc chiến tranh nhân dân, tạo nên một thế trận cả nước đánh giặc, phát huy được tối
đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Để đạt được kết quả này, toàn Đảng, tồn qn, tồn dân ta đã đổ rất nhiều mồ
hơi, xương máu và nước mắt. Và một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu
được để ta đạt thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đó là nhờ ở đường lối lãnh đạo đúng
đắn và sáng suốt của nhà lãnh đạo. Nhìn ngược dịng lịch sử về với Việt Nam những
năm kháng chiến chống Pháp, ta sẽ thấy rõ hơn về vai trò của việc đề ra một đường lối
kháng chiến đúng đắn. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, em xin đi vào tìm hiểu đề tài:
“Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng”.
1.2. Mục đích của đề tài
Đề tài tập trung làm rõ đường lối kháng chiến mà Đảng đã sử dụng trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1945 - 1954, đánh giá thành quả của việc thực
hiện của các chủ chương đường lối của Đảng, nhằm rút ra được bài học cách mạng
đúng trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo về Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời góp phần làm tăng thêm lịng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm, biết
trân trọng, kế tục và phát huy tinh thần cách mạng cha ông để lại.


1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xoay quanh nội dung cơ bản của Đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược của Đảng.
b. Phạm vi nghiên cứu

1 Hồ Chí Minh, 2011, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, t.4, tr.534.


Về nội dung: Tập trung phân tích nội dung cơ bản của Đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng.
Về thời gian: Phần lịch sử Việt Nam từ năm 1945 – 1954.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê
Nin, em sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp để
trình bày, lý giải các sự kiện lịch sử, đường lỗi kháng chiến đã thực hiện trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1945 - 1954 một cách có luận cứ khoa học và
cơ sở thực tiễn.
1.5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của đề tài được chia
thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám.
Chương 2: Quá trình kháng chiến chống Pháp và nội dung cơ bản của Đường lối
kháng chiến của Đảng năm 1946 – 1955.
Chương 3: Kết quả, ý nghĩa lịch sử và bài học.


CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ CHỦ TRƯƠNG
KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC CỦA ĐẢNG


1.1. Hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá
quyết liệt. Công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đứng trước nhiều thuận lợi cơ bản
và khó khăn thử thách.
1.1.1.

Thuận lợi

Trong nước: Chính quyền nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương
đến địa phương. Nhân dân lao động đã làm chủ được đất nước. Lực lượng vũ trang
được tăng cường. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được tồn dân tin tưởng và
ủng hộ.
Trên thế giới: Chủ nghĩa Xã hội đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên Xơ
đứng đầu, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, phong trào
dân chủ và hịa bình cũng vươn lên mạnh mẽ.
1.1.2.

Khó khăn

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực
lượng đế quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn Đế quốc ra sức
đàn áp phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, giành
giật lại những thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành đối tượng đàn áp và giành giật của
các thế lực đế quốc và tay sai.
Theo thỏa thuận của Đồng minh ở Hội nghị Posdam, vấn đề giải giáp quân đội
Nhật ở Đông Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như sau:
- Từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở ra Bắc giao cho 20 vạn quân của Chính phủ
Tưởng Giới Thạch. Phía sau quân Tưởng chính là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt
Đông Dương dưới chế độ “ủy trị”, một kiểu chế độ thuộc địa trá hình mới của Mỹ.

- Phía Nam vĩ tuyến 16 được giao cho quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng
minh đã mở đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đơng Dương.
Khơng những thế ở Việt Nam cịn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cùng với quân Anh cầm súng dọn
đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về chính
trị, kinh tế, tài chính, văn hóa – xã hội:
Về chính trị: Hệ thống chính quyền cịn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh
đạo. Khối đại đồn kết tồn dân cần có thời gian củng cố. Khơng những thế các tổ
chức phản động “Việt quốc”, “Việt cách”, Đại Việt lại đang ráo riết hoạt động. Chúng
quấy nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi


theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và địi cải tổ Chính phủ lâm thời và các
bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức.
Về kinh tế: Kinh tế Việt Nam tiêu điều, xơ xác. Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn
chưa khắc phụ nổi, đê vỡ do lũ lụt đến tháng 8/1945 vẫn chưa khôi phục, hạn hán làm
cho 50% diện tích đất khơng thể cày cấy. Nhà máy nằm trong tay tư bản pháp, hàng
hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Nạn đói mới có nguy cơ xảy ra trong năm 1946.
Về tài chính: Ngân quỹ trống rống, kho bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu đồng,
trong đó có đến một nửa là tiền rách nát không thể dùng được. Ngân hàng Đông
Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng lại tung tiền “Quan kim” và
“Quốc tệ” đang mất giá gây rối loạn thị trường.
Về văn hóa - xã hội: Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là hơn 90% dân
số mù chữ. Các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc,
… tràn lan.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Chưa
bao giờ trên đất nước ta có nhiều thù trong, giặc ngồi đến vậy. Đất nước bị bao vây
bốn phía, Việt Nam đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc".

