Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Lịch sử Làng chiến đấu Cảnh Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.01 KB, 113 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến thầy giáo T.s Nguyễn Thế Hoàn - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
động viên em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Khoa học xã hội
Trường Đại Học Quảng Bình đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban tuyên giáo huyện ủy Quảng Trạch,
Ủy ban xã Cảnh Dương, Ủy ban xã Quảng Hưng đã tạo điều kiện cho em thu thập đầy
đủ và chính xác những số liệu phục vụ công tác nghiên cứu trong quá trình thực hiện
khóa luận.
Trong quá trình thực hiện, do bước đầu làm quen với đề tài nghiên cứu, kinh
nghiệm và thời gian có nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, tháng 5 năm 2014
Tác giả thực hiện
Võ Thị Nhi
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thế Hoàn. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu khóa luận này là trung thực. Các thông tin trích dẫn
trong khóa luận có nguồn gốc rõ ràng và được chú thích đúng quy định.

Tác giả khóa luận
Võ Thị Nhi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐCS Đảng Cộng Sản
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐBT Hội đồng Bộ trưởng
NXB Nhà xuất bản


UBND Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Có ai về Cảnh Dương, quê tôi đứng nơi đầu sóng gió, truyền thống đánh
giặc giữ làng mãi mãi còn đây ”. Đó là những lời ca trong ca khúc vượt thời
gian “Quảng Bình quê ta ơi” mà nhạc sĩ Hoàng Vân ca ngợi làng kháng chiến
Cảnh Dương.
Nằm ở phía Bắc Quảng Bình, trải mình bên bờ biển cả mênh mông quanh
năm sóng vỗ, bên núi Phượng, sông Loan, làng biển Cảnh Dương như một chiếc
thuyền neo bình yên bên bờ biển biếc. Cảnh Dương là một trong tám bức tranh
văn vật của Quảng Bình: “Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim”. Ngoài ra,
Cảnh Dương còn biết đến là làng chiến đấu kiểu mẫu, một vùng đất rực rỡ chiến
công trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống lại đế quốc Pháp xâm lược, mặc dầu là một
thôn nhỏ trong xã Hòa Trạch, (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) nhưng là
một địa bàn trọng yếu của vùng Roòn về mọi mặt, nhất là lĩnh vực quân sự, Cảnh
Dương ở vào một vị trí chiến lược hết sức quan trọng, vùng đất này có vị trí là
cầu nối liền vùng tự do Thanh - Nghệ Tĩnh với phân khu chiến trường Bình - Trị
- Thiên, là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, đây chính là mục tiêu
chiến lược quân sự mà thực dân Pháp cần đánh chiếm để hòng chặt đứt mạch
máu giao thông, chiếm giữ Đèo Ngang và làm vị trí tiền tiêu quan trọng. Đặc
biệt, với vị thế ở sát biển, gần đường quốc lộ 1A rất thuận tiện cho việc tiến quân
về mặt giao thông thủy bộ, nếu chiếm được Cảnh Dương thì cả khu vực Roòn dễ
dàng nằm trong vòng kiểm soát của thực dân Pháp.
Trong suốt cuộc chiến đấu chống thực dân pháp xâm lược quân dân Cảnh
Dương đã phải chiến đấu với hơn 120 trận lớn nhỏ. Đứng trước một kẻ thù là
một đế quốc mạnh, lại được trang bị vũ khí tối tân có cả thủy lục không quân.
Nhưng nhân dân đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết một lòng đứng

dậy kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Liên khu IV,
Đảng bộ tỉnh, huyện ủy, chi bộ xã Hòa Trạch, nhân dân Cảnh Dương đã biết vận
dụng một cách sáng tạo trước mọi tình huống của chiến tranh, đồng thời tổ chức,
1
động viên toàn dân tham gia kháng chiến, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng
kẻ thù.
Là một bộ phận gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của nhân dân cả
nước, nhân dân Cảnh Dương đã sáng tạo, đồng lòng đồng sức xây dựng nên “Hàng
rào chiến đấu” chống thực dân Pháp xâm lược. Trở thành một trong những làng
chiến đấu anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là làng kháng chiến kiễu
mẫu không chỉ được nhân dân trong huyện, trong tỉnh, mà còn được nhân dân cả
nước học tập noi theo.
Hội nghị Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu IV ngày 26 – 2 - 1949 đã
tuyên dương làng Cảnh Dương (xã Hòa Trạch, huyện Quảng Trạch) là làng chiến
đấu kiểu mẫu. Cùng với những thắng lợi đó Cảnh Dương đã vinh dự được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhà nước tặng danh hiệu “Làng chiến đấu anh dũng”.
Như vậy, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Cảnh Dương đã anh dũng
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Không chỉ tham gia chiến đấu chống
thực dân Pháp, nhân dân Cảnh Dương còn tham gia sản xuất, phục vụ cuộc sống,
đảm bảo lương thực, thực phẩm và chi viện cho cuộc kháng chiến. Bên cạnh đó
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, cũng được nhân dân phát huy một
cách cao nhất để phục vụ cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Tên tuổi làng kháng chiến Cảnh Dương đã trở thành một biểu tượng mẫu
mực của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Vì những lý do trên mà tôi đã chọn vấn đề: “Làng chiến đấu Cảnh Dương
trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về Cảnh Dương trong kháng chiến
chống Pháp xâm lược.

Cuốn “Quảng Bình kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 –
1954)”, Thường vụ tỉnh ủy, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình viết
về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Quảng Bình,
có một số điểm ca ngợi và nói về hàng rào chiến đấu chống Pháp của nhân dân
Cảnh Dương ở Quảng Trạch. Nhưng chỉ là sơ lược không đi sâu và đầy đủ chi
tiết về các trận đánh.
2
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình (1930 – 1954)”, Tập I, Đảng cộng sản
Việt Nam Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, tháng 2 – 1995, đã có đề cập
sơ lược về làng chiến đấu Cảnh Dương, nhưng không đề cập đến tiến trình, đặc
điểm từng cuộc chiến của quân và dân Cảnh Dương.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Trạch, Tập I (1930 – 1954)”, Đảng
cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Trạch, tháng 8 –
1997, nói về Đảng bộ toàn huyện Quảng trạch, nói về cuộc chiến tranh chống
Pháp của quân dân Quảng Trạch, nhưng không đi vào cụ thể tất cả các vấn đề
của Cảnh Dương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Cảnh Dương (1930 – 2000)” Tập I, Ban chấp hành
Đảng bộ xã Cảnh Dương, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, đã
khái quát về các hoạt động yêu nước, phong trào đấu tranh cách mạng tháng Tám
1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1930 – 1954). Nhưng chỉ nói
một cách khái quát về Cảnh Dương trong chiến tranh chống Pháp.
Cuốn “Cảnh Dương chí lược”, Trần Đình Vĩnh chủ biên, Ủy ban nhân dân
xã Cảnh Dương, Sở văn hóa thông tin Quảng Bình, cuốn sách chỉ nói một cách
“chí lược”, khái quát về xã Cảnh Dương trong tất cả các mặt.
Cuốn“Cảnh Dương làng biển anh hùng” của tác giả Nguyễn Ngọc Phúc, Nhà
xuất bản Lao Động Hà Nội 2011, viết về Cảnh Dương ở các mặt khoa bảng, làng
chài lưới, văn hóa, nhưng không làm rõ làng Cảnh Dương chống thực dân Pháp.
Ở các công trình nghiên cứu trên, các tác giả, nhóm tác giả đề cập về làng
chiến đấu Cảnh Dương ở nhiều phương diện và góc nhìn khác nhau. Nhưng vấn
đề Cảnh Dương trong kháng chiến chống Pháp vẫn còn sơ lược, chưa hình thành

