Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nghiên cứu sử dụng vùng sống của vọoc mũi hếch rhinopithecus avunculus dollman 1912 ở khu bảo tồn loài và sinh cảnh vọoc mũi hếch ở khau ca tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------

NGUYỄN BÁ QUYỀN

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VÙNG SỐNG CỦA VOỌC MŨI HẾCH
(Rhinopithecus avunculus Dollman, 1912) Ở KHU BẢO TỒN LOÀI
VÀ SINH CẢNH VOỌC MŨI HẾCH KHAU CA,
TỈNH HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus Dollman, 1912) là một trong
4 loài Linh trưởng đặc hữu của Việt Nam, góp mặt trong danh sách 25 lồi
Linh trưởng nguy cấp nhất trên thế giới [46]. Về tình trạng bảo tồn, hiện tại
Voọc mũi hếch đều được xếp ở mức cực kỳ nguy cấp (CR) trong Sách Đỏ
IUCN 2010 () và Sách Đỏ Việt Nam (2007), thuộc
nhóm IB Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ [1].
Theo báo cáo trước đây, Vọoc mũi hếch phân bố ở hầu hết các tỉnh
vùng Đông bắc Việt Nam, bao gồm: Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Yên
Bái [11]. Tuy nhiên, những ghi nhận gần đây cho thấy Vọoc mũi hếch chỉ còn


ở một số khu vực sau: Khu vực Tát Kẻ, Bản Bung, đều thuộc KBTTN Na
Hang, tỉnh Tuyên Quang [17, 50, 22, 23]; khu vực Khau Ca; khu vực Tùng
Vài tỉnh Hà Giang [35, 34, 5, 22, 23, 7]. Hiện tại khu bảo tồn loài và sinh
cảnh Vọoc mũi hếch Khau Ca được coi là nơi nuôi dưỡng quần thể Voọc mũi
hếch lớn nhất ở Việt Nam với khoảng 90 cá thể [22].
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đặc điểm sinh học
sinh thái, thành phần thức ăn, tập tính vận động của Voọc mũi hếch được
cơng bố. Kết quả nghiên cứu đã bổ xung những hiểu biết về sinh thái và tập
tính của lồi. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu đề cập tới kích thước và sử
dụng vùng sống của lồi này vẫn cịn khá ít về cả số lượng và nội dung nghiên
cứu. Một số tác giả đã đề cập tới sử dụng vùng sống của Voọc mũi hếch, tuy
nhiên các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc ước tính kích thước vùng sống và
mơ tả vị trí một vài nơi ngủ của chúng [17, 11, 4, 22]. Một vài nghiên cứu đã
chỉ ra rằng, kích thước vùng sống của Voọc mũi hếch trong khoảng từ 3,5 đến
10 km2 [17, 11, 4]. Hiện tại chưa có báo cáo cơng bố nào đề cập tới độ dài di
chuyển trong ngày của Voọc mũi hếch ở Việt Nam.


2

Theo Burt (1943), vùng sống của một loài động vật có liên quan chặt
chẽ tới sinh thái và tập tính của mỗi lồi thơng qua các hoạt động thường
ngày của chúng, như kiếm ăn, giao phối và chăm sóc con non [20]. Do vậy,
nghiên cứu về vùng sống là một nội dung quan trọng, giúp ích cho việc hiểu
biết về tập tính sinh thái. Mặt khác, theo Bekoff và Mech (1984), nghiên cứu
vùng sống vừa là những hoạt động cần thiết để hiểu biết về sinh thái và tập
tính của một loài động vật, đồng thời tạo nền tảng cơ sở cho việc xây dựng
các hoạt động bảo tồn động vật hoang dã hiệu quả (trích dẫn bởi Ren và ctv,
2009 [53]).
Với mong muốn được góp phần nghiên cứu và bảo tồn lồi Voọc mũi

hếch ở Việt Nam, tơi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu sử dụng vùng
sống của Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus Dollman, 1912) ở khu
vực Khau Ca, tỉnh Hà Giang”.
Số liệu thu thập được và kết qủa nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung
thêm thơng tin về vùng sống, góp phần nâng cao hiểu biết về vùng sống
và tập tính sử dụng vùng sống của Voọc mũi hếch (R.avunculus), là cơ sơ
khoa học cho việc đưa ra các giải pháp quản lý bảo tồn loài linh trưởng
quý hiếm này ở Việt Nam.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1.

Vùng sống và một số phương pháp nghiên cứu vùng sống
Khái niệm về vùng sống
Vùng sống của mỗi loài động vật được định nghĩa là “khu vực di

chuyển bởi các cá thể trong các hoạt động bình thường của chúng cho việc
thu thập thức ăn, giao phối và chăm sóc con non” [20]. Do đó, một cách đơn
giản nhất, phân tích vùng sống của một loài động vật bao gồm việc vạch ra
khu vực mà các lồi đó tiến hành các hoạt động bình thường (Burt, 1943),
điều này cũng đồng nghĩa với việc ghi lại những vị trí mà các cá thể đã được
ghi nhận quan sát [54].
Những thông tin ghi nhận từ việc nghiên cứu và phân tích vùng sống có
thể được sử dụng để kiểm tra các học thuyết cơ bản liên quan tới tập tính của
động vật, sử dụng nguồn tài nguyên, sự phân bố quần thể hoặc kiểm tra sự
tương tác lẫn nhau giữa các cá thể và trong quần thể [54].

Kích thước vùng sống có thể chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và
khách quan. Theo Burt (1943), kích thước vùng sống có thể thay đổi theo giới
tính, theo mùa, theo mật độ quần thể và có thể theo độ tuổi. Một số tác giả
khác cho rằng, sự thay đổi kích thước vùng sống của đàn cịn chịu ảnh hưởng
của kích thước đàn [57, 30, 8]. Trong khi đó, một vài nghiên cứu khác về các
lồi Linh trưởng lại cho thấy, kích thước vùng sống tương quan với trọng
lượng cơ thể [45, 14]. Ngoài những nhân tố khách quan trên, ước tính kích
thước vùng sống cịn chịu ảnh hưởng của việc lựa chọn kỹ thuật, phương pháp
ước tính [26]. Độ chính xác kích thước vùng sống khi ước tính cũng bị thay
đổi khá nhiều khi áp dụng phương pháp hệ thống ơ lưới với việc sử dụng các
kích thước ô lưới khác nhau [26].