1.2. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng
Trước tình hình “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc
cấp bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc
ngoại xâm. Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngay sau khi Nhật đầu hàng
đồng minh, chính phủ Đờ Gơn quyết định thành lập một đạo quân viễn chinh tiến hành
xâm lược Việt Nam. Đêm ngày 22, rạng sáng ngày 23/9/1945, Pháp nổ súng tấn công
Trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ và Cơ quan tự vệ thành phố, mở đầu cuộc xâm lược
Việt Nam lần thứ hai. Đảng ta đã nêu chủ trương đánh Pháp để bảo vệ Nam Bộ, tổ
chức lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc,
vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Chiến lược: Đảng ta xác định tính chất của “cuộc cách mạng Đơng Dương lúc
này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng” 2. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ
vững độc lập.
Kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đơng Dương và
chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn
lửa đấu tranh vào chúng”2.
2,2 Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000, Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, t.8, tr.2627.


Nhiệm vụ: Chỉ rõ 4 nhiệm vụ chủ yếu là “củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”3.
Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung ương đề ra các cơng tác cụ thể:
- Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức
lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
- Về qn sự: Động viên lực lượng tồn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
- Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc "bình đẳng tương trợ", thêm bạn bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ

trương "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế"2 đối với Pháp.
Ở Miền Bắc, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp chống Đế quốc và
bọn phản cách mạng. Trong mối quan hệ với quân Tưởng và tay sai, chúng ta chủ
trương tránh mọi xung đột.
- Với Tưởng, ta nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện
giao thông, đồng thời đấu tranh hòa binh với chúng.
- Với bọn Việt quốc, Việt cách, chúng ta thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc
với chúng, nhường 70 ghế trong Quốc hội, trong đó có một ghế phó chủ tịch nước cho
chúng. Đổi lại, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức Chủ tịch nước, lực lượng cách mạng vẫn
nắm ưu thế trong Chính phủ và Quốc hội.
- Với bọn phản cách mạng, ta kiên quyết vạch trần và trừng trị theo pháp luật.
Ngày 11/11/1945, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thực
chất là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng.
Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, đặt nước ta trước
một tình hình mới. Lúc này, nếu chúng ta cầm súng chống Pháp có nghĩa là cùng lúc
chúng ta sẽ cũng phải đối phó với cả Pháp, cả Tưởng và quân đồng minh.Vì vậy, giải
pháp tốt nhất là chúng ta phải nhượng bộ có điều kiện với Pháp.
Lúc này, Pháp cũng đang muốn đàm phán với Việt Nam để xúc tiến nhanh chóng
việc đưa quân ra Miền Bắc, loại bỏ Tưởng. Đó chính là cơ sở dẫn đến việc ký kết Hiệp
định Sơ bộ (6/3/1946) giữa Việt Nam và Pháp. Trong hiệp định ta đã nhân nhượng cho
Pháp đưa 15.000 quân ra Bắc thay Tưởng giải giáp quân đội Nhật, số quân này đóng
tại những địa điểm quy định và rút dần trong vòng 5 năm. Nhưng mặt khác, Hiệp định
thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, nó chính là sự thừa nhận của Chính phủ
Pháp về sự tồn tại của Việt Nam với tư cách một quốc gia dân chủ cũng như thừa nhận
địa vị đại diện cho nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đập tan âm mưu
liên kết chống Việt Nam của Pháp và Tưởng. Tuy vậy chúng liên tục vi phạm: vi phạm
lệnh ngừng bắn ở Miền Bắc, cho quân đánh chiếm trái phép một số vùng ở Bắc Bộ,
3, 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, t.8, tr.2627.



