Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại từ thực tiễn quận hoàng mai, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THANH HOA

KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THANH HOA

KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI, 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được
ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả đề tài

Đặng Thị Thanh Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................ 7
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng
hình sự ....................................................................................................... 7
1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng
hình sự ..................................................................................................... 14
1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng
hình sự ..................................................................................................... 19
Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO
YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG
MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................... 24
2.1. Sự hình thành và phát triển các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam ...................................... 24
2.2. Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 .......................................................................... 27
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên
địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ............................................. 40

Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM
ÁP DỤNG QUY ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................. 53
3.1. Cơ sở hồn thiện các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại53
3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại ............................................................................................................ 56
3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của bị hại .................................................................................................. 66
KẾT LUẬN .............................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 81
PHỤ LỤC ................................................................................................ 85


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra


CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

TA

Tịa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số bị cáo, số vụ án và vụ án đã được xét xử trên địa
bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. .................... 85
Bảng 2.2: Thống kê các vụ án khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trên địa
bàn quận Hoàng Mai giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ..................... 85
Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại được đưa ra
xét xử với số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn giai đoạn 2016 - 2020 ... 87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dù trong bất kỳ Nhà nước nào thì nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống tội
phạm luôn được xem là một nhiệm vụ cốt lõi, là cơ sở để đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội của đất nước và yếu tố tiên quyết để đảm bảo văn hóa + kinh tế của
một đất nước thực sự ổn định và phát triển. Không ngoại lệ, bản thân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng xem đây là nhiệm vụ tối quan trọng trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công tác này được quán triệt thực
hiện đồng bồ từ trung ương đến địa phương, từ việc kiểm soát, quản lý tội phạm
đến việc xử lý tội phạm. Trong đó, việc xử lý tội phạm được thực hiện thơng qua
q trình TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xử lý hình sự tội phạm
khơng chỉ bảo vệ được quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn trực tiếp bảo vệ các
quyền lợi của người bị hại, là nạn nhân của tội phạm, bị hành vi nguy hiểm cho

xã hội gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Tuy nhiên, TTHS là một quá trình giải quyết vụ án hình sự cơng khai,
minh bạch mà kết