4

Một vài phương pháp ước tính vùng sống đang được sử dụng
Trong nghiên cứu về vùng sống nói chung, hiện nay có nhiều phương
pháp khác nhau được sử dụng để ước tính kích thước vùng sống. Trên cơ sở
căn cứ theo việc xác định vị trí các điểm của nghiên cứu về vùng sống nói
chung, phân tích vùng sống có thể chia thành 4 phương pháp tiếp cận cơ bản
khác nhau bao gồm:
- Đa giác lồi tối thiểu (Minimum convex polygons)
- Mơ hình 2 biến số thơng thường (Bivariate normal models)
- Mơ hình phi tham số (Nonparametric models)
- Mơ hình đường đồng mức (Contouring models)
(Nguồn: Rodger và Carr, 1998[54])
- Adaptive kernel
- Harmonic Mean
Hiện nay, trong nghiên cứu và ước tính vùng sống của các loài Linh
trưởng, các nhà khoa học thường sử dụng một số các biện pháp như: Phương

pháp ô lưới (Grids cell - GC); Đa giác lồi tối thiểu (Minimum convex
polygons - MCP); Phương pháp đa giác lồi tối thiểu có điều chỉnh (Adjusted
minimum convex polygons – Adjust MCP)… Việc áp dụng các phương pháp
ước tính vùng sống khác nhau trên cùng một đối tượng có thể cho các kết quả
khác nhau [26]. Ngoài ra, khi áp dụng phương pháp ơ lưới với mỗi loại kích
thước ơ lưới khác nhau (hay tỷ lệ bản đồ khác nhau) cũng có thể làm thay đổi
khá lớn kích thước vùng sống. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về việc lựa chọn
phương pháp ước tính vùng sống của lồi Voọc mũi hếch Vân Nam
(Rhinopithecus bieti), Grueter và ctv (2008), nhận thấy kích thước vùng sống
theo hàng tháng có sự thay đổi đáng kể với mỗi phương pháp sử dụng khác
nhau, (MCP – 16,96 km2; Adjust MCP – 14, 52 km2; và GC – 1,06 km2.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu từ nhóm tác giả cũng cho thấy tổng kích thước


5

vùng sống tăng từ 24,75 km2 lên 34,25 km2 khi tăng kích thước ơ lưới từ
250m lên 500m [26].
1.2.

Tổng quan về vùng sống của một vài loài khỉ ăn lá ở Châu Á

1.2.1. Sinh cảnh sống
Các loài khỉ ăn lá về cơ bản sống trong rừng, nhưng chúng xuất hiện
trong một phạm vi phân bố rộng với nhiều các kiểu rừng khác nhau, bao gồm
rừng khô lá rộng, rừng tre nứa nhiệt đới, rừng ven sông, rừng đầm lầy, rừng
đước và rừng mưa nhiệt đới thường xanh. Chẳng hạn như, với lồi Khỉ vịi
(Nasalis larvatus) có nơi sống chủ yếu ở những vùng ven sơng, rừng đước
ven biển phía đơng Malaysia [16, 31], các khu vực dọc theo sông
Kinabatangan, với địa hình phần lớn là bằng phẳng [16]. Một vài lồi khỉ ăn

lá khác có nơi sống là các khu rừng trên cao với nhiều dãy núi đá vơi điển
hình như một số loài trong giống Trachypithecus hay Rhinopithecus [11, 47,
49]. Trong khi đó, lồi Khỉ Nhật Bản lại có nơi sống đặc biệt, ở những vùng
núi thuộc Honshu, đảo Koshima của Nhật Bản, với nhiệt độ trong mùa đơng
có thể xuống đến – 15oC.
1.2.2. Kích thước vùng sống
Kích thước vùng sống của nhóm khỉ ăn lá là khác nhau tuỳ thuộc vào
mỗi lồi, có thể biến đổi từ vài chục cho tới hàng trăm ha. Chẳng hạn, với loài
Khỉ vòi (Nasalis larvatus) độ rộng vùng sống được ghi nhận khoảng hơn 100
ha [16, 44]. Trong khi đó, kết quả này của loài Voọc đỏ (Presbytis rubicunda)
được ghi nhận chỉ từ 3,3 – 9,9 ha [30]. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng bởi các
lồi khác nhau, kích cỡ vùng sống ước tính cịn thay đổi hàng tháng [40, 62,
16] và chịu ảnh hưởng bởi số lượng cá thể trong đàn hoặc kích cỡ quần thể
[30, 60, 8].
Một vài tác giả khi nghiên cứu về vùng sống của một số các lồi khỉ ăn
lá cho thấy kích thước vùng sống có liên quan tới chất lượng cũng như sự


6

phân bố theo không gian và thời gian của nguồn thức ăn [40, 16, 44]. Theo Li
và Rogers (2004), chất lượng nơi sống của loài Voọc, má trắng
(Trachypithecus francoisi) tăng lên được thể hiện ở số loài thức ăn ưa thích
của chúng nhiều hơn, điều này cũng sẽ làm tăng sự hấp dẫn của các con cái từ
phía con đực, do đó kích cỡ trong đàn tăng lên, phù hợp với chất lượng nơi
sống tăng [40]. Trong khi đó theo Boonratana (2000), tỉ lệ lượng hoa và quả
trong chế độ ăn của chúng sẽ làm ảnh hưởng tới kích thước vùng sống [16].
Bảng 1.1: Kích thước vùng sống của một số lồi khỉ ăn lá Châu Á
STT Lồi


Kích thước(ha) Nguồn

1

Voọc đầu trắng

28-18

Li & Rogers, 2005

2

Khỉ vòi

138.3

Matsuda và ctv, 2008

3

Khỉ vòi

220.5

Boonratana, 2000

4

Khỉ tây tạng


18

Zhao & Deng, 1988

5

Voọc đầu trắng

19

Zhou và ctv, 2006

6

Voọc mông trắng

36 – 46

Nguyễn Vĩnh Thanh, 2007

7

Voọc đỏ

3.3 – 9.9

Supriatna, 1986

Vùng sống của một số lồi trong nhóm khỉ ăn lá thay đổi hàng tháng
[62, 16, 44]. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa các tháng là không ý nghĩa [62].

Kết quả nghiên cứu của Zhou và ctv (2006), cũng ghi nhận tập tính sử dụng
vùng sống của lồi Voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi) với khoảng
55% tổng số các hoạt động xảy ra tập trung ở một khu vực nhỏ, và 22% các
hoạt động xảy ra ở những nơi có chứa hoặc gần các điểm ngủ [62]. Trong khi
đó, theo Matsuda và ctv (2008) khi nghiên cứu về loài Khỉ vịi (Nasalis
larvatus) nhận thấy, mức độ sẵn có của các loại quả ảnh hưởng tới vùng sống
của chúng. Nhóm tác giả cho rằng sự sẵn có của nguồn thức ăn và mối nguy
hiểm từ sự xuất hiện của các loài ăn thịt ảnh hưởng chính tới vùng phân bố
của lồi [44].