thành lập chính phủ Nam kỳ tự trị hịng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Trước nguy cơ
cuộc chiến tranh Việt - Pháp đang đến gần, Chính phủ ta quyết định nhân nhượng ký
với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, tiếp tục nhân nhượng cho Pháp một số quyền
lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam để tạo thời gian hịa hỗn cho ta xây dựng, chuẩn
bị lực lượng bước vào cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi, chuẩn bị cho kháng
chiến lâu dài.
Ngày 20/11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn cơng chiếm đóng thành phố Hải
Phịng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 16/12/1946, những tên trùm thực
dân Pháp ở Đông Đương đã họp tại Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà
Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày 17 và 18/12/1946, tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát
thảm khốc đồng bào ta tại phố Hàng Bún, Yên Ninh, địi kiểm sốt an ninh trật tự ở thủ
đơ. Trắng trợn hơn, chúng còn gửi tối hậu thư buộc ta phải giao quyền kiểm sốt thủ
đơ cho chúng, nếu khơng, chậm nhất là sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng
hịa hỗn khơng còn. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước
một tình thế khơng thể nhân nhượng thêm được nữa, vì nhân nhượng sẽ dẫn đến họa
mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc địi nơ lệ.
Ngày 19/12/1946, Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng
Vạn Phúc - Hà Đông đã quyết định hạ quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc.
Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến
trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, “Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên đài tiếng nói nhân
dân Việt Nam.
Lúc này, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh chống Pháp với vai trị bảo
vệ Tổ quốc, tính chất của cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh
nhân dân bảo vệ hịa bình, chống lại kẻ thù xâm lược. Mặt khác, trải qua một quá trình
lâu dài thực hiện hịa hỗn với Pháp, giờ đây ta đã loại bỏ được các kẻ thù, chỉ còn lại
kẻ thù duy nhất là Pháp. Đặc biệt, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, quần
chúng nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng vấp phải một số
khó khăn nhất định. Lực lượng của ta so với Pháp cịn yếu, vũ khí trang bị lạc hậu hơn.
Ta bị cơ lập, bao vây bốn phía, chưa được công nhận địa vị trên trường quốc tế. Trong
khi Pháp lại có vũ khí tối tân và đã chiếm đóng được Lào, Campuchia và một số nơi ở
Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và những thuận lợi, khó khăn đó chính là cơ sở
để Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.


CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI KHÁNG
CHIẾN CỦA ĐẢNG NĂM 1946 – 1955

2.1. Thời kỳ 1946 – 1950
2.1.1. Quá trình hình thành

Dựa trên thực tiễn đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của Thực dân Pháp,
Đường lối kháng chiến của Đảng ta đã được hình thành và hồn chỉnh.
Trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945, Đảng ta đã xác định kẻ
thù chính và nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp.
Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ I ngày 19/10/1946 đã nhận định “khơng sớm
thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”4, và từ đó đề ta
những chỉ trương, biện pháp cụ thể về tư tưởng và tổ chức cho quân dân bước vào
cuộc chiến đấu mới.
Chỉ thị Công việc khẩn bây giờ (5/11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
những cơng việc tầm tồn cục, chiến lược.
Cuối cùng, Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể
hiện tập trung trong ba văn kiện lớn: Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (20/12/1946) của
Hồ Chủ Tịch, và Tác phẩm được tổng họp loạt bài đăng của Tổng Bí thư Trường
Chinh Kháng chiến nhất định thẳng lợi (1947).

2.1.2. Nội dung đường lối

a. Mục đích kháng chiến
Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược: Đây là mục tiêu thiết yếu trong giai
đoạn này bởi thực dân Pháp đã quay trở lại Việt Nam xâm lược nhằm đô hộ nước ta
thêm một lần nữa. Chỉ khi đánh bại thực dân Pháp thì đất nước mới có thể độc lập, dân
tộc mới được tự do.
Giành thống nhất và độc lập.
b. Tính chất kháng chiến
Tính chất dân tộc giải phóng: Cuộc kháng chiến mà Đảng phát động có mục đích
giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ từ tay thực dân Pháp, là một cuộc chiến tranh chính
nghĩa
Tính chất dân chủ mới: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh
tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hịa bình nhằm loại bỏ chế độ thực dân, đơ hộ
trước kia.
c. Chính sách kháng chiến
Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp: Cuộc chiến của
thực dân Pháp gây ra tại Đông Dương là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, khơng được
nhân dân tại chính nước Pháp ủng hộ. Vì thế khi liên kết với những người dân yêu
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000, Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội t.8, tr.133.


