Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phân tích giá trị của tư tưởng về con người và xây dựng con người của triết học Nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.73 KB, 7 trang )

Trần Xuân Thiện Lớp K – Cao học khoá 18
Bài tập: Phân tích giá trị của tư tưởng về con người và xây dựng con
người của triết học Nho giáo.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công
nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung quốc, Ấn độ và Hy lạp
cổ đại.
Quá trình hình thành và phát triển, triết học gắn liền với tri thức của con
người. Khái quát lại, có thể cho rằng: Triết học là một một hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế gới, về bản thân con người và vị trí của
con người trong thế giới đó.
Qua từng giai đoạn phát triển trong lịch sử, triết học phát triển cũng thay
đổi theo từng giai đoạn lịch sử. Thời cổ đại, ở Trung hoa, triết học gắn liền với
với những vấn đề chính trị xã hội; ở Ấn Độ, triết học gắn liền với tôn giáo; ở
hy lạp, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên.
Sự hình thành và phát triển của triết học có tính quy luật của nó. Trong
đó, các tính quy luật chung là: Sự hình thành, phát triển của triết học gắn liền
với điều kiện kinh tế - xã hội, với cuộc đấu tranh giai cấp, các lực lượng xã hội;
với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; với sự thâm nhập và
đấu tranh giữa các trường phái triết học với nhau.
Từ thời cổ đại đến nay, triết học đã phát triển qua nhiều giai đoạn và gắn
với các điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi hình thái xã hội. Ở Trung hoa thời kỳ
cổ đại, triết học phát triển gắn liền với những vấn đề chính trị, xã hội:
Về tự nhiên: Trung Quốc cổ đại là vùng đất rộng lớn. Miền bắc, xa biển,
khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cằn cỗi, sản vật nghèo. Miền nam, khí hậu ấm
áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản vật phong phú.
Về kinh tế - xã hội, thời Đông Chu, quyền sở hữu tối cao về đất đai
thuộc về tần lớp giai cấp địa chủ, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình
thành. Nguyên nhân kinh tế này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn dựa trên
Trần Xuân Thiện Lớp K – Cao học khóa 18
cơ sở tài sản, sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ và đẩy Trung
Quốc cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Điều kiện lịch sử ấy đòi hỏi


giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu để xây dựng chế độ phong kiến; giải thể
nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải
phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Thực trạng của xã
hội đã làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm “kẻ sĩ” luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho một xã hội tương lai, dẫn đến
hình thành các nhà tư tưởng lớn và các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Theo sách hán thư có rất nhiều học phái như: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh
gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Nông gia, Binh gia, Tung hoành gia, Tiểu thuyết
gia, Tạp gia … Với các nhà triết học nổi danh như: Khổng - Mạnh – Tuân của
Nho gia, Lão - Trang của Đạo gia, Mặc tử của Mặc gia … Trong đó có sáu
phái chủ yếu là: Nho, Mặc, Đạo, Danh, Pháp, Âm Dương. Có ảnh hưởng lớn
nhất là ba phái: Nho, Mặc, Đạo.
Điều kiện trên quy định nội dung, tính chất của triết học. Nét đặc thù của
triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết các học thuyết có xu hướng đi sâu
giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung
bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước.
Như ở trên đã trình bày, phái Nho giáo là một trong những phái triết học
có ảnh hưởng lớn đến triết học Trung Quốc cổ, trung đại. Người sáng lập phái
Nho giáo là Khổng tử (đời nhà Tần). Trong điều kiện xã hội thời đó, Ông thấy
nhiều luân thường đạo lý bị đảo lộn: Vua chẳng ra Vua, Tôi chẳng ra Tôi… vì
vấy ông xây dựng học thuyết của mình nhằm để khôi phục lại trật tự nhà Chu,
xây dựng lại đạo đức xã hội, chuẩn mực xã hội, đề cao đạo đức, giáo dục.
Tư tưởng về con người.
Khi đặt vấn đề nguồn gốc của con người, Khổng tử cho rằng trời sinh ra
con người và muôn vật.
2
Trần Xuân Thiện Lớp K – Cao học khóa 18
Khi xác định vị trí, vai trò của con người trong mối quan hệ với trời, đất,
con người và vạn vật trong vũ trụ thì Nho giáo cho rằng: con người được đặt

lên vị trí cao nhất. Con người do trời sinh ra nhưng sau đó con người cùng với
trời, đất là ba ngôi tiêu biểu cho tất cả mọi vật trong thế giới vật chất và tinh
thần.
Về quan hệ giữa trời với người, các nhà duy tâm đi sâu phát triển tư
tưởng thiên mệnh của Khổng tử, cho rằng có mệnh trời và mệnh trời chi phối
cuộc sống xã hội của con người, cuộc đời của mỗi con người.
Về bản tính của con người, Khổng tử cho rằng “tính mỗi con người đều
gần nhau, do tập tành và thói quen mới hóa ra xa nhau”.
Tư tưởng về xây dựng con người.
Nho giáo đặt vấn đế xây dựng con người một cách thiết thực, hướng con
người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất,
luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của hoạt động xã hội. Quan điểm về vũ trụ, về
nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức. Tất cả cả mọi vấn đề
đều lấy đạo đức làm chuẩn. Người Trung Quốc trong lịch sử coi việc tu thân
dưỡng tính cá nhân liên hệ mật thiết với nhận thức thế giới khách quan, thậm
trí coi tu thân dưỡng tính là cơ sở để nhận thức thế giới khách quan.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho giáo là giúp con người xác định
được năm mối quan hệ cơ bản (ngũ luân) và làm tròn trách nhiệm trong năm
mối quan hệ ấy. Năm mối quan hệ ấy quyết định đạo làm người và quyết định
đức tính cần thiết nhất của con người để phục vụ mối quan hệ ấy. Năm quan hệ
đó là: Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Từ những quan hệ ấy, kinh
điển cũng nêu lên các đức lớn cần có là vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu,
anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bạn hữu phải có tín.
Để củng cố năm mối mối quan hệ cơ bản trên, Nho giáo đã nêu lên
những phẩm chất quan trọng bậc nhất mà mọi người phải đạt tới. Con đường
phấn đấu là phải ra sức tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình, góp
3
Trần Xuân Thiện Lớp K – Cao học khóa 18
phần vào quản lý đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ (Tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ). Vấn đề tu dưỡng của bản thân hàng đầu là tu thân. Mục