một hệ thống mang tính định hướng. Tuy nhiên, đó lại là những cứ liệu quan
trọng giúp tôi thực hiện đề tài của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng
Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu về một đối tượng cụ thể, đó là: “Làng
chiến đấu Cảnh Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 –
1954)”.
Ngoài ra, để làm rõ hơn thì khóa luận này còn tìm hiểu sơ lược về điều kiện
tự nhiên, nhân dân Cảnh Dương với truyền thống yêu nước cách mạng, công
3
cuộc bảo vệ và củng cố chính quyền cánh mạng, sự chuẩn bị về mọi mặt của
Cảnh Dương trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
3.2. Phạm vi
- Về không gian: Với phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu về làng Cảnh Dương.
- Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
Cảnh Dương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954.
3.3. Nhiệm vụ
Đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau:
- Thứ nhất: Cảnh Dương và truyền thống yêu nước cách mạng của nhân
dân.
- Thứ hai: Cảnh Dương trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược 1945 – 1954.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Tiến hành nghiên cứu khóa luận trên cơ sở vận dụng quan điểm phương pháp
luận Mácxít – Lêninnít và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức nghiên cứu lịch
sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng kết hợp hai phương pháp
chính là phương pháp lịch sử và phương pháp Lôgic.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tôi còn sử dụng phương pháp sưu tầm,
phân loại tư liệu, phương pháp phân tích, so sánh và đánh giá tư liệu.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã tập trung nghiên cứu và đi sâu vào vấn đề về “Làng chiến đấu
Cảnh Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)”.
Từ đó làm rõ được đặc điểm của làng chiến đấu Cảnh Dương – một làng chiến
đấu kiểu mẫu trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, về công tác chuẩn bị của
quân và dân Cảnh Dương trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược lần thứ hai.
Khóa luận đã dựng lại bức tranh tương đối hoàn chỉnh về cuộc kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954) của nhân dân Cảnh Dương.
4
Khóa luận đã góp một phần nhỏ về việc làm sáng tỏ hơn vai trò của quân và
dân Cảnh Dương trong sự nghiệp chung thống nhất nước nhà. Thể hiện được sức
mạnh và sự sáng tạo của quân và dân Cảnh Dương. Bài học về “hàng rào chiến
đấu chống Pháp xâm lược”. Làm cho chúng ta nhận thấy được tội ác của thực
dân Pháp đối với nhân dân Cảnh Dương nói riêng và dân tộc ta nói chung.
Rút ra được nguyên nhân thắng lợi, khẳng được sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của tỉnh ủy Quảng Bình, huyện ủy Quảng
Trạch và chi bộ xã Hòa Trạch trong việc tổ chức, chỉ đạo quần chúng nhân dân
tham gia kháng chiến đánh bật được tất cả kẻ thù xâm lược.
Sưu tầm, bổ sung tài liệu địa phương, góp phần nghiên cứu về cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945 – 1954), từ đó phục vụ giảng dạy lịch sử dân tộc và lịch sử
địa phương.
Giáo dục truyền thống, bồi dưỡng tình cảm cách mạng, lòng yêu quê hương
đất nước của nhân dân Cảnh Dương.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung khóa

luận được chia làm 2 chương với bố cục như sau:
- Chương 1: Cảnh Dương và truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân.
- Chương 2: Làng chiến đấu Cảnh Dương trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược 1945 – 1954.
5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CẢNH DƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Trên con đường từ Bắc vào Nam, qua đèo Ngang chưa đầy 10 km về phía
Đông Nam, từ trung tâm thị xã Ba Đồn (Quảng Trạch) ra phía Bắc theo đường
quốc lộ 1A chừng 17 km, khi đứng trên cầu Roòn nhìn về hướng biển, ta sẽ thấy
một một vùng quê trù phú xinh đẹp, tấp nập thuyền bè vào ra, một làng biển thơ
mộng, giàu truyền thống khoa bảng. Đó là xã Cảnh Dương anh hùng, được mệnh
danh là “Pháo đài thép” trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Làng Cảnh Dương nằm trên cửa biển phía hữu ngạn con sông Roòn bốn
mùa xanh biếc, nằm giữa hai địa danh là núi – sông ôm choàng lấy vùng đất
Quảng Trạch (Quảng Bình). Là một trong bảy xã vùng Roòn nằm ở phía Bắc
Quảng Trạch, có tọa độ địa lý ở vào 17
0
50’ – 17
0
52’ vĩ độ bắc, 106
0
26’05” – 106
0
27’ độ kinh đông với diện tích là 1,52 km
2
.

Ở vị trí cửa rừng, cửa biển, Cảnh Dương như một nhân chứng lịch sử
trường tồn nằm giữa cảnh quan nước non kỳ thú. Khép mở nửa vòng cung phía
Tây từ Sông Gianh ra hay từ Đèo Ngang vào núi non trùng điệp: Lỗi Lối, Chóp
Chài, Thành Thang, Mồng Gà, Cao Mại, Lệ Sơn,… “mà khối Hoành Sơn là chú
voi đầu đàn trong đàn voi cổ đại, ào ạt tiến về phương Nam, chạy gần sát ra biển”
[11; 7]. Mở nửa vòng cung phía Đông là biển trời bao la với nào mũi, nào ghềnh,
nào vũng, nào đảo. Xét về kinh tế chính trị, Cảnh Dương bao giờ cũng là trung
tâm để giao lưu buôn bán của vùng và có vị trí địa lý quan trọng về mặt quân sự.
Về mặt vị trí địa lý, phía Bắc Cảnh Dương giáp với con sông Roòn thơ mộng,
phía Nam giáp với xã Quảng Hưng, phía Tây giáp với kênh Xuân Hưng lịch sử
và phía Đông giáp với biển Đông.
Như vậy, ta thấy Cảnh Dương là một vùng đất đẹp, được bao quanh bởi
sông nước, biển khơi, xa xa có núi. “Cảnh Dương nằm trên một bán đảo, thoạt
nhìn Cảnh Dương như một con thuyền đang thả neo trên sông nước”, rồi “Trong
6
bức tranh sơn thủy, làng biển Cảnh Dương như một nhụy hoa của bông hoa vũ
trụ mà tạo hóa đã ban phát cho con người” [11; 7].
Về kiến trúc tổng thể, xã Cảnh Dương như một đô thị nhỏ: “Đường vào
Cảnh Dương từ quốc lộ 1A địa phận thôn Di Luân khách vượt cây cầu xi măng
dài ba mươi hai mét, rộng sáu mét, rải đá biên hòa. Vào làng Cảnh Dương ta như
lạc vào một thành phố cổ, có người so sánh cảnh Dương như làng của người Ai
Cập, có người tìm về một làng phố cổ. Ta chỉ biết đường sá ngang dọc hình bàn
cờ, nhà ngói san sát nhau, mỗi nhà đều có bốn bức tường san hô bao quanh tạo
thành tầng tầng lớp lớp bức tường đá…” [11; 9]. Hay như Nguyễn Ngọc Phúc đã
miêu tả rằng: “Ngày trước địa hình Cảnh Dương như một chiếc quạt, từ đầu về
làng là cánh quạt, từ đầu làng xòe ra thành chiếc quạt nan là ba con đường… về
cơ bản đường xá của Cảnh Dương được xây dựng theo hình bàn cờ…” [7; 104].
Như vậy, trước đây chính nhờ kết cấu tổng thể “Pháo đài làm bằng san hô”
kết hợp với các loại cây rừng mọc xen với dứa dại quanh làng làm thành hàng rào
chiến dấu mà trong kháng chiến chống Pháp và cả chống Mỹ dân làng Cảnh