chuộng hịa bình tại Pháp, ta có thể tạo thêm một mặt trận ngay đằng sau lưng địch,
làm kẻ địch suy yếu, mất đi sự ủng hộ của nhân dân.
Đoàn kết Mên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do hịa bình: Mên, Lào là
các quốc gia trên cùng bán đảo Đơng Dương và cùng có chung kẻ thù là thực dân
Pháp. Khi liên kết cùng với 2 quốc gia này, sức mạnh của ta sẽ được gia tăng, phạm vi
hoạt động kháng chiến cũng được mở rộng. Việc tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc
yêu chuộng tự do hịa bình có thể đem lại cho chúng ta sự ủng hộ trên trường quốc tế
cũng như cả vật chất (nếu có).

Tồn dân kháng chiến.
Tự cấp, tự túc về mọi mặt: Đây là cuộc kháng chiến của dân tộc ta, không nên
trông cậy vào sự giúp đỡ từ bên ngoài mà phải huy động sức mạnh của toàn dân, nỗ
lực vượt khó để kháng chiến đi đến thắng lợi.
d. Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến
Đồn kết tồn dân: Thực hiện quân, chính, dân nhất trí…
Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến, trường là kháng chiến.
Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.
Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ.
Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc.
 Hai nhiệm vụ song song: Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.
e. Phương châm tiến hành kháng chiến
Kháng chiến toàn dân: Thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm
là một pháo đài. Huy động lực lượng toàn dân tộc để kháng chiến chống Pháp.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch trên mọi mặt trận: chính trị, qn sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao.
- Chính trị: tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền. Kết hợp đoàn kết với
Miên,
Lào và các dân tộc yêu chuộng hịa bình.
- Qn sự: Vũ trang tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Triệt để
dùng du kích, vận động chiến. Bào tồn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Vừa đánh vừa
tiếp tục vũ trang và đào tạo thêm cán bộ.
- Kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến (phá hủy tất cả những thứ địch có thể dùng
được
khi ta rút lui), xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp và quốc phòng - những ngành thiết yếu phục vụ cho
kháng chiến trường kì, tồn dân.



-

Văn hóa: Xóa bỏ văn hóa cũ là phong kiến, thực dân để xây dựng văn hóa
mới
theo 3 nguyên tắc: dân tộc (văn hóa mang bản sắc dân tộc), khoa học (văn hóa hiện
đại, phù họp với cuộc sơng mới), đại chúng (văn hóa phù họp với đại đa số quần
chúng, không quá cao hay lạc hậu).
- Ngoại giao: Thêm bạn (đặc biệt liên hiệp với dân tộc Pháp chống bọn phản
động thực dân), bớt thù, biểu dương lực lượng, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công
nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến trường kỳ: Chống lại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc
Pháp, nhằm phát huy tất cả lợi thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chuyển từ tương quan
yếu hơn thành mạnh hơn, đánh thắng địch.
 Đây là phương châm hợp lý vì khi bắt đầu vào cuộc kháng chiến, lực lượng ta
còn yếu, địch thiện chiến, mong muốn đánh nhanh thắng nhanh nen ta cần tránh đối
đầu trực diện với chúng. Ta kéo dài cuộc chiến có thể gây thiệt hại lớn cho địch về chi
phí vật chất lẫn nhân lực, trong khi đó ta có thêm thời gian thích ứng, chuẩn bị, đào tạo
thêm quân đội, tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng hịa bình.
Dựa vào sức mình là chính: Tự cấp, tự túc về mọi mặt. Mới bắt đầu vào cuộc
kháng chiến, ta bị địch bao vây, phải tự trang bị cho chính mình để duy trì kháng chiến
lâu dài mới có thể chờ thời cơ phá vỡ vịng vây, tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
f. Triển vọng kháng chiến
Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
 Đảng đã nhận định ,đánh giá tình hình hợp lý, khích lệ tinh thần nhân dân về
một
cuộc kháng chiến nhất định thành công một cách đúng lúc khi cuộc kháng chiến mới
bắt đầu, giúp cuộc kháng chiến có thể sớm đi vào đúng quỹ đạo và phát triển ổn định.
2.1.3. Sự chỉ đạo triển khai đường lối và các bước phát triển trên mặt trận quân sự

a. Chống âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh”

Từ những ngày đầu kháng chiến, với sự chiến đấu ngoan cường, quân dân cả
nước đã chặn đánh địch khắp nơi, tiêu hao binh lực địch, giam chân và ngăn chặn
bước tiến của chúng, gìn giữ và phát triển lực lượng của ta.
Một bước tiến quan trọng là Chiến dịch Việt Bắc.
Ngày 15/10/47, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phải phá tan cuộc tấn
cơng mùa đơng của giặc Pháp, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta
phải gây thiệt hại nặng cho địch, giữ vững chính quyền dân chủ, phá vỡ các chính
quyền bù nhìn, về quân sự phải đánh mạnh trên khắp các chiến trường... Trong tái
chiến phải biết giữ gìn chủ lực của ta và phải nhằm vào chỗ yếu của địch mà đánh.