7

1.2.3. Quãng đường di chuyển trong ngày
Độ dài quãng đường di chuyển trong ngày là một tiêu chí quan trọng,
có liên quan tới tập tính sử dụng vùng sống của một loài. Theo Burt (1943),
hoạt động thường ngày của một lồi động vật là được thể hiện thơng qua việc
di chuyển để kiếm ăn, giao phối và chăm sóc con non [20]. Do vậy khi nghiên
cứu về vùng sống của một số loài Linh trưởng, một số tác giả cho thấy độ dài
di chuyển trong ngày có liên hệ với tập tính sử dụng vùng sống của mỗi lồi,
bao gồm: mức độ phong phú, tính sẵn có và sự phân bố của các loài thức ăn
[16, 44, 62, 8].
Nguyễn Vĩnh Thanh (2007) nhận thấy rằng chiều dài trung bình di
chuyển trong ngày của mỗi đàn Voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri)
là khác nhau (trung bình biến đổi trong khoảng từ 666,3 m – 781m), tuy nhiên
kết quả phân tích thống kê lại cho thấy, sự khác nhau này là khơng có ý nghĩa.
Cũng theo tác giả, chiều dài di chuyển trong ngày lớn nhất của loài này được
ghi nhận tháng 4 năm 2006 - thời điểm lượng thức ăn cung cấp được cho là
nhiều nhất, mặc dù vậy, song kết quả phân tích mối liên hệ cho thấy khơng có
sự tương quan giữa độ dài di chuyển trong ngày với vật hậu học của các loài

thực vật làm thức ăn cho chúng [8].
Quãng đường di chuyển trong ngày cũng thay đổi theo các mùa khác
nhau [62], điều này được giải thích cơ bản thông qua sự chênh lệch về mức độ
phong phú của các nguồn thức ăn ưa thích giữa các mùa cũng khác nhau.
Zhou và ctv (2006), khi nghiên cứu về loài Voọc đầu trắng, nhận thấy chiều
dài di chuyển khác nhau lần lượt giữa mùa khô và mùa mưa là 403 (m) so với
471 (m). Theo tác giả, sự chênh lệch này là do trong mùa khô lượng thức ăn
khan hiếm hơn [62].
Độ dài di chuyển trong ngày của lồi Khỉ vịi lớn hơn khá nhiều so với
một số các lồi kể trên, có thể thay đổi trong phạm vi lớn từ vài trăm đến hàng


8

nghìn mét [16, 44]. Kết quả nghiên cứu của Boonratana (2000) chỉ ra rằng,
khơng có sự tương quan giữa các yếu tố gồm: lượng mưa hàng tháng, lượng lá
non, lượng hoa, quả với chiều dài quãng đường di chuyển trong ngày. Duy
nhất tỉ lệ thành phần lá non trong khẩu phần ăn của loài này tương quan với
chiều dài quãng đường di chuyển trong ngày [16]. Theo tác giả, khi mà lượng
lá non nhiều hơn các loại quả trong chế độ ăn của chúng, độ dài quãng đường
di chuyển sẽ lớn hơn, điều này cũng đồng nghĩa đây là thời điểm cho thấy sự
đa dạng trong khẩu phần ăn của loài này cũng tăng lên. Ngoài ra, sự gia tăng
độ dài di chuyển trong ngày của lồi có thể do chúng đã thăm dò, thám hiểm
xung quanh và kiếm ăn trên nhiều loại thức ăn [44].
1.2.4. Nơi ngủ
Nơi ngủ của một vài lồi trong nhóm khỉ ăn lá được ghi nhận là khá đa
dạng, bao gồm: hang [62, 51, 63]; vách đá, rìa đá, bờ đá [62, 51, 63, 60, 8]; và
trên cây [16, 44, 60]. Trong số này riêng loài Khỉ tây tạng được ghi nhận là
ngủ trên 5 dạng nơi ngủ khác nhau [60]. Tuy nhiên, theo ghi nhận của nhóm
tác giả, lồi Voọc đầu trắng sử dụng hang để ngủ chỉ là tạm thời, khi trong

quá trình di chuyển trên đường bất ngờ bị gián đoạn bởi mua to [62].
Tập tính sử dụng và lựa chọn nơi ngủ của một vài lồi trong nhóm khỉ
ăn lá được các tác giả cho rằng để hạn chế sự nguy hiểm và bị phát hiện bởi
những loài động vật ăn thịt [63, 16, 51]. Theo Zhou và ctv (2009), trong suốt
q trình di chuyển theo hướng vào nơi ngủ, lồi Voọc đầu trắng thường di
chuyển rất nhanh nhằm hạn chế sự phát hiện của kẻ thù; sau khi rời khỏi nơi
kiếm ăn cuối cùng, chúng thường dành khoảng 30 phút để nghỉ ngơi tại khu
vực gần nơi ngủ nhất trước khi ngủ. Thời gian ngủ của loài này được ghi nhận
trong khoảng từ 18h30 đến 19h50, thường sớm vào mùa đông, mùa xuân và
muộn hơn vào mùa hè, mùa thu; trước và trong q trình ngủ, chúng ln giữ
n lặng [63]. Theo quan sát của Nguyễn Mạnh Hà (2006), nhận thấy rằng


9

một tập tính khá đặc biệt về nơi ngủ của lồi Voọc Hà Tĩnh (Trachypithecus
laotum hatinhensis) đó là, chúng khơng thay đổi nơi ngủ trong nhiều năm.
Chúng thường chọn các hang nhỏ và vách đá - khe núi để ngủ. Tác giả nhận
định, lý do cho việc lựa chọn hang làm nơi ngủ được giải thích là nơi bảo vệ
chúng khỏi mưa ướt và khí hậu lạnh, cũng như tránh được các kẻ thù ngoài tự
nhiên. Độ cao một trong số các nơi ngủ từ khoảng 29 – 50 m; trong q trình
ngủ, các thành viên khơng chia sẻ một hang đơn lẻ, đôi khi 2 cá thể chia sẻ
một nơi ngủ [51].
Lồi Khỉ vịi thường lựa chọn nơi ngủ là những cây gần bờ sông [16,
44]. Theo Matsuda và ctv (2008), vùng sống chính của lồi này chạy dọc theo
bờ sơng, điều này được giải thích thơng qua tập tính đặc trưng của lồi là
quay trở lại những cây ven bờ sông cho việc ngủ đêm. Những cây ven bờ
sơng có thể là nơi an tồn cho việc tránh sự nguy hiểm từ những loài ăn thịt
trên mặt đất. Ngoài ra khu vực diễn ra các hoạt động thường xun nhất của
lồi Khỉ vịi được ghi nhận là nơi có khoảng cách tới bờ sơng gần hơn những

khu vực khác, điều này được giả định rằng chúng là loài thích chọn vị trí ngủ
nơi bờ sơng để thuận lợi cho việc di chuyển, hạn chế sự đe doạ từ những lồi
ăn thịt [44].
Các vị trí nơi ngủ được lựa chọn là những nơi diễn ra phần lớn các
hoạt động của chúng, gần những nơi kiếm ăn chính hoặc cũng có thể là khu
vực kiếm ăn cuối cùng trong ngày và vùng kiếm ăn đầu tiên của ngày hôm
sau [62, 63, 16].
Một số lồi trong nhóm Khỉ ăn lá thường có tập tính ngủ tại một nơi
trong nhiều đêm liên tiếp [60, 62, 63]. Theo Zhao và Deng (1988) loài Khỉ tây
tạng thường ngủ sau khi kiếm ăn trên một khu vực ổn định (an tồn) nào đó,
đàn sẽ quay lại những vị trí ngủ gần kề để ngủ [60].