Dương đã phát huy được sức mạnh làng xã của mình.
Ngày nay, tổng thể kiến trúc làng xã Cảnh Dương cũng chằng chịt, nhà sát
nhà, đường xá quanh co, vào làng rất khó xác định được lối đi. Đúng là như một
thành phố cổ. “Trong chín năm kháng chiến Cảnh Dương, tất cả những con
đường dẫn đến các ngã trong xã đều có cừ bằng đá san hô. Cừ là hai lớp tường
xây bằng đá san hô hơi lệch nhau. Khi chiến sự xẩy ra, du kích bố trí lực lượng
chốt ở các cừ đầu đường sẵn sàng súng đạn chờ giặc tới để chiến đấu. Các làng
nông nghiệp giao thông hào là những hào đào sâu vào lòng đất còn ở Cảnh
Dương, giao thông hào hình thành bằng việc đục tường các nhà trong từng chòm
làm thành một hệ thống giao thông chằng chịt mà địch không thể nào hiểu nổi.
Từ các giao thông hào, sau những bức tường là các chiến sĩ du kích người dùng
súng người dùng giáo mác tự tạo sẵn sàng tiêu diệt giặc” [7; 105].
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Cảnh Dương nằm trên cửa biển phía hữu ngạn sông Roòn, con sông bốn
mùa xanh biếc. Như bao làng quê khác của tổ quốc Việt Nam, Cảnh Dương có bề
dày lịch sử từ ngày tạo lập quê hương cùng với nền văn hóa phong phú và truyền
7
thống cách mạng kiên trung, truyền thống đó được bồi đắp theo chiều dài của
thời gian, đứng vững trên nền đất hiền hòa, tươi đẹp và con người anh dũng, bất
khuất, cần cù, bình dị.
Ở Cảnh Dương, có biển, có sông, còn có vũng gọi là Vũng Chùa.
Địa phận thuộc Vũng Chùa xưa chính là căn cứ thủy quân của quân Trịnh
trong cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn. Vũng chùa thuận tiện cho ngư dân đánh
bắt gần bờ, đặc biệt là nghề câu.
Gió Bắc thì dựa Vũng Chùa
Gió Nồm dựa chụt, bốn mùa như ao
Cảnh Dương còn có các đảo như đảo La (cao 119 mét, diện tích chừng 0,4
km
2
), đảo Nồm, đảo Cỏ tạo thành thế chân vạc vững chải như một bức hình

phong che chắn gió mùa Đông Bắc thổi vào Cảnh Dương. Nhìn ra khơi xa của
biển Cảnh Dương thấy có một hòn đảo mù tít, đó là hòn Ông (có nơi gọi là hòn
Gió) bởi nó thường thay đổi hình dạng theo gió nước: hình cỗ xôi, hình cái mâm,
hình cái chúp Đảo cách bờ 1 km, cao 83 mét, diện tích chừng 0,07 km
2
. Hòn
Ông được coi là vọng gác tiền tiêu ở phía Bắc Quảng Bình. Tiêu biểu hơn cả là
hòn Lố, nằm trên đường giao lưu của các luồng cá. Dựa vào đặc điểm này, nhân
dân Cảnh Dương đã đánh bắt thủy sản hằng năm với trữ lượng lớn. Người Cảnh
Dương từ lúc sinh ra đã hướng ra biển. Địa hình đa dạng đó đã được nhân dân
tận dụng khai thác và đúc kết thành những kinh nghiệm trong sản xuất, lưu
truyền từ đời này sang đời khác.
“Tháng Tám hòn La, tháng Ba hòn Lố”
Ngoài ra ở Cảnh Dương còn có cửa lạch, có rạn ngầm, có bờ đá, có vịnh và
có cả bãi ngang, còn có dãy Hoành Sơn cách Cảnh Dương 4 km. Dãy Hoành Sơn
(còn gọi là núi phượng) là Phên dậu phía Nam của nước Đại Việt, ở vào vị trí
xung yếu, ngăn cách hai dãy đồng bằng Thanh – Nghệ - Tĩnh và Bình – Trị -
Thiên. Nằm trước mặt làng, là một kỳ quan kỳ thú mà tạo hóa ban cho con người,
miền đất “địa linh nhân kiệt”. Người Cảnh Dương chọn dãy Hoành Sơn làm
hướng làng. Hoành sơn góp phần tạo ra những bãi đá san hô, những mũi, những
rạn ngầm và đảo nhỏ ở Cảnh Dương.
8
Nối liền giữa các mũi là những bãi cát phẳng lì, trắng phau, tạo thành những
bãi tắm lý tưởng. Vùng biển Cảnh Dương có địa hình đa dạng, có mũi biển là
phần cuối của dãy Hoành Sơn, từ Bắc xuống Nam có mũi Đao, mũi Độc, mũi
Ông, mũi Rồng.
Biển Cảnh Dương được chia làm hai vùng rõ rệt là vùng biển san hô và
vùng biển bãi ngang. Vùng biển san hô là vùng biển tiếp giáp chân dãy Hoành
Sơn đổ ngầm ra biển và vùng biển bãi ngang từ cửa lạch Roòn kéo đến cửa
Gianh. Ranh giới vùng biển san hô là từ cửa lạch Roòn lên phía Bắc, còn vùng

biển bãi ngang là một vòng cung, cửa mở hướng Đông Nam là cái rọ của mùa cá
nổi, vùng bãi ngang đáy nông, cát lẫn bùn sền sệt với nhiều phù du. Hai vùng
biển này là nơi giao lưu, cư trú và sinh sản của nhiều sản vật quý hiếm của biển
cả với nhiều tôm, cá, mực, san hô,… một vùng đất trù phú đã trở thành nơi sinh
cơ lập nghiệp, nuôi sống con người từ khi tạo dựng cuộc sống đến nay.
Tài nguyên ở Cảnh Dương ít đa dạng nhưng nếu biết tận dụng khai thác thì
sẽ là nguồn lực lớn của quê hương. Thảm thực vật hạn chế, chỉ là những dãy phi
lao, dứa, các loài cây nước mặn (cây mắm, cây bần, cây đước ). Bù lại, Cảnh
Dương có nguồn đặc sản biển phong phú: tôm hùm, bào ngư, mực, hải sản, rau
câu, các loài cá, Đây là nguồn lợi đánh bắt xuất khẩu rất dồi dào. Hằng năm,
với trữ lượng đánh bắt lớn, ngư dân Cảnh Dương đã đem về cho quê hương sự
giàu có, và góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
Khoáng sản Cảnh Dương có trữ lượng đáng kể, phục vụ công cuộc phát triển
kinh tế, quốc phòng như: cát thủy tinh, đá san hô Cùng với thế mạnh “biển
bạc”. Cảnh Dương có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp: hòn La, hòn Lố, bãi
biển Ngày nay, với những chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội hợp lý, nhân
dân Cảnh Dương đang từng bước phát huy những thế mạnh của mình, tận dụng
nguồn lợi, đón lấy thời cơ, nhanh nhạy trước cái mới, xây dựng và phát triển
Cảnh Dương trên mọi mặt, phát huy truyền thống làng văn vật, làng anh hùng
trong lịch sử.
1.1.3. Giao thông
Với vị trí địa lý nói trên, làng Cảnh Dương có hệ thống giao thông hết sức
thuận lợi cả về đường bộ, đường biển, đường sông. Hệ thống đường giao thông
9
nối liền thông suốt từ Bắc vào Nam và từ Đông sang Tây tạo ra sự thuận lợi
trong liên lạc, giao lưu, buôn bán của cư dân nơi này.
Thứ nhất về đường bộ: Làng Cảnh Dương nằm dọc trên quốc lộ 1A, chạy
qua đầu làng. Chạy về phía Bắc cách thủ đô Hà Nội 434 km, về phía Nam Cảnh
Dương cách thành phố Hồ Chí Minh 1.303 km, cách thành phố Đồng Hới
khoảng 60 km, và cách thị xã Ba Đồn 17 km. Quốc lộ 1A có ảnh hưởng lớn đến