Thực hiện chỉ thị của Đảng và căn cứ vào thực tế chiến trường, với lối đánh mưu
trí linh hoạt, trải qua 75 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn.
Những thắng lợi trên đây đã làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của
thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
b. Chống âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến hanh, dùng người Việt trị
người
Việt”
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (tháng 1/1948) đã đề ra nhiệm vụ
và các biện pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm thúc đẩy kháng chiến
tiến lên giai đoạn mới. Đảng chú trọng đẩy mạnh chiến tranh du kích; củng cố khối
đoàn kết toàn dân; phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, tịch thu ruộng đất
của bọn phản quốc cấp cho dân nghèo, thực hiện giảm tơ, chia lại cơng điền; phát triển
văn hóa, giáo dục; tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc.
Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ lực, tháng 11/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự.
Đảng và Chính phủ quan tâm chăm lo bồi dưỡng sức dân; thực hiện chính sách
ruộng đất, với tư tưởng chỉ đạo là dùng phương pháp cải cách mà dần dần thu hẹp

phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến bản xứ lại đồng thời sửa chế độ ruộng đất.
Từ năm 1949, nhiều địa phương đã xúc tiến việc thống nhất Việt Minh và Liên
việt trên phạm vi toàn quốc. Đảng chú trọng nêu cao tinh thần lương giáo đoàn kết,
giác ngộ giáo dân; binh sĩ ngụy; tranh thủ tầng lớp trên và kiên quyết trừng trị bọn
phản động đội lốt tôn giáo.
Trên mặt trận văn hóa, Hội nghị Văn hóa Tồn quốc tháng 7/1948 đã xác định
đường lối nhiệm vụ cơng tác văn hóa trong kháng chiến. Trường Chinh đã trình bày
bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”, vạch rõ đường lối, phương châm
xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng qua việc thử thách và kết nạp Đảng viên
và qua cuộc vận động xây dựng “chi bộ tự động công tác”.
Kết quả của những chỉ đạo triển khai đường lối trên đây của Đảng là âm mưu
“lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp bị
thất bại; chiến tranh nhân dân được đẩy mạnh và lực lượng cách mạng được xây dựng,
củng cố về mọi mặt.
c. Chiến dịch biên giới 1950


Tháng 9/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Biên
giới, đánh dấu lần đầu tiên ta chủ động mở chiến dịch tấn công quy mô lớn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Phối hợp
với chiến dịch, quân dân cả nước tăng cường chiến đấu trên khắp các mặt trận. Kết quả
thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã đập tan tuyến phòng thủ của địch, giải phóng
hồn tồn vùng biên giới, tạo cánh cổng để Việt Nam liên lạc với các nước Xã hội Chủ
nghĩa bên ngoài. Đây cũng là bước ngoặt cho sự trưởng thành về trình độ tác chiến và
chỉ đạo của quân đội ta, giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ.
2.2. Thời kỳ 1951 – 1954
2.2.1. Tình hình mới


Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đơng Dương có nhiều
chuyển biến mới. Sự ra đời của các nước Xã hội Chủ nghĩa, chiếm 1/3 dân số đã tạo ra
một thế rất vững chắc, một lực lượng hùng hậu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển
của cách mạng nước ta. Đặc biệt sự ra đời của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã làm
thay đổi căn bản tương quan lực lượng trên trường quốc tế có lợi cho hịa bình và cách
mạng. Nước ta đã được các nước Xã hội Chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao, trong đó có Trung Quốc và Liên Xô. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước
Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song, lợi dụng tình thế khó
khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc đấu tranh Đơng
Dương, vừa giúp đỡ Pháp vừa tìm cách hất cẳng Pháp. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu
cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng cho phù hợp với tình hình, từ đó đưa
cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản
Đông Dương được triệu tập tại Tuyên Quang.
2.2.2. Nội dung đường lối