10

1.3.

Giống Voọc mũi hếch (Rhinopithecus)

1.3.1. Phân loại và phân bố
- Vị trí phân loại của giống Rhinopithecus
Bộ Linh trưởng - Primates
Họ Khỉ, Voọc - Cercopithecidae
Họ phụ Voọc - Colobinae
Giống – Rhinopithecus, gồm 4 loài:
- Rhinopithecus roxellana
- Rhinopithecus bieti
- Rhinopithecus brelichi
- Rhinopithecus avunculus
(Nguồn: Brandon - Jones và ctv, 2004) [19]

- Phân bố
Sự phân bố của các loài trong giống Rhinopithecus trải dài từ nơi có độ
cao so với mặt nước biển tương đối thấp (1000 m) ở rừng nhiệt đới, lá rộng
như lồi (R.avunculus) cho tới những nơi có độ cao so với mực nước biển cao
(4000m) ở rừng lá kim, nơi đỉnh đầu của Tibetan Plateau (R.bieti) [52]. Trong
số 4 lồi voọc mũi hếch thì R.avunculus là lồi đặc hữu của Việt Nam, phân
bố ở những khu rừng nhiệt đới thường xanh kết hợp với núi đá vôi, thuộc một
số tỉnh phía Đơng Bắc Việt Nam [17, 37], 3 lồi Voọc mũi hếch cịn lại là
những lồi đặc hữu của Trung Quốc, phân bố rải rác ở các tỉnh khác nhau,
trong đó: R.roxellana phân bố rộng và phổ biến ở các tỉnh (Tứ Xuyên, Cam
Túc, Hồ Bắc, Sơn Tây). Loài R.brelichi phân bố ở khu vực tỉnh Quý Châu, và
loài R.bieti phân bố tại tỉnh Vân Nam [52].
1.3.2. Nơi sống
Các loài Voọc mũi hếch là những loài đặc hữu của Trung Quốc và Việt
Nam, vùng sống của chúng gồm cả vùng ôn đới và vùng nhiệt đới [32]. Trong


11

đó R.avunculus sống ở rừng lá rộng nhiệt đới phía Bắc Việt Nam, tương
tự như nơi sống của các loài voọc ở Châu Á. Trong khi đó, nơi sống của 3
loài Voọc mũi hếch ở Trung Quốc dần dần trở lên khơng điển hình từ
Voọc Q Châu đến Voọc Tứ Xuyên và tới Voọc Vân Nam: R.brelichi
sống trong rừng thường xanh và lá rộng rụng lá; R.roxellana sống ở rừng
lá rộng rụng lá và rừng quả nón; R.bieti sống trong rừng thường xanh lá
rộng và rừng lá kim [64].
- Một vài đặc trưng về hệ thực vật tại nơi sống
Rhinopithecus avunculus
Sống trong rừng nhiệt đới thường xanh kết hợp với các dãy, đồi núi đá
vôi [37]. Theo Phạm Nhật (2002), lồi này sống trong 5 kiểu rừng: Rừng kín

thường xanh, rừng kín nửa rụng lá, rừng kín á nhiệt đới, rừng núi đá vôi và
rừng tre nứa [11]. Vùng sống chính của Voọc mũi hếch ở Khau Ca, thường có
các loài Nghiến – Excentrodendron tonkinese, Trai - Garcinia spp, Sâng –
Pometia pinata, Thích Bắc bộ - Acer tonkinensis, Tử quả - Iodes seguini) [4].
Rhinopithecus brelichi
Hệ thực vật trong vùng sống của loài này được đặc trưng bởi các bụi
sồi Châu Á và cây gỗ sồi (Fagus_longtipetiolata) thường hay xuất hiện, mặc
dù một vài loại rừng khác R.brelichi sử dụng không có các lồi cây trội. Tầng
tán phổ biến với các lồi cây bao gồm các lồi Thích (maples _ Acer spp),
Rhododendron spp, và cây Cáng lò (Betula spp) [64].
Rhinopithecus roxellana
Sinh cảnh sống của lồi này có thể chia ra thành 2 dạng: Rừng ôn đới
thường xanh cây lá kim (2600 – 3000m) và rừng hỗn giao cây lá kim với cây
lá rộng rụng lá (1500 – 2600m). Nơi sống của loài này gồm một số loài thực
vật đặc trưng chủ yếu như: Linh sam (Abies fargesii), Đỗ quyên
(Rhododendron sp), Thông trắng Trung quốc (Pinus armandii), Vân sam


12

Trung quốc (Picea chinensis), Thích (Acer sp), Đinh tán Trung quốc (Sorbus
hupenensis), Dương (Populus davidiana)…[56].
Rhinopithecus bieti
Voọc mũi hếch Vân Nam được ghi nhận sống ở những khu rừng
thường xanh với tầng tán có sự đan xen của các lồi thực vật nguyên sinh:
Linh sam (Abies spp), Vân sam (Picea spp), Đỗ quyên (Rhododendron spp),
Sồi thường xanh (Quereus spp). Mức độ đa dạng về các loài cây ở sinh cảnh
sống của chúng được ghi nhận là khá thấp, với chủ yếu một số loài Linh Xam,
Đỗ Quyên… [52].
Bảng 1.2: Đặc điểm về nơi sống của các loài trong giống Rhinopithecus

Loài

Hệ thực vật

Độ cao tương đối
(m)

R. avunculus
R. brelichi
R. roxellana
R. bieti

Rừng nhiệt đới, nguyên sinh,
thường xanh trên núi đá vôi
và núi đất
Rừng thường xanh cây lá
rộng và lá kim cận nhiệt đới
Rừng hỗn giao cây lá kim và
cây lá rộng rụng lá
Rừng thường xanh cây lá
rộng và lá kim ôn đới núi
cao

ToTB

< 1.082

22,20 C

1.500 – 2.100


5 – 170 C

2.000 – 3.000

6, 30 C

3.000 – 4.400

4, 70 C

Nguồn: Kirkpatrick, 1998:158-160 [32]

1.3.3. Tập tính sử dụng vùng sống của một vài lồi trong giống
1.3.3.1. Kích thước vùng sống
Kích thước vùng sống của các lồi trong giống Rhinopithecus là khá
khác nhau, có thể dao động từ vài km2 đến hơn 100 km2 tuỳ thuộc vào từng
loài [32]. Trong số 4 lồi thuộc giống Rhinopithecus thì lồi R.avunculus là
lồi có kích thước vùng sống dao động trong khoảng nhỏ nhất (3,8 – 10 km2)
và R.bieti là loài có sự dao động về kích thước vùng sống lớn nhất (13 –


13

133km2). Hai lồi cịn lại R.roxellana và R.brelichi độ dao động về kích thước
vùng sống lần lượt là từ 28 – 55 km2 và 6,1 – 12,5 km2 [42].
Bảng 1.3: Kích thước vùng sống (km2) của các lồi giống Rhinopithecus
R.avunculus
3,8 – 10(1)
3,8 – 5,6(3)

7 (5)

R.brelichi
6,1 – 12,5 (1)

R.roxellana
28 – 55 (1)
9,5 – 22,5 (2)

R.bieti
13 – 133 (1)
4,9 – 10,7 (4)

18, 3 (6)

17,8 – 32,8(7)
9,3 – 32,3(8)

Nguồn: (1)- Kirkpatrick, 1998:161; (2 Li và ctv, 2000; (3) Phạm Nhật, 2002; (4)
Liu và ctv, 2004; (5) Lê Khắc Quyết, 2006; (6) Tan và ctv, 2007; (7) Ren và ctv, 2009. (8)
Grueter và ctv, 2008.