lịch sử, đời sống kinh tế xã hội của Cảnh Dương, đặc biệt trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ quốc lộ 1A đi vào làng Cảnh Dương là cây
cầu xi măng dài 32 mét, rộng 6 mét. Cây cầu tuy ngắn nhưng là điểm nút rất
quan trọng của nhân dân Cảnh Dương, nơi giao lưu thông thương giữa làng Cảnh
Dương với các vùng bên ngoài, nơi chứng kiến bao thế hệ người Cảnh Dương ra
đi bảo vệ Tổ quốc và trở về xây dựng quê hương. Qua cổng làng, đường lớn
được chia làm ba nhánh: một nhánh chạy qua phía Tây Nam làng ra tận bãi biển,
gọi là đường Hoành Lao: một nhánh khác chạy ven bờ sông tới của lạch Roòn, ra
bãi biển phía Đông, khép kín với đường Hoành Lao, trở thành một con đường
chạy quanh làng bốn phía; nhánh chính từ ngã ba đầu làng qua khu trung tâm
hành chính – văn hóa. Từ đường này có các đường nhỏ chạy về các xóm. Đường
bộ Cảnh Dương thẳng, rộng, và vuông góc với nhau (trừ đường Hoành Lao)
thuận tiện cho việc tổ chức các hoạt động kinh tế và giao lưu, sinh hoạt văn hóa
của địa phương.
Thứ hai về đường sông: Phía Tây đầu làng Cảnh Dương là con kênh Xuân
Hưng do quân Trịnh đào – nối liền sông Roòn với sông Gianh. Vào thế kỷ XVII,
trong gần 50 năm diễn ra cuộc phân tranh của hai tập đoàn phong kiến Trịnh –
Nguyễn (1627-1672), sông Roòn chính là con đường thủy chiến, đóng vai trò
quan trọng trong việc chuyển quân và chuyển lương từ Hà Tĩnh vào Bố Chính.
Sông Roòn hay còn gọi là sông Loan, là con sông gắn liền với dãy núi
Hoành Sơn mà người ta thường gọi là Sông Loan – Núi Phượng, có nghĩa là đôi
chim đẹp biểu tượng của tình yêu, người đời hài hước đã ví sông Roòn chính là
người bạn tình của núi Hoành Sơn. Lòng tự hào về mảnh đất Sông Loan núi
Phượng của người Cảnh Dương thể hiện qua câu thơ:
Sông Loan núi Phượng hữu tình
10
Bảng vàng, án ngọc, phân minh châu về.
(Trích trong bài phú của vua triều Nguyễn trên văn bia cụ Đỗ Phú Túc)
Là con sông duy nhất bắt nguồn từ dãy núi Hoành Sơn có chiều dài 30 km, lưu
vực sông khoảng 261 cây số vuông với 2 chi lưu là: Sông Hung Bàn và sông Thai.

Sông Hung Bàn (nay thuộc xã Quảng Hợp), là con sông cái chảy từ vùng
đồi núi Quảng Hợp về vùng Roòn qua các xã Quảng Kim, Quảng Châu, Quảng
Tùng, Quảng Phú rồi ra cửa Cảnh Dương.
Sông Thai ngắn hơn, chảy từ Kim Long xã Quảng Kim về Phú Lộc xã
Quảng Phú hợp với sông Cả rồi chảy ra cửa biển. Cửa sông Roòn hẹp, nông, có
nhiều đặc sản quý như tôm, cua, hàu, vẹm, cá hanh, cá buôi, cá đối, đặc biệt là sò
huyết…
Thứ ba là con đường biển: Nếu từ mũi Cửa Tùng (Quảng Trị) đến đảo Hải
Nam (Trung Quốc) dài 280 km được xác định là cửa Vịnh Bắc Bộ, thì biển Cảnh
Dương nằm trong cửa ngõ Vịnh Bắc Bộ nên cửa biển Cảnh Dương rất thuận lợi
cho tàu bè lưu thông, giao lưu, buôn bán ra Bắc cũng như là vào Nam. Từ Cảnh
Dương vào Đà Nẵng tàu khách sẽ vượt qua 174 hải lý, và từ Cảnh Dương ra Hải
Phòng tàu khách sẽ vượt qua cung đường 297 hải lý.
1.1.4. Về khí hậu
Là một vùng đất nằm ở phía Bắc Quảng Trạch (Quảng Bình) lại giáp với
biển Đông, Cảnh Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền
Trung. Mỗi năm Cảnh Dương có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa
khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 8, chịu sự khắc nghiệt của gió Phơn Tây Nam
(còn gọi là gió Lào), nhưng nhờ có gió biển chi phối nên khí hậu Cảnh Dương dễ
chịu hơn các vùng khác. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, là mùa hay có
bão và áp thấp nhiệt đới, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân Cảnh Dương bởi cuộc sống của họ gắn liền với biển cả. Hằng
năm trung bình có 1700 – 1900 giờ nắng và 160 – 190 ngày mưa. Nhiệt độ tháng
thấp nhất (tháng 1) là 17,7
0
C; tháng cao nhất (tháng 5) là 29,2
0
C. Lượng mưa lớn
nhất trong năm thường xảy ra là tháng 9 (1169,8 mm), tháng 10 (1405,7 mm).
Lượng mưa hằng năm dao động trong khoảng 1519,9 – 3110,5 mm [8; 25]