Đại hội đã nhận thấy do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân
mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một Đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra
hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Quá trình hình thành Đảng Lao động Việt Nam:
- Sự hình thành và lớn mạnh của các nước Xã hội Chủ nghĩa, nhất là Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, làm thay đổi tương quan lực lượng trên trường quốc tế có lợi
cho hịa bình và cách mạng.
- Đế quốc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, vừa giúp Pháp vừa tìm cơ
hội hất cẳng Pháp.
- Đến đầu năm 1951, nước ta đã được các nước Xã hội Chủ nghĩa công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao.
 Đảng phải ra công khai để lãnh đạo kháng chiến lấy tên Đảng là Đảng Lao
động



Việt Nam
 Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận “Báo cáo chính trị” của chủ tịch Hồ Chí
Minh, “Báo cáo hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới
chủ nghĩa xã hội” của Trường Chinh, “Báo cáo về tổ chức và điều lệ Đảng” của Lê
Văn Lương.
- “Báo cáo chính trị” Hồ Chí Minh:
Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh
bại bọn can thiệp Mỹ dành thống nhất độc lập hồn tồn, bảo vệ hịa bình thế giới. Để
hồn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra những chính sách biện pháp tích cực: tăng
cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc,
mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế, đẩy mạnh công tác
xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một Đảng to lớn mạnh mẽ, chắc chắn,
trong sạch, cách mạng triệt để” 5 để lãnh đạo được kháng chiến đến thắng lợi hồn
tồn.
- "Báo cáo hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân
tiến
tới chủ nghĩa xã hội” của Trường Chinh:
Báo cáo trình bày tồn bộ đường lối cách mạng Việt Nam: Đó là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được phản ánh trong
chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là:
Tính chất xã hội: Xã hội hiện tại gồm 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất này đấu tranh, mâu thuẫn lẫn nhau, nhưng
mâu thuẫn cơ bản nhất vẫn là giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa.
Cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng: Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm
lược cụ thể là thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ; đối tượng phụ hiện nay là phong
kiến cụ thể là phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di tích phong kiến và

nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau, song nhiệm vụ chính
trước mắt là hồn thành giải phóng dân tộc.
Động lực cách mạng gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,
tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, nhân dân yêu nước tiến bộ. Nền tảng là khối liên
minh cơng, nơng, trí thức lãnh đạo cách mạng là giai cấp cơng nhân.

5 Hồ Chí Minh, 2011, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.41.


Đặc điểm cách mạng Việt Nam không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ
cũng không phải là cách mạng Xã hội Chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư
sản lối mới tiến triển thành cách mạng Xã hội Chủ nghĩa.
Triển vọng cách mạng: Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Việt Nam nhất
định sẽ đưa Việt Nam tiến tới Xã hội Chủ nghĩa.
Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội: Là một quá trình lâu dài và trải qua ba giai
đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai
đoạn 2 là xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có
ruộng, hồn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn 3 là xây dựng cơ sở cho Chủ
nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện Chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau
và mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau.
Quan hệ Quốc tế: Việt Nam đứng về phe hịa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước Xã hội Chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên
Xơ, thực hiện đồn kết Việt - Trung - Xơ và đồn kết Việt - Miên - Lào.
Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến
đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
Bổ sung và hồn thiện:
Đường lối chính sách được đưa ra tại Đại hội đã được bổ sung và phát triển qua
các hội nghị Trung ương tiếp theo.
Hội nghị Trung ương lần 1 (3/1951): Tập trung giải quyết các nhiệm vụ kinh tế

tài chính để bồi dưỡng sức dân và đảm bảo cung cấp cho quân đội; thực hiện phương
châm tác chiến là tiêu diệt địch, phát triển lực lượng 3 thứ quân, tăng cường công tác
địch vận.
Hội nghị Trung ương lần 2 (9/1951): Chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến
trên cơ sở thực hiện tốt 3 nhiệm vụ lớn là: gia sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới
giành ưu thế quân sự; gia sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, đẩy mạnh kháng chiến ở vung tạm bị
chiếm, củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, của toàn dân, củng cố và
phát triển đoàn kết.
Hội nghị Trung ương lần 4 (1/1953): Kiểm điểm tình hình thực hiện chính sách
ruộng đất, chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất.
Hội nghị Trung ương lần 5 (11/1953): Quyết định phát động quần chúng triệt để
giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến.
Quá trình thực hiện đường lối, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thẳng lợi
Thực hiện đường lối kháng chiến đã được đưa ra, Đảng và toàn thể nhân dân ta
đã chú trọng phát triển lực lượng, từ đó tạo điều kiện để mở các chiến dịch, đồng thời