Khi nghiên cứu về vùng sống của một số loài trong giống
Rhinopithecus các tác giả đều cho rằng, kích thước vùng sống có liên quan
chặt chẽ với sự phân bố theo không gian và thời gian của nguồn thức ăn [32,
39, 11, 58, 25]. Theo Li và ctv (2000), mức độ sử dụng các khu vực khác
nhau trong vùng sống của lồi R.roxellana có tương quan chặt chẽ với sự
phân bố và mức độ phong phú của nguồn thức ăn, bao gồm cả các loại thức
ăn ưa thích [39]. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của tác giả Gueter và ctv
(2007a), khơng có sự tương quan ý nghĩa giữa sự có mặt của lá non, quả và

hoa với kích thước vùng sống hàng tháng [25].
Kích thước vùng sống các loài trong giống Rhinopithecus thay đổi theo
các mùa khác nhau [39, 58, 25]. Kết quả nghiên cứu của Gueter và ctv
(2007a) nhận thấy rằng sự chênh lệch lớn về kích thước vùng sống giữa mùa
thu và mùa đông, điều này được lý giải thông qua mức độ phong phú và sẵn
có của nguồn thức ăn. Mùa thu là thời gian các loại quả rất nhiều, đóng góp
phần lớn trong chế độ ăn của chúng. Trong khi đó mùa đơng lượng thức ăn bị
hạn chế, do vậy chúng phải di chuyển rộng hơn cho việc tìm kiếm những
phần quả cịn lại từ mùa thu [25]. Ngồi ra, nhóm tác giả cũng cho rằng loài


14

R.biet ở khu vực Gehuaqing này thể hiện việc sử dụng tập trung một không
gian nhất định trong mùa hè khi mà các loại quả đạt đến mức độ sẵn có nhiều
nhất, điều này sẽ dẫn đến sự tương quan ý nghĩa giữa sự sẵn có của các loại
quả với kích thước phạm vi theo mùa [25].
Một vài quan điểm khác chỉ ra rằng, sự tác động của người dân gây ảnh
hưởng tới mức độ sử dụng vùng sống của một số loài trong giống
Rhinopithecus [39]. Theo tác giả, sự tác động của người dân làm hạn chế tới
mức độ sử dụng vùng sống của chúng, cho dù tỉ lệ các lồi thức ăn có cao hơn
[39]. Tuy nhiên kết quả phân tích của Gueter và ctv (2008a) nhận thấy rằng,
kích thước vùng sống hàng tháng khơng có sự tương quan với chỉ số quấy
nhiễu và số lượng người bắt gặp tại nơi điều tra [25].
Sự thay đổi kích thước vùng sống không chỉ bị ảnh hưởng bởi các nhân
tố kể trên, mà còn thay đổi khi sử dụng các phương pháp ước tính khác nhau
[42, 26]. Chẳng hạn với loài R.bieti, kết quả nghiên cứu của Liu và ctv (2004),
sử dụng phương pháp ô lưới (250m x 250m) cho thấy, kích thước vùng sống
trong mùa đơng và mùa xn là 4,9km2; trong mùa thu và mùa hè là 8,4 km2,
và hàng năm là 10,7 km2 [42]. Theo Grueter và ctv (2008b), cho rằng giới hạn

phạm vi vùng sống thay đổi hàng tháng, tuỳ theo phương pháp áp dụng, đồng
thời tác giả cũng ghi nhận từ nghiên cứu của mình cho thấy, tổng kích thước
vùng sống của lồi R.bieti tăng lên khi tăng kích thước ơ lưới trong phương
pháp đếm số lượng ơ lưới [26].
So với các lồi trong giống Rhinopithecus, lồi Voọc mũi hếch
(R.avunculus) ở Việt Nam có vùng sống tương đối nhỏ, khoảng 10 km2 [17,
4]. Tuy nhiên theo Phạm Nhật (2002), kích thước vùng sống của lồi này
trong khoảng từ 3,8 – 5,6 km2, cũng theo tác giả độ lớn vùng sống của loài
này phụ thuộc chủ yếu vào mức độ giàu nghèo của nguồn thức ăn, hình như ít
phụ thuộc vào kích thước đàn [11]. Vùng sống của Voọc mũi hếch ở Khau Ca


15

là nơi có nhiều loại thực vật là thức ăn của chúng (Nghiến – Excentrodendron
tonkinese, Trai - Garcinia spp, Sâng – Pometia pinata, Thích Bắc bộ - Acer
tonkinensis, Tử quả - Iodes seguini), đây cũng là nơi có nhiều cây gỗ to, tán
dày và khép kín, có nhiều dây leo cao và rậm rạp, thuận lợi cho việc di
chuyển của voọc [11].
1.3.3.2. Độ dài quãng đường di chuyển trong ngày
Những nghiên cứu về vùng sống các loài trong giống Rhinopithecus
chỉ ra rằng, chiều dài quãng đường di chuyển trong ngày (DRL) thay đổi
theo mùa, khi mà lượng thức ăn thay đổi. Kết quả nghiên cứu về lồi
R.roxellana cho thấy kích thước vùng sống của chúng trong mùa xuân là
lớn nhất, tương ứng với quãng đường di chuyển trong ngày trong mùa
xuân là dài nhất [39, 58].
Bảng 1.4: Độ dài quãng đường di chuyển trong ngày của một số
loài trong giống Rhinopithecus
Lồi


R. roxellana

Kích thước vùng sống
theo mùa
Xn Hè
Thu
Đơng
14.1

9.5

12.3

12.1

11.9

5

7.1

2.9

16.25 – 25.25
R. bieti

17.8

18.6


9.3

18.2

DRL trung bình
(km)

Nguồn

Tỉ lệ với vùng sống

1

2.1±0.9

n=126

2

1.31±0.42

n=240

3

1.62

4

Nguồn: (1) Baoguo Li và ctv, 2000; (2) Tan và ctv, 2007; (3) R. C. Kirkpatrick và ctv,

1998; (4) Cyril C. Gueter và ctv, 2007a.