thường gây thiên tai và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân.
11
Với đặc điểm khí hậu nói trên, thiên nhiên đã ban tặng cho cư dân làng biển
Cảnh Dương những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế như nghề chài lưới,
vận tải biển, buôn bán hàng hóa, ngoài nghề lưới ở Cảnh Dương còn có nghề
câu, nghề thả bóng, nghề mành rút, đánh te, lặn ruốc, đi kheo, nghề chế biến
nước mắm Với nền kinh tế phát triển như vậy đã kéo theo đời sống tinh thần
của cư dân nơi đây hết sức đa dạng và phong phú, mang đậm đà bản sắc của một
vùng quê làng biển. Các phong tục tập quán thờ cúng, lễ tế, hội hè, ma chay, cưới
xin, như lễ tết Nguyên đán, lễ cầu ngư, cầu mùa, lễ tế ngưu Cùng với đó cư
dân nơi đây đã sáng tác ra các điệu hò như hò hụi, hò khoan, hò ý gia Nhưng
bên cạnh đó, cư dân ở đây cũng gặp không ít khó khăn. Đó là thường phải gánh
chịu nhiều trận mưa, bão, nạn cát bay, cát bồi, cát lở với thời tiết khắc nghiệt như
thử thách con người Cảnh Dương.
Như vậy, cùng với con người Quảng Bình nói chung, cư dân Cảnh Dương
phải oằn mình lên để gánh đỡ lấy những gánh nặng từ thiên tai mang lại. Nhưng
không vì thế mà cư dân nơi đây chịu khuất phục, trái lại, họ đã kiên cường chống
cự với thiên nhiên, chống cự với những khó khăn thách thức để xây dựng quê
hương ngày càng giàu mạnh hơn.
1.2. Cảnh Dương với truyền thống yêu nước
1.2.1. Sơ lược về nguồn gốc hình thành làng Cảnh Dương
Lịch sử khai canh lập ấp của Cảnh Dương bắt đầu từ Cồn Dưa, Lòi Mắm.
Theo cuốn “Bốn xã khai khẩn truyện ký” (soạn vào năm thứ 22, triều Cảnh Hưng
(1762), sao lục dưới triều Tự Đức, năm thứ 18 Ất Sửu (1865) nguyên văn chữ
Hán hiện còn lưu giữ tại nhà truyền thống của làng), làng Cảnh Dương được
thành lập vào năm Quý Mùi (1643).
Trong bài tựa cuốn: “Nguyễn Thị tiểu tông gia phả” do tú tài Nguyễn Gia
Miễn viết năm Tự Đức thứ 24, Tân Mùi (1871), cách đây 143 năm cũng đã ghi
về nguồn gốc của Cảnh Dươg như sau: “Nguyên trước, tổ tiên ta ở trang Cảnh
Dương huyện Châu Phúc, phủ Đức Quang, tỉnh Nghệ An. Ngày 18 tháng 11 năm

Quý Mùi (1643) triều Lê Chân Tông, hiệu Phúc Thái, tổ tiên ta cùng khai khẩn
ấy, rồi liệt vị tiên hiền cũng vào xứ Cồn Dưa (tức là thôn Bắc Hà) xã Thuần
Thuần, châu Bố Chính”. Khi vào khai hoang, lập ấp họ kết nghĩa anh em, cùng
12
nhau tạo lưới vó làm nghề đánh cá, lập nên nhà cửa, đào giếng phía Đông gọi là
giếng Đông và cùng nhau cư trú.
Qua đó, có thể thấy thời gian thành lập làng tương đối thống nhất, đó là năm
1643. Và từ Đông Chí năm Quý Mùi (1643) đến mùa hè năm Quý Tỵ (1653) có
đến 20 vị tiền khai khẩn và đồng khẩn quê ở Cảnh Dương trang, thuộc phủ Đức
Quang, huyện Chân Phúc, tỉnh Nghệ An vào lập nghiệp ở xứ Cồn Dưa, cửa biển
làng Thuần Thuần, thôn Bắc Hà, châu Bố Chính (tức tả ngạn cửa sông Roòn –
Quảng Bình ngày nay). Trong tác phẩm “Cảnh Dương chí lược” có ghi chép 20
vị tiền khai khẩn và đồng khẩn là: Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn
Văn Lẫm, Phạm ăn Hữu, Phạm Văn Sảo, Đỗ Phú Thanh, (vào đời Lê Chân Tông
Phúc Thái nguyên niên (1643). Phạm Văn Ánh, Phạm Văn Hảo, Võ Văn Lan,
Phạm Khắc Hoàng, (ngày 20 tháng 09 mùa thi năm Đinh Hợi (1647) niên hiệu
Phúc Thái thứ 5 (triều vua Lê Chân Tông)). Đỗ Phú Thanh, Đỗ Văn La, Trương
Văn Trác, Trương Văn Pháo, Ngô Văn Hào, Ngô Cảnh Xuân, Ngô Phúc Lai, Vũ
Văn Nhương, Vũ Văn Nhiên, Nguyễn Văn Đức (Vệ), (ngày 08 tháng 06, mùa hạ
năm Quý Tỵ (1653) Thịnh Đức nguyên niên).
Sau khi cư trú, lập nghiệp ở đất Cồn Dưa suốt 12 năm, người Cảnh Dương
ở thôn Bắc Hà các vị tiền khẩn và đồng khẩn cho rằng: “Đất Cồn Dưa nhỏ hẹp
không thể lập làm xã hiệu được” [11; 27].
Như vậy, với tầm nhìn xa trông rộng và vốn hiểu biết của bản thân các ông
cho rằng vùng Cồn Dưa nhỏ hẹp không thể sinh sống lâu dài, phát triển nên đã
quyết định chuyển sang vùng đất phía Nam sông Roòn vào tháng 2 năm Ất Mùi,
tức năm Thịnh Đức thứ ba (1655). Đó là vùng Lòi Mắm trước đây thuộc địa phận
làng Di Phúc, nằm sát biển ngay cửa sông Roòn. Lúc chuyển qua thì dân cư chỉ
được 20 người, họ dựng năm ngôi nhà, đào hai giếng để sinh sống. Tác giả
Nguyễn Ngọc Phúc đã dẫn chứng: “Thủy tổ làng ta vốn sinh ở làng Cảnh Dương

huyện Châu Phúc, phủ Đức Quang, Nghệ An. Các ngài Nguyễn Văn An, Đỗ Phú
Thanh, bắt đầu vào xứ Cồn Dừa xã Thuần Thuần, châu Bố Chính khẩn hoang,
làm nghề sau đó rời đến xứ Lòi Mắm làng Di Phúc, dựng lên năm cái nhà, từ đó
sinh sản dần ngày càng đông, mới phân bổ việc quan, chịu thuế lệ, định cách
chức” [7; 8].
13
Về việc đặt tên làng: Người Việt Nam đặt tên làng luôn thể hiện sự ước
vọng của mình. Người Cảnh Dương cũng vậy, họ đặt tên làng để thể hiện được
ước mong, thể hiện được vẻ đẹp của quê hương mình. “Cảnh” là phong cảnh,
“Dương” là thái dương, là mặt trời. Dương trong từ đại dương là biển trời bao la.
Một nơi phía Bắc vừa có sông, vừa có núi, xa xa phía Nam có dãy Trường Sơn,
phía Đông có biển Đông. Đúng là một nơi đẹp.
Trước đây do nhiều nguyên nhân khác nhau nên tên làng thường bắt đầu
bằng chữ “Kẻ”. Như làng Di Luân gọi là “Kẻ Phường”, làng Phúc Kiều gọi là
“Kẻ Roòn”, còn “Kẻ Xã” là tên làng Cảnh Dương. Năm Mậu Tuất (1658) chính
thức đặt tên làng là làng Cảnh Dương.
- “Từ năm Quý Mùi – Quý Tỵ (1643 – 1653) hoàn thành việc di dân.
- Năm Ất Mùi (1655) đưa làng qua sông.
- Năm Mậu tuất (1658) đặt tên làng.
- Năm Bính Ngọ (1666) làm đình chùa.
- Bính Tý (1756) mở trường học” [12; 30].
“Sau khi chính thức định cư tại Lòi Mắm, tháng 4 năm Mậu Tuất, tức năm
Thịnh Đức thứ sáu (1658), các vị tiền bối bao gồm Nguyễn Văn An, Đỗ Phú
Thanh, Phạm Khắc Hoành, Trương Văn Pháo, Ngô Cảnh Xuân đồng nhất đặt tên
làng là Cảnh Dương. Như vậy, xã Cảnh Dương được công nhận đơn vị hành
chính từ thời Lê Thần Tông (triều Đại Lê – Trịnh) năm Mậu Tuất (1658). Tên
làng Cảnh Dương vẫn được giữ từ ngày thành lập đến nay” [13; 21]. Như thế, từ
năm 1658, ranh giới địa lý và truyền thống lịch sử xã Cảnh Dương ban đầu được
xác định một cách cụ thể cho đến bây giờ.
1.2.2. Cảnh Dương với truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng

Suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Cảnh Dương đã trải qua các bước thăng
trầm để xây dựng và bảo vệ quê hương. Sự phát triển của Cảnh Dương hôm nay
gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng, quật cường của con người nơi đây.
Trước hết, đó là lòng yêu quê hương, yêu nước của dân làng Cảnh Dương,
và được thể hiện đầu tiên qua việc xây dựng làng xã. Truyền thống yêu nước của
nhân dân Cảnh Dương thể hiện trong ý chí quật cường trước thiên tai, địch họa,
14
tinh thần cần cù, chịu thương chịu khó đã khai phá, cải tạo vùng đầm lầy thành
làng quê ven biển trù phú.
Từ khi được thành lập vào năm 1643 đến nay, nhân dân Cảnh Dương đã ra
sức xây dựng quê hương mình, chăm lo phát triển quê hương giàu mạnh. Và đến
bây giờ Cảnh Dương đã trở thành một trong những xã giàu có ở vùng Roòn. Do
điều kiện tự nhiên và đặc điểm của vùng, nhân dân Cảnh Dương sống bằng nghề
đi biển, đánh bắt cá, chế biến và buôn bán các loại hải sản, đặc biệt là nghề làm
nước mắm, nghề hàng hải, đóng tàu thuyền, buôn bán hàng hóa… Cùng với việc
xây dựng và phát triển kinh tế, nhân dân Cảnh Dương còn tạo dựng cho mình
một cuộc sống tinh thần phong phú với nền văn hóa đặc sắc, xây dựng các Hương
ước của làng, các phong tục tập quán, các lễ hội các điệu hò như Hò cạn, Hò hụi…
Lễ hội như hội Bơi trải, Giỗ tổ, Rước Động Mỏ, Cờ người… Xây dựng các công
trình văn hóa như chùa làng, đình làng, lăng tẩm… Dù phải đối mặt với thiên tai, lũ
lụt nhưng không vì thế mà người dân Cảnh Dương nhụt chí, trái lại, họ càng kiên
cường xây dựng quê hương thêm giàu mạnh.
Thứ hai là truyền thống hiếu học và truyền thống khoa bảng: Dân làng Cảnh
Dương chủ yếu sống nhờ nghề chài lưới trên sông biển, chế biến và buôn bán các
loại hải sản nhưng các vị tiên chỉ của làng ý thức được việc học của con cháu, và
họ đã xác định rằng chỉ có kiến thức mới xây dựng quê hương giàu mạnh. Nên
truyền thống yêu nước của nhân dân Cảnh Dương còn thể hiện ở việc học hành
khoa bảng. Trong các hương phả của Cảnh Dương luôn đề cao việc giáo dục, đào
tạo nhân tài, có chế độ khuyến khích người đỗ đạt. Khoán lệ của làng ghi rõ:
"Chính sự phong hóa càng phải rộng mở mới tận thiện, tận mỹ. Phàm làm việc gì

nhất thiết phải nói lời công minh, không được suy bì riêng tư, không được cường
hào mà phóng túng" ; "Khoa mục là con đường của sĩ tử, ai đi thi hội văn hay trúng
đệ nhất danh làng thưởng 100 quan; đệ nhị danh làng thưởng 50 quan". Trong sách
“Đại Nam nhất thống chí” của “Quốc sử quán” triều Nguyễn biên soạn theo lệnh
của vua Tự Đức, được đánh giá là bộ sách Địa lý học đầy đủ nhất dưới thời phong
kiến. Phần về phong tục tỉnh Quảng Bình, “Quốc sử quán” triều Nguyễn đã nêu
danh bốn làng có truyền thống khoa bảng: “… bốn xã Sơn, Hà, Cảnh, Thổ (Lệ Sơn
15
và La Hà thuộc huyện Minh Chính, Cảnh Dương và Thổ Ngõa thuộc huyện Bình
Chính) đời nào cũng có người khoa giáp”.
Làng hiếu học Cảnh Dương được tôn vinh là một trong tám bát danh hương
của Quảng Bình.
“Sơn, Hà, Cảnh, Thổ
Văn, Võ, Cổ, Kim”.
Cảnh Dương là một trong rất ít nơi có Văn Miếu, có bia Khoa Bảng, có Hội
Văn như một Tao Đàn ở chốn làng quê. Nhờ khuyến học, khuyến tài mà trong
các kỳ thi dưới triều Nguyễn từ Minh Mạng về sau làng Cảnh Dương có đến hơn
100 người đậu từ tú tài đến tiến sĩ. Theo bia khoa bảng của làng “Cảnh Dương xã
từ vũ bi ký” dựng năm Bính Thân 1836 thì trong 66 năm (1834 – 1900) đã có 47
vị, trong đó có hai tiến sĩ, 7 cử nhân và 38 tú tài. Nhiều vị được nhà nước phong
kiến bổ nhiệm làm các chức quan lại. Nổi bật trong số đó có Phạm Chân sinh
năm Giáp Tý (1804), đậu Tiến sĩ năm (1838). Phạm Chân được cử giữ chức Án
Sát tỉnh Thanh Hóa, Án sát tỉnh Lạng Sơn, có công dẹp bọn giặc phỉ phương
Bắc. Khi giặc Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, Phạm Chân đã chiến đấu ngoan cường
bảo vệ thành Biên Hòa - Gia Định. Khi thất thủ, không cam chịu rơi vào tay giặc,
ông tuẫn tiết giữ tấm lòng trung, được triều đình nhà Nguyễn đưa vào thờ ở
Trung Nghĩa đường. Sau Phạm Chân có Nguyễn Phùng Dực đỗ tiến sĩ khoa Kỷ
Dậu (1849), nổi tiếng là người tài hoa, cụ Dực chuyên tâm cho ngành giáo dục,
mở trường lớp mong đào tạo được nhiều người đức tài cho quê hương, xứ sở.
Chính vì quan tâm đến giáo dục, đến sự phát triển của quê hương mà Cảnh