tiêu trước mắt của tu thân là là thái độ ứng xử trong gia đình. Nho giáo đặt vấn
đề rằng “thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình” Vì vậy, tu
sửa thân mình trước hết nhằm làm cho mình xứng đáng với vị trí là một thành
viên trong gia đình. Mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi người trong gia đình
đã được kinh dịch xác định “Cha nên cha, con nên con, anh nên anh, em nên
em, chồng nên chồng, vợ nên vợ, ấy là đạo chính”. Đặc biệt trong quan hệ gia
đình, quan hệ cha – con, anh – em được biểu hiện tập trung ở hai đức hiếu và
đễ, hai đức ấy được Khổng tử được xác định là gốc của nhân. Mục tiêu tiếp
theo của tu thân là trách nhiệm với nước. Từ phụng sự cha mẹ người ta nâng
lên phụng sự nhà vua, từ phép tắc trong nhà người ta suy rộng và vận dụngvào
việc xây dựng thể chế, nghi thức và tổ chức bộ máy cai trị và trật tự tôn ti trong
cả nước. Nho giao đã đem gắn chặt nước với nhà, coi tề gia là tiền đề của trị
quốc. Nói tới nước tức là nói tới vua, vua có sứ mệnh lớn là cai trị đất nướccủa
thần dân. Nho giáo khuyên họ trau rồi đạo đức trong công việc trị nước. Tất cả
tập trung vào chữ nhân (= vua nhân). Với thần dân, số phận định đoạt cho họ là
phụng sự. Nho giáo khuyên họ hết lòng phụng sự, nên sống yên phận, phục
tùng, sẵn sàng xả thân bảo vệ Vua. Tất cả tập trung vào chữ Trung. Mục tiêu
cuối cùng của tu dưỡng bản thân là bình thiên hạ. Thiên hạvới nghĩa là dưới
gầm trời, luôn gắnvới sự ngự trị của một bậc thiên tử, nhận mệnh trời đứng ra
bình thiên hạ, quyết định vận mệnh thiên hạ.
Về những đức thường xuyên phải trau dồi, nhiều danh nho nêu lên năm
đức (Ngũ thường): Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đối với người có vị trí, trọng trách,
các danh nho gộp thành cụm ba đức: Nhân, trí, dũng. Nhứng đức được đề cao,
coi là hạt nhân: nhân và lễ.
Nhân là hết lòng tận tụy yêu thương đối với mọi người trong năm quan
hệ. Nội dung hàng đầu của nhân là trung, hiếu
4
Trần Xuân Thiện Lớp K – Cao học khóa 18
Nghĩa là thấy việc đáng làm thì phải làm, thấy điều đáng nói thì nói,
không hề mưu tính lợi ích riêng của mình

Xét về mối liên hệ nhân với nghĩa thị nhân là sự thể hiện tình cảm sâu
sắc nhất của con người. Ở Nho giáo, nghĩa thường đặt ngang hàng với nhân,
tạo nên cặp phạm trù Nhân – Nghĩa.
Lễ, theo nghĩa rộng là nghi thức, quy chế kỷ cương, trật tự, tôn ti của
cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa
rộng này, lễ là cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo cho sự phân định trên
dưới rõ ràng. Lễ hiểu theo nghĩa là một đức bên trong ngũ thường, đó là sự
thực hành đúng những gíao huấn kỷ cương do Nho giáo đề ra. Đã là người thì
phải học lễ, biết lễ và có lễ.
Trí, nghĩa chung là sự hiểu biết điều hay lẽ phải để có những nhận thức
đúng đắn và hành vi phải đạo trong năm mối quan hệ. Khổng tử coi trí là điều
kiện để nhân có cơ sở hợp lý về nhận thức. Muốn có trí thì phải học.
Tín là đức trong mối quan hệ bạn bè. Giữ đúng lời hứa, làm đíung điều
đã nói là một biểu hiện cụ thể của tín. Tín rất quan trọng với mọt người, sách
Đại học chỉ rõ rằng “Giao kết với người, cốt ở chữ tín”. Khổng tử nói: “Người
mà không có tín, thì không biết sẽ ra thế nào”. Với người trị nước, trị dân,
khổng tử cho rằng “dân không tin thì không đứng vững”.
Tóm lại, theo Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định
và làm tròn trách nhiệm của mìnhtrong các quan hệ ấylà vua tôi, cha con, anh
em, chồng vợ, bạn bè (ngũ luân), trong đó có ba điều chính là vua tôi, cha con,
chồng vợ (tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt là vua – tôi,
biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung và
hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi là:
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa
trong đó nhân là chủ. Vì vậy gọi đạo của Khổng tử là đạo nhân.
5

×