kết hợp với đấu tranh ngoại giao nhằm giành những thắng lợi quan trọng để tiến tới kết
thúc cuộc kháng chiến.
 Phát triển lực lượng:
Chú trọng phát triển lực lượng ba thứ quân, phát động phong trào rèn cán chỉnh
quân, xây dựng bộ đội chủ lực. Bên cạnh xây dựng quân đội, chúng ta còn phát động
các phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm, phát triển văn hóa giáo dục, xây dựng Đảng,
củng cố chính quyền địa phương, phát động quần chúng đấu tranh địi giảm tơ, thực
hiện cải cách ruộng đất ... Tất cả đều nhằm xây dựng hậu phương vững chắc để làm
bàn đạp cho tiền tuyến.
 Mở các chiến dịch:
Trên đà thành công tại chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, phá được thế bị cô
lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt - Trung, quân đội Việt Minh đã

chủ động phản công. Tuy ở những chiến dịch này, cả hai bên đều chịu thương vong
khá lớn, nhưng kết quả cũng khá khả quan. Việt Minh đã học được cách đối phó với
chiến thuật và vũ khí của Pháp, đồng thời thâm nhập được sâu hơn vào trong vòng
cung phòng thủ của Pháp. Những chiến dịch này cũng làm quân Pháp đối phó bị động,
lung lay và suy yếu nhiều, có nguy cơ thất bại ở Đông Dương.
Kế hoạch Navarre và chiến dịch Điện Biên Phủ:
Để thực hiện kế hoạch này Pháp cho tiến hành xây dựng và tập trung lực lượng
cơ động lớn, mở rộng quân đội bản địa, càn quét bình định vùng kiểm sốt. Thực hành
tấn cơng chiến lược ở vùng Khu V, Henri Navarre được nhà nước Pháp cấp thêm cho 9
tiểu đoàn tinh nhuệ. Viện trợ Mỹ tăng vọt, chiếm đại đa số chi phí chiến tranh. Tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm sốt
liên thơng với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn
công và, theo kế hoạch của Pháp, quân Việt Minh sẽ bị nghiền nát tại đó.
Trước kế hoạch này của quân địch, dựa trên đường lối đã được đưa ra và sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng, chúng ta đã dồn toàn quân, huy động tối đa về sức người và
sức của để thực hiện chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm kháng chiến, toàn bộ
quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh, chúng ta đã giành thắng
lợi hồn tồn.
 Kết hợp đấu tranh ngoại giao:
Khơng chỉ đấu tranh quân sự, chúng ta còn thực hiện đấu tranh rất tích cực trên
mặt trận ngoại giao. Đặc biệt với những lợi thế của chúng ta trên mặt trận quân sự, mặt
trận ngoại giao giai đoạn này đã có điều kiện để đạt được rất nhiều thắng lợi. Thắng lợi
đầu tiên phải kể đến đó là việc khiến bốn bên là Liên Xô, Trung Quốc, Pháp và Mỹ
đồng ý đàm phán về vấn đề lập lại hịa bình ở Đơng Dương vào tháng 1/1954. Ngày 26
tháng 4 năm 1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đơng Dương chính thức được khai mạc. Và


đặc biệt, đến ngày 21/7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ chính thức được ký kết, đánh dấu
thắng lợi của ta đối với quân Pháp. Thắng lợi này cũng là minh chứng cho đường lối
lãnh đạo cách mạng đúng đắn của Đảng.


CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC

3.1. Kết quả của việc thực hiện đường lối kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954
3.1.1. Về chính trị

Đảng ta ra hoạt động cơng khai, có điều kiện kiện tồn tổ chức, tăng cường sự
lãnh đạo đối với kháng chiến.
Bộ máy chính quyền 5 cấp được củng cố.
Thành lập mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt).
Triển khai chính sách ruộng đất mới.
3.1.2. Về quân sự

Cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại đồn bộ binh, 1 đại đồn cơng
binh - pháo binh.
Tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai, dân cư.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân tộc.
3.1.3. Về ngoại giao
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình
ở Đơng Dương được kí kết.
3.2. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
Đường lối kháng chiến với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng
tạo. Đường lối kháng chiến chống Pháp là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
Đường lối kháng chiến chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm quân sự của nước ngoài vào Việt Nam.
Đây là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa “lấy yếu chống mạnh”,
“lấy ít địch nhiều”, “lấy chính nghĩa thắng hung tàn”.
Đường lối kháng chiến của Đảng được cơng bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc

kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới
thắng lợi vẻ vang. Thực hiện theo tinh thần của đường lối, từ năm 1947 đến năm 1950,


Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống Pháp trên tất cả các lĩnh vực và đặc biệt
giành thắng lợi vẻ vang trên mặt trận quân sự tại chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947
và chiến dịch Biên giới 1950, giáng địn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của địch, giành
được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Đến đầu năm 1951, tình hình thế
giới và cách mạng Đơng Dương có nhiều biến chuyển mới. Nước ta được các nước xã
hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của ba nước
Đông Dương giành được những thắng lợi quan trọng. Mỹ lợi dụng lúc Pháp gặp khó
khăn để can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến Đông Dương. Điều kiện lịch sử đặt Đảng ta
trước yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng. Tháng 2/1951, Đại hội đại
biểu Toàn quốc lần thứ II của Đảng họp tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa - Tun
Quang) thơng qua “Báo cáo chính trị” do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và báo cáo
“Bàn về cách mạng Việt Nam” do Trường Chinh trình bày. Bản báo cáo của Tổng bí
thư Trường Chinh sau này đi vào lịch sử dân tộc với tên gọi: “Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam”, xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiếp tục
hoàn thiện đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta và đường lối này
tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các Hội nghị Trung ương tiếp theo, như Hội nghị
Trung ương lần thứ nhất (tháng 3/1951), Hội nghị Trung ương lần thứ hai (từ ngày
27/9 đến ngày 5/10/1951), Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1/1953), Hội nghị
Trung ương lần thứ năm (tháng 11/1953).
Nhờ việc đề ra và thực hiện triệt để thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng
chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, đỉnh cao là thắng lợi trong Đông - Xuân 1953 - 1954 với chiến dịch Điện Biên
Phủ. Bảo vệ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, làm thất bại âm mưu xâm lược của
Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng công nhận độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ
của ba nước Đơng Dương. Nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời,
nó cũng mang trong mình ý nghĩa quốc tế. Cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải

phóng thuộc địa và là tiếng chuông báo tử cho hệ thống thực dân cũ trên toàn thế giới.
3.3. Bài học kinh nghiệm
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã
tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu.
Đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho tồn Đảng,
tồn qn, tồn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kết hợp chặt chẽ đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong
kiến và xây dựng chế độ Dân chủ nhân dân, đặt nền móng cho Chủ nghĩa xã hội, trong
đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính
quyền cách mạng.


Thực hiện phương châm vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng
hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của cuộc kháng chiến.
Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích
cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân
sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến
thắng lợi.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh
đạo của Đảng trong chiến tranh.
KẾT LUẬN

Đường lối cách mạng chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
thắng lợi của cuộc cách mạng. Nó là cơ sở để dẫn dắt cuộc cách mạng đi đến thành
quả cuối cùng. Một đường lối cách mạng đúng đắn kết họp với việc thực hiện triệt để
sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng thành công và ngược lại, một đường lối cách mạng
chưa xác định chính xác những vấn đề chính của cách mạng thì sẽ dẫn tới một cuộc
cách mạng không đạt kết quả nhu mong đợi.

Đảng ta đã căn cứ vào những điều kiện cụ thể của đất nước ta, vân dụng sáng tạo
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin để vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo, đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. Có thể nói, Đường lối kháng chiến chống
Pháp Đảng ta chính là kết tinh của trí tuệ con người, thể hiện năng lực lãnh đạo vững
vàng của Đảng ta. Nó góp phần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam hồn tồn xứng
đáng với vai trị lãnh đạo dân tộc Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học kinh nghiệm, 1996, Nxb
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
2. Bộ quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc khánh chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, 1995, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tập 2.
3. Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
25/11/1945 và nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng ngày 31/7/1946.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, tập 8.
5. Hồ Chí Minh, 2011, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tập 4.
6. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997, Chương trình cao cấp, NXB Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
7. Trường Chinh, 1975, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tập 2.



×