Dương đã thành lập trường sơ học vào năm 1918 do cụ Đỗ Phú Túc nguyên là
tổng đốc Bắc Giang về hưu vận động xây dựng và thành lập. Trường mang tên
“Trường tiểu học Pháp - Việt Ròn”. Đây là một trong những trường học đầu tiên
ở Quảng Bình và là trung tâm giáo dục của cả vùng Bắc Quảng Trạch. Năm
1954, miền Bắc được giải phóng, trường Trung học dân lập thành lập ở Quảng
Châu trước đó (năm 1950) rời về Cảnh Dương (tức là trường cấp II Cảnh Dương
ngày nay) là một trong năm trường đầu tiên ở Quảng Bình được thành lập sau khi
hòa bình lập lại.
16
Thứ ba, truyền thống đoàn kết trong đấu tranh cách mạng: Truyền thống
yêu nước và sự nghiệp cách mạng của một làng quê trên đường thiên lý, bên bờ
sông Loan – núi Phượng được hun đúc, nuôi dưỡng từ trong mạch nguồn của lịch
sử, trong mạch máu của quê hương từ khi thành lập đến nay. Không chỉ đổ mồ
hôi và nước mắt tạo dựng quê hương, nhân dân Cảnh Dương còn góp sức người
sức của chiến đấu chống ngoại xâm, giữ gìn bờ cõi.
Sống trong thời đại của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, ngay từ khi khai
canh dân làng Cảnh Dương đã chịu nhiều cơ cực của nạn đao binh. Là vùng đất
trải qua hàng trăm năm chinh chiến trận mạc trong cuộc chiến tranh giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Cảnh Dương được coi là dân Kiến Nghĩa, Đạo
dẫn đường dưới triều Lê Trịnh, họ đã phải sung lính, vận chuyển lương thực, dẫn
đường vượt biển trong các cuộc chiến ở thế kỷ XVII. Nằm trên hữu ngạn sông
Roòn, cách sông Gianh 20 km, là trung tâm khu tiền tiêu trong hệ thống đồn lũy
liên hoàn của chúa Trịnh, là trạm liên lạc lớn nhất nối liền giữa tiền tuyến và hậu
phương. Sông Roòn là yết hầu con đường thủy chiến, con đường vận chuyển
quân đội, vũ khí, lương thực từ Hà Tĩnh vào Bố Chính. Quân Trịnh đã đào con
kênh Xuân Hưng nối liền sông Roòn với sông Gianh. Cửa biển Cảnh Dương
chính là căn cứ thủy quân của quân Trịnh. Nhân dân Cảnh Dương lúc này cũng
chịu cảnh bắt phu, bắt lính, cung phụng sức người sức của cho quân Trịnh đánh
lại nhà Nguyễn. Gia phả ở Cảnh Dương còn ghi lại vị trí chiến lược quan trọng
của Cảnh Dương: “Năm Nhâm Tý (1672), niên hiệu Dương Đức (vua Lê Gia

Tông) năm thứ nhất, chỉ truyền cho xã Cảnh Dương thuộc Châu Bố Chính, tiếp
cận biên thùy, hiểu đường biển, có thể ứng đáp, lấy tiếng dân “Kiến nghĩa” để
dẫn đường phòng đá rạng, tránh cho ghe thuyền khỏi bị chìm ngoài biển; cấp cho
xã một cái thẻ bài ghi công đức nhà nước” [11; 32]. Suốt gần 200 năm chiến
tranh tang tóc huynh đệ tương tàn, của các thế lực Trịnh – Nguyễn, địa bàn Cảnh
Dương luôn là chiến địa của cuộc cát cứ nồi da nấu thịt đau thương. Chính vì vậy
khi người anh hùng áo vải Tây Sơn ra Bắc, người Cảnh Dương đã góp nhiều
công sức cho cuộc hành quân tiến về Thăng Long tiêu diệt tập đoàn phong kiến
họ Trịnh, thống nhất giang sơn. “Trong cuộc hành quân tiến về Thăng Long của
người anh hùng Nguyễn Huệ tiêu diệt tập đoàn phong kiến họ Trịnh, thống nhất
17
đất nước, đã có mặt 5 chiếc ghe Tràng Đà và 50 người con của Cảnh Dương”
[11; 33]. Thêm vào đó, nhân dân Cảnh Dương đã gửi tấm lòng mình với người
anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong việc đúc chiếc chuông đồng "Hồng chung
cảnh viện" vào năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801), tức là năm cuối cùng của Triều
Tây Sơn. Bài ký khắc trên chuông do giám sinh Nguyễn Đức Quýnh soạn, cuối
bài ký có lời cầu nguyện.
“Ngôi vua vững bền
Đạo vua xưng thịnh
Nhật nhật tăng huy
Pháp luân thường chuyển
Thiên hạ thái bình
Nạn tai tiêu diệt…"
Đây chính là một bằng chứng về ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn đối với
nhân dân Cảnh Dương, đồng thời, đây cũng là vật chứng của nhân dân Cảnh
Dương trên bước đời hưng thịnh và hưởng ứng phong trào Tây Sơn, chứng tỏ sức
mạnh kinh tế - xã hội của làng Cảnh Dương lúc bấy giờ.
Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân Cảnh Dương không ngừng
được phát huy theo năm tháng. Năm 1802, sau khi lật đổ nhà Tây Sơn, Gia Long
lên ngôi vua, đóng đô ở Phú Xuân (Huế), thừa hưởng sự nghiệp thống nhất đất

nước của nhà Tây Sơn. Cảnh Dương nằm trên trục đường thiên lý Bắc - Nam
thống nhất, càng có điều kiện mở rộng giao lưu và phát triển. Nghề hàng hải
buôn bán bằng thuyền buồm giờ đây có cơ hội mở mang về hướng Nam, tạo ra
một thị trường buôn bán rộng lớn. Nghề làm nước mắm, nghề buôn bán đem lại
sự phồn vinh cho người Cảnh Dương. Dựa vào đặc điểm này, nhà Nguyễn đã
lệnh cho làng Cảnh Dương kết hợp với làng biển Lý Hòa (Quảng Trạch) thành
lập đội vận tải quân lương Dương – Hòa (Cảnh Dương - Lý Hòa) phục vụ công
tác hậu cần cho nhà Nguyễn. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhà
Nguyễn bất lực đầu hàng, nhưng nhân dân Cảnh Dương dưới sự lãnh đạo của các
nhà nho yêu nước, đã tham gia phong trào chống quân “Tà đạo” với tấm lòng
mẫn cảm. Khôn khéo không nhường đất để các giáo sỉ Gia – tô lập nhà thờ; từ
chối quyết liệt việc gia nhập đạo Thiên chúa Nhân dân Cảnh Dương còn tổ
18
chức bố phòng, trồng cây gai mận suốt dọc bải bờ phía Nam làng phòng đêm
giặc đến, đêm đêm tích cực luyện tập võ nghệ, đi lùng bắt và giết những tên theo
Tây. Khi Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi rời Tân Sở Quảng Trị ra vùng núi
Tây Bắc tỉnh Quảng Bình ban chiếu Cần Vương thì nhân dân Cảnh Dương đã
đứng lên hưởng ứng mạnh mẽ, các nhà nho yêu nước hăng hái lên đường phò
vua cứu nước, tiêu biểu có tú tài Phạm Thế Lộc. “Trên đường liên lạc với quân
thứ Kỳ Anh (tức Kỳ thứ) do Vũ Pháp lãnh đạo, thì bị bắt tại Đèo Ngang. Chúng
giải ông về Đồng Hới, đến quán cháo, Thầu Đâu (Quảng Xuân), ông tuẫn tiết”
[11; 36]. Dù bị giặc đàn áp hết sức dã man, nhân dân Cảnh Dương vẫn tiếp tế
lương thực, thực phẩm cho phong trào Cần Vương: Như cá khô, nước mắm…
Phong trào Cần Vương tuy thất bại nhưng đã để lại cho nhân dân Cảnh Dương
một khí thế sôi sục, một ấn tượng mạnh mẽ về lòng yêu nước ngọn lửa hồng quật
cường ấy được truyền từ đời này sang đời khác.
Đặc biệt, nhân dân Cảnh Dương còn thể hiện lòng yêu nước của mình trong
những năm dài dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ, nhân dân Cảnh Dương đã
không ngừng vùng lên đấu tranh chống áp bức bất công, đùm bọc, tương thân
tương ái trong những lúc khó khăn. Điều đó được thể hiện qua phong trào cải