Sự phân bố và độ phong phú nguồn thức ăn, trong đó có các loại thức
ăn ưa thích (các loại quả) theo mùa được cho là nguyên nhân dẫn tới sự khác
nhau về quãng đường di chuyển trong ngày [39]. Kết quả nghiên cứu của Tan
và ctv (2007) cũng chỉ ra rằng, quãng đường di chuyển trong ngày trong mùa


16

đông ngắn hơn đáng kể so với mùa hè và mùa xuân, điều này theo tác giả
được lý giải bởi sự ảnh hưởng của phân bố nguồn thức ăn [58].
Theo Kirkpatrick và ctv (1998), kích thước vùng sống của lồi R.bieti
từ 16 – 25 km2 là rộng nhất so với bất kỳ loài các loài voọc nào khác ngoài
giống Rhinopithecus. Phần lớn các lồi voọc có qng đường di chuyển trong
ngày nhỏ hơn 1000 m, sự phân bố theo không gian và thời gian của nguồn
thức ăn ảnh hưởng tới sinh thái tập tính và hoạt động của lồi [32].
Khi nghiên cứu về lồi R.bieti, nhóm tác giả nhận thấy khoảng cách di
chuyển trong ngày của lồi R.bieti, có sự thay đổi dễ nhận thấy về khoảng
cách di chuyển trong tháng 12 năm 2006. Các đàn chỉ sử dụng ở một vùng
nhất định và khoảng cách di chuyển trong ngày là ngắn (<1500m) trong 3
ngày liên tiếp, với 2 lần trong tháng. Tác giả cũng nhận thấy cách mà chúng
di chuyển là theo kiểu zigzag, điều này có thể làm tăng độ dài di chuyển trong
ngày, tuy nhiên không làm tăng kích thước vùng sống. Ngồi ra, việc thường
xun quay lại những khu vực mà chúng đã tới trong thời gian trước cũng
được ghi nhận trong thời gian này [25].
1.3.3.3. Nơi ngủ
Các loài linh trưởng sống trên cây dành khoảng một nửa thời gian sống
của mình ở những nơi ngủ; vì thế việc lựa chọn những nơi ngủ rất cần thiết
cho sự tồn tại của mỗi cá thể [59]. Theo những thơng tin ghi nhận được cho

thấy, các lồi trong giống Rhinopithecus có nơi ngủ ở trên cây và là những
nơi yên tĩnh [17, 11, 4, 22, 59, 41].
Voọc mũi hếch ở Việt Nam có nơi ngủ khơng cố định [11, 4, 22],
chúng thường chọn những chỗ có nhiều cây to (Nghiến) làm nơi ngủ [11, 4];
Loài này cũng đã được ghi nhận nằm ngủ vắt ngang trên các khóm giang [11].
Khi ngủ, chúng thường lựa chọn các cành to ở thấp hơn để ngủ [17, 4, 22].


17

Theo Đồng Thanh Hải (2007), trong quá trình ngủ Voọc mũi hếch ngồi trên
các cành thấp, thường được che chắn bởi tán lá dày đặc và rất yên tĩnh; thung
lũng thường là những khu vực Voọc mũi hếch lựa chọn để nghỉ ngơi và làm
nơi ngủ [22]. Khi ngủ, các nhóm Voọc mũi hếch khác nhau trong đàn sẽ chia
nhau ngủ tại các cành và cây khác nhau [4]. Hiện chưa có nhiều nghiên cứu
đề cập cụ thể về thời gian ngủ của Voọc mũi hếch (R.avunculus), thời gian
ngủ trưa của Voọc mũi hếch khoảng 11 giờ [11].
Nơi ngủ của 2 lồi R.brelichi và R.bieti đều là những nơi có độ dốc
trung bình [41, 59]. Trong quá trình đi vào nơi ngủ và quá trình ngủ chúng
đều thường giữ yên lặng [41. 59], điều này có thể được hiểu là cách thức giúp
cho loài R.bieti tránh các loài ăn thịt [41].
Khác với lồi Voọc mũi hếch ở Việt Nam, có nơi ngủ khơng cố định,
ngược lại lồi R.bieti được ghi nhận là ngủ ở một nơi trong nhiều đêm liên
tiếp [41], điều này phản ánh việc giảm sức ép từ những lồi ăn thịt thơng qua
việc lựa chọn nơi ngủ. Lồi R.bieti khơng chọn những nơi dưới chân thung
lũng mặc dù là nơi có nhiều cây lớn để ngủ [41]. Nơi ngủ mà chúng thường
lựa chọn là nơi có nhiều cây cao nhất, với những cành dưới cùng cao và là nơi
có độ dốc của mặt đất là cao nhất. Chúng thường ngủ ở nơi có độ dốc trung
bình theo hướng đơng/đơng nam để tránh gió mạnh và để đón nhận ánh nắng
mặt trời, theo nhóm tác giả những tập tính này của lồi R.bieti là những chiến

lược để hạn chế tiêu thụ năng lượng nhỏ nhất trong vùng sống lạnh [41].
Trong khi đó, nơi ngủ của lồi R.brelichi thường gần nơi kiếm ăn cuối
cùng, và các hoạt động hàng ngày của chúng diễn ra xung quanh nơi ngủ [59].
Nghiên cứu của Xiang và ctv (2009) cũng cho thấy những khu vực liền kề các
nơi ngủ có cường độ sử dụng nhiều hơn những khu vực không liền kề với các
nơi ngủ. Trong mùa đơng lạnh, lồi R.brelichi thường rời nơi ngủ muộn hơn
vào buổi sáng. Nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy rằng, mối đe doạ về loài


18

ăn thịt, sự biến đổi nhiệt độ và những khó khăn về khí hậu là những nhân tố
xác định cho việc lựa chọn nơi ngủ cho loài khỉ này [59].
1.4. Một vài đặc điểm sinh thái và tập tính của Voọc mũi hếch
1.4.1. Phân loại và phân bố Voọc mũi hếch ở Việt Nam
- Phân loại
Trước đây nhiều nhà phân loại học Linh trưởng cho rằng, Voọc mũi
hếch và Chà vá cùng thuộc một giống Pygathrix (G.B. Cobert and J.E. Hill,
1992; Groves C.P., 1970, 1993). Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu Linh trưởng
khác (Đào Văn Tiến, 1985; Ratajszak R., 1989; Ratajszak R., Ngoc Can,
Pham Nhat, 1992, 1993; Đặng Huy Huỳnh et al, 1994; Lippold & Vu Ngoc
Thanh, 1995; Jablonski N.G., 1995, 1998; Fooden J., 1996; Nadler T., 1997)
vẫn cho rằng Voọc mũi hếch khơng thuộc giống Pygathrix (Trích dẫn bởi
Phạm Nhật, 2002[11]).
Kết quả nghiên cứu của Jablonski, (1998) cho thấy, giống Pygathrix có
mối quan hệ gần với giống Nasalis hơn so với giống Rhinopithecus. Kết quả
nghiên cứu cũng đã xác nhận Rhinopithecus như là một giống riêng biệt [29].
Ngoài ra, nghiên cứu của Zhang và Ryder (1998) tuy không giải quyết rõ ràng
mối quan hệ giữa các loài trong giống Rhinopithecus, nhưng kết quả nghiên
cứu của nhóm tác giả cũng ủng hộ học thuyết chúng là những loài riêng biệt.

Theo hệ thống phân loại của Jones và ctv (2004) cũng cho rằng, Voọc mũi
hếch (R.avunculus) thuộc giống Rhinopithecus, gồm tổng số 4 loài [19].
- Phân bố
Trước đây Voọc mũi hếch được báo cáo ghi nhận ở một số địa phương:
Tuyên Quang (Chiêm Hoá, Na Hang), Yên Bái (Lục Yên), Bắc Cạn (Bạch
Thơng, Na Rì, Chợ Đồn, Ba Bể), Hà Giang (Bắc Mê). Kết quả điều tra trong
những năm từ 1992 cho thấy, vùng phân bố của chúng đã bị thu hẹp, hiện còn
tập trung ở một số khu vực thuộc tỉnh Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hà Giang [11].


19

Trong khoảng 10 năm trở lại đây Voọc mũi hếch được ghi nhận phân bố
rải rác ở một số khu vực thuộc Hà Giang như: rừng Khau Ca, rừng Tùng
Vài [4, 23, 5, 7].
1.4.2. Đặc điểm hình thái Voọc mũi hếch
Đặc điểm nhận biết: Voọc mũi hếch là loài lớn nhất trong nhóm voọc
ở Việt Nam. Chúng có bộ lơng hơi dày, sợi lông rất mềm. Vùng sau gáy,
lưng, bên sườn, phía ngồi các chi, bàn chân và bàn tay đen hoặc nâu đen.
Trên đầu và quanh mặt trắng nhạt, phần họng, bụng và mặt trong các chi có
màu trắng mốc. Ngực có túm lơng màu vàng; lơng đi dài và mềm; mắt to,
trịn; mũi tẹt, lỗ mũi hình hạt nhót, chóp mũi hếch lên trán [11].
Kích thước: Dài đầu và thân 484 – 670 mm (trung bình 561,5 mm), dài
đuôi 660 – 850mm (726,9 mm), dài bàn chân sau 150 – 223 mm (186,6 mm),
cao tai 25 – 45mm (32,8 mm), trọng lượng 7.0 – 16 kg (10,2 kg) [11].
1.4.3. Sinh thái và tập tính
Sinh cảnh sống: Voọc mũi hếch (R.avunculus) thường sống ở rừng lá
rộng nhiệt đới phía Bắc Việt Nam [52]. Sinh cảnh thích hợp nhất là rừng
nhiều cây gỗ lớn, tán rừng dày trên núi đất có nhiều đá lộ đầu hoặc trong các
thung lũng, ít bị tác động và xa dân cư [11]. Độ cao nơi sống từ khoảng 200 –

1300m so với mặt nước biển [11, 37. 4]. Theo Đồng Thanh Hải và
Boonratana (2006), Voọc mũi hếch sống ở vùng đồi núi rừng nhiệt đới thường
xanh lá rộng trên sự hình thành các dãy núi đá vôi [23].
Thức ăn: Thức ăn của chúng bao gồm các thành phần thực vật như: lá,
hoa, quả, cuống lá, hạt … [17, 11, 4, 36, 22]. Đa số các nghiên cứu về thành
phần thức ăn của Voọc mũi hếch đều cho thấy trong khẩu phần ăn của chúng
có chứa tỷ lệ các loại quả là cao hơn các bộ phận khác [17, 11, 4, 36]. Từ
những quan sát (n = 34) ghi nhận được ở khu vực Na Hang, Voọc mũi hếch
gồm kiếm ăn trên lá và các phần của lá 38%; toàn bộ các loại quả xanh là


20

47% và 15% còn lại đã ghi nhận chúng kiếm ăn trên các loại hạt và quả chín
[17]. Trong khi đó, theo Phạm Nhật, (2002), đã ghi nhận 61 lồi thực vật làm
thức ăn cho Voọc mũi hếch, trong đó có 52 lồi ăn quả, cịn lại là ăn lá và
thân; lượng thức ăn một ngày gồm 37% là lá và 63% là các loại quả [11].
Những nghiên cứu về thức ăn của Voọc mũi hếch ở KBTL&SCVMH
Khau Ca gần đây cho thấy, 3 phần có tỉ lệ lớn nhất trong tổng số các loại thức
ăn bao gồm: quả xanh, quả chín và cuống lá, chiếm khoảng trên 70% trong
tổng số các loại thức ăn [4, 36, 22]. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của
Đồng Thanh Hải (2007) ghi nhận, 3 thành phần chiếm tỉ lệ cao nhất trong
khẩu phần ăn của Voọc mũi hếch gồm: (1) lá non và các phần của lá non
chiếm tỉ lệ cao nhất với (33.9%); (2) hoa (13,56%) và (3) là thân cây non
(10,17%). Các phần còn lại chiếm khoảng 40 % (gồm các loại quả xanh, chín,
hạt, hoa, lá trưởng thành) [22].
Tổ chức đàn: Theo ghi nhận của Boonratana và Lê Xuân Cảnh (1998) ở
Na Hang, đơn vị xã hội cơ bản của Voọc mũi hếch là 1 đực. Trong mỗi đơn vị
1 đực bao gồm 1 con đực trưởng thành hoàn toàn, vài con cái trưởng thành và
vài con non [17]. Theo Phạm Nhật (2002), số lượng con trong đàn thay đổi từ

7 đến 25 con, trong đó kích thước trong khoảng từ 11 đến 15 con là hay gặp
nhất [11].
Tổ chức đàn của Voọc mũi hếch ở KBTL&SCVMH Khau Ca gồm kiểu
đơn vị một đực [4, 22] và với những đàn có kích thước quần thể lớn (> 20 cá
thể) kiểu tổ chức đàn gồm 3 đến 4 cá thể đực như vậy sẽ hình thành nên đàn
lớn trên cơ sở nhiều đơn vị xã hội 1 đực [4].
Tập tính xã hội: Voọc mũi hếch sống thành đàn [17, 11, 4, 22]. Các tập
tính xã hội đã ghi nhận được từ Voọc mũi hếch bao gồm: nghỉ ngơi, di
chuyển, cảnh giới, chải lông, chơi đùa và các hoạt động khác [17, 4, 22]. Theo


21

Đồng Thanh Hải (2007), nghỉ ngơi là tập tính chiếm tỉ lệ lớn nhất (33.4%) ở
Voọc mũi hếch [22].
Di chuyển và kiếm ăn: Voọc mũi hếch hoạt động ngày, kiếm ăn vào
buổi sáng, chiều, trưa nghỉ. Trong quá trình kiếm ăn, chúng thường phát ra
những tiếng kêu; Thời gian kiếm ăn của chúng thường vào đầu buổi sáng và
giữa buổi chiều [11, 4]; cường độ kiếm ăn của chúng thường mạnh vào đầu
buổi sáng và giữa buổi chiều [11].
Sinh sản ở Voọc mũi hếch: hiện tại chưa có nghiên cứu nào về sinh sản
của Voọc mũi hếch, tuy nhiên theo ghi nhận ngoài thực địa, Phạm Nhật
(2002) cho rằng Voọc mũi hếch có khả năng sinh sản quanh năm [11].
1.5. Phân bố, tình trạng bảo tồn và các mối đe doạ
Phân bố: Theo những báo cáo gần đây nhất, hiện tại có một vài quần
thể Voọc mũi hếch phân bố rải rác ở các khu vực gồm: Khu vực Tát Kẻ, với
khoảng 22 cá thể [22]; khu vực Khau Ca, Tỉnh Hà Giang [4, 2], số lượng ước
tính khoảng 90 cá thể [22] và rừng Tùng Vài, khoảng 20 cá thể [7].
Các mối đe doạ: Các mối đe doạ hiện tại quần thể Voọc mũi hếch phải
đối mặt trên hầu hết phạm vi phân bố của chúng là do con người gây ra và có

thể nhóm những tác động này thành 2 dạng: săn bắn và không săn bắn [37].
Săn bắn và bẫy bắt: Mặc dù được thừa nhận là Voọc mũi hếch không
phải là mục tiêu, tuy nhiên chúng vẫn bị bắn mỗi khi bị phát hiện và được tiêu
thụ hoặc các phần của chúng được sử dụng để sản xuất dược phẩm
truyền thống [37, 24, 22]. Theo Đồng Thanh Hải (2006), trong quá trình
điều tra tại KBTTN Na Hang, vẫn ghi nhận có 2 lều (1 cũ và 1 mới gần
đây), đồng thời vẫn nghe tiếng súng bắn xung quanh khu vực. Bên cạnh
súng săn, người dân địa phương cịn sử dụng các cơng cụ truyền thống
phục vụ cho các hoạt động bẫy bắt như các loại nỏ hoặc các loại bẫy
bằng đá, bẫy kim loại [24]. Theo ghi nhận của Lê Khắc Quết (2006),


22

hiện tượng săn bắn, bẫy bắt vẫn diễn ra xung quanh KBTL&SCVMH
Khau Ca mặc dù không phổ biến và công khai [4].
- Phá hoại sinh cảnh: Các mối đe doạ hiện tại từ các hoạt động không
săn bắn là kết quả của một thời gian dài những tác động của con người, điều
này đã gây ảnh hưởng liên tục, kéo dài lên quần thể Voọc mũi hếch thông qua
việc làm thay đổi và sự phân mảnh nơi sống thích hợp của chúng [37]. Theo
Lê Khắc Quyết (2006), ở khu vực Khau Ca, tỉnh Hà Giang, hầu như tất cả các
khu rừng nhỏ đều có dấu tích tác động của con người, bao gồm: Các hoạt
động khai thác gỗ trái phép ở bìa rừng; khai thác lâm sản phi gỗ, đặc biệt là
các loại thảo dược; chăn thả gia súc [4]. Bên cạnh các tác động trên, sinh cảnh
Voọc mũi hếch còn bị tác động, quấy nhiễu bởi các hoạt động xây dựng thuỷ
điện và khai thác khoáng sản [37, 4, 22].
Tình trạng bảo tồn
Voọc mũi hếch ở Việt Nam nằm trong tốp 25 loài Linh trưởng nguy
cấp nhất thế giới [46], cần được xếp ưu tiên trong các hoạt động bảo tồn.
Trong Danh sách Đỏ của IUCN 2010, Voọc mũi hếch được xếp vào tình trạng

cực kỳ nguy cấp (CR) ().
Hiện tại Voọc mũi hếch ở Việt Nam được xếp vào tình trạng cực kỳ
nguy cấp trong Sách Đỏ Việt Nam, thuộc nhóm IB Nghị định số 32/2006/NĐCP của Thủ tướng Chính phủ [1]. Do vậy trong những năm gần đây có rất
nhiều các cơng trình, dự án của các tổ chức trong nước và quốc tế như FFI,
WWF…quan tâm trong việc bảo tồn lồi Linh trưởng q hiếm này. Các dự
án cụ thể về bảo tồn sinh cảnh, bảo tồn loài cũng đã và đang được phát triển.


23

Chương 2

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý
KBTL&SCVMH Khau Ca là khu vực núi đá vơi có diện tích khoảng
1.000 ha, cách thị xã Hà Giang khoảng 15 km về phía Đơng và cách Hà Nội
khoảng 300 km về phía Bắc (bản đồ 2.1).
Toạ độ địa lý: 22049’38’’ – 22051’52’’ vĩ độ Bắc
105005’55’’ – 105009’12’’ kinh độ Đơng

Hình 2.1: Vị trí KBTL&SCVMH Khau Ca, tỉnh Hà Giang


24

KBTL&SCVMH Khau Ca nằm trong địa phận hành chính của 3 xã
Tùng Bá (huyện Vị Xuyên), Minh Sơn và Yên Định (huyện Bắc Mê), tỉnh
Hà Giang.
- Phía Bắc thuộc xã Tùng Bá
- Phía Nam thuộc xã n Định

- Phía Đơng thuộc xã Minh Sơn
- Phía Tây thuộc xã Tùng Bá và xã Yên Định
2.2. Khu hệ thực vật
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Anh Đức và cộng sự (2006),
Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2006), KBTL&SC VMH Khau Ca có năm
kiểu thảm thực vật sau:
1. Rừng núi thấp thường xanh nguyên sinh mọc trên đá vôi chiếm hầu hết
diện tích của Khau Ca. Ở đây chủ yếu có loại cây thường xanh lá rộng
Tiliaceae (Excentrodendron tonkinense), Ericaceae (Rhododendron spp.),
Illiciaceae (Illicium spp.), Euphorbiaceae (Pometia spp., Vernicia spp.),
Aceraceae (Acer spp.), Araliaceae (Schefflera spp.), Fagaceae (Quecus
spp.), Poaceae, Asteraceae, Malpighiaceae và Oleaceae.
2. Rừng thường xanh thứ sinh trên núi đá vôi nằm ở vùng giao giữa rừng
nguyên sinh thuộc vùng đệm ở Khau Ca và rừng suy thoái xung quanh
Khau Ca. Vùng này đặc trưng bởi các loài như Mallotus spp., Triadica
rotundifolia (Euphorbiaceae), Pouzolzia sp., Elatostema spp. (Urticaceae),
Pterospermum spp., Sterculia spp. (Sterculiaceae), Ficus spp. (Moraceae)…
3. Các trảng cỏ - cây bụi thứ sinh được phục hồi từ đất nơng nghiệp trong và
ngồi Khau Ca. Vùng này đặc trưng bởi các loài như Rubus alcaefolius,
Rubus cochinchinensis (Rosaceae), Melastoma normale (Melastomataceae),
Chromolaena odorata (Asteraceae), Thysanolaena maxima (Poaceae),
Urena lobata (Malvaceae), Pteridium aquilinum (Dennstaedtiaceae…


×