cách hương chính, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Canh tân quốc
ngữ. Ở Cảnh Dương từ năm 1917, cuộc vận động học chữ quốc ngữ diễn ra rầm
rộ, năm 1926 thầy trò trường tiểu học Roòn bãi khóa, năm 1930 truyền đơn
hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh xuất hiện ở đầu làng, năm 1940 nhân
dân Cảnh Dương chống thuế bãi thị. Những tư tưởng tiến bộ như làn gió mới
thắp sáng những con tim tràn đầy nhiệt huyết của những người con Cảnh Dương.
Các nhân sĩ, thầy giáo, công chức, những con người tiến bộ đã dần dần giác ngộ
lý tưởng của Đảng, đi theo đường lối cách mạng Hồ Chí Minh từ những năm đầu
vào thập niên 30 của thế kỷ XX. Đến thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền Cách mạng tháng Tám, họ đã giác ngộ và trở thành đội ngũ cán bộ cốt cán
cho phong trào cách mạng tại làng, xã, tổng. Trong đó tiêu biểu có Lê Hoàng,
Ngô Mai, Nguyễn Ngọc Bơn, Nguyễn Đình Viên, Ngô Đình Khiêm, Trần Thị
Tính,… đã tích cực vận động tập kết lực lượng cùng với những người con tiến bộ
khác ở phủ Quảng Trạch chuẩn bị khởi nghĩa lật đổ chính quyền phong kiến ở Xã
19
Cảnh Dương và tổng Thuận Hòa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được đưa
ra, trong khí thế hừng hực cách mạng của cả nước, nhân dân Cảnh Dương và cả
nhân dân phủ Quảng Trạch hòa chung với khí thế cả tỉnh theo Việt Minh, theo Bác
Hồ đứng lên giành độc lập, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 20 – 8- 1945, cuộc họp bàn cướp chính quyền của Ủy ban khởi nghĩa
xã Cảnh Dương đã diễn ra tại nhà ông Ngô Hoàng. Chiều 21 – 8 – 1945, Ủy ban
khởi nghĩa đứng đầu là ông Ngô Hoàng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa cướp
chính quyền ở Cảnh Dương. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, cuộc khởi nghĩa đã diễn
ra nhanh chóng. Đúng 3 giờ chiều ngày 21 – 8 – 1945, sau khi một hồi mõ do
anh Nguyễn Ngọc Bơn đánh đổ hồi. Đây là hồi mõ lịch sử thông báo công việc
cánh mạng. Nghe lệnh khẩn cấp đặc biệt, toàn dân làng đổ ra quây quần trước
nhà thờ đình tổ, địa điểm cuộc mít tinh. Cuộc mít tinh gồm hơn 300 người dự, đa
số là thanh niên, trung niên và các cụ già vì lúc này một số đông ngư dân đã ra
biển hoặc đi buôn bán các chợ trong vùng. Cũng vào thời điểm này, tuy bộ máy

chính quyền ở xã đã hoang mang rời rạc nhưng bộ máy hương lý vẫn thừa lệnh
bộ máy chính quyền bù nhìn dự định tổ chức cuộc mít tinh mừng “ngày độc lập”
do Nhật trao trả cho chính quyền Trần Trọng Kim. Ta thừa cơ hội này vừa biến
cuộc mít tinh của ngụy quyền thành cuộc mít tinh công bố ngày xuống đường
khởi nghĩa. Thông báo cho một số thủ lĩnh thanh niên Phan Anh và hương lý bù
nhìn khởi nghĩa của ta; bọn chúng phải tuân thủ không thể chống đối tuy thực
tình ta chưa có cơ sở và phong trào Việt Minh nhưng nhờ khí thế của phong trào
chung trong cả nước và trong vùng áp đảo. Trong mít tinh, anh Nguyễn Ngọc
Bơn - người đại diện Việt Minh thay mặt Ủy ban khởi nghĩa đứng lên bàn cao,
nói về tôn chỉ và mục đích của Việt Minh, về độc lập đất nước, về tổng khởi
nghĩa và công bố thời gian, địa điểm xuống đường cướp chính quyền. Kết thúc
cuộc mít tinh, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, nhân dân nhiệt liệt hoan
nghênh:

Việt Nam Độc lập muôn năm!
Ủng hộ Việt Minh!
20
Hồ Chí Minh muôn năm!
Đây là những khẩu hiệu đầu tiên được nhân dân hưởng ứng, mở đầu cho
thời kỳ cách mạng mới và đầy vinh quang của nhân dân Cảnh Dương. Về thực
chất, chính quyền cũ ở Cảnh Dương đã bị xóa bỏ từ cuộc mít tinh lịch sử này.
Tối ngày 21 – 8, một cuộc họp được tổ chức để quyết định chỉ huy các đơn
vị nghĩa quân nổi dậy. Mỗi nghĩa quân phiên chế theo đơn vị kiểu trung đội, mỗi
đơn vị khoảng 40 – 50 người chia làm nhiều tiểu đội. Sáng hôm sau, ngày 22 – 8
– 1945, Ủy ban khởi nghĩa đã phái lực lượng tự vệ đi tước đồng triện của lý
trưởng các làng trong vùng Roòn, chiếm nhà thương chính Roòn, chiếm trạm khố
xanh ở cửa biển. Chính quyền bù nhìn đến đây bị xóa bỏ. Cách mạng tháng Tám
ở Cảnh Dương thành công, Ủy ban khởi nghĩa tổ chức lễ ra mắt nhân dân của
chính quyền cách mạng. Danh sách ủy ban lâm thời được công bố và niêm yết
trang nghiêm, gồm: Chủ tịch: Ngô Hoàng; Các ủy viên: Ngô Mai, Nguyễn Ngọc

Bơn, Ngô Đình Phác, Nguyễn Đình Viễn; bộ phận giúp việc đa phần những tầng
lớp thanh niên, trung niên, giáo viên, công chức như: Ngô Văn Khiêm, Ngô Đình
Kiểm, Ngô Đình Bá, Phạm Gia Dụ, Nguyễn Khắc Soạn. Phạm Tính Lễ ra mắt
kết thúc và mở đầu ngày làm việc đầu tiên của chính quyền cách mạng, mở đầu
kỷ nguyên của chế độ dân chủ cộng hòa ở Cảnh Dương.
Cách mạng tháng Tám ở Cảnh Dương thành công đã thổi vào nhân dân lao
động một luồng sinh khí mới. Dù chưa hiểu nhiều về cách mạng nhưng trong
lòng mỗi người dân Cảnh Dương như được đổi đời. Từ đây, phong trào nhân dân
Cảnh Dương đã có những điều kiện thuận lợi cơ bản để đưa phong trào cách
mạng tiếp tục tiến liên trong giai đoạn mới: Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân
chủ nhân dân.
Truyền thống và nguồn lực con người đó, chính là nguồn sức mạnh to lớn
để quê hương và con người Cảnh Dương vững vàng đi lên trong thời kỳ đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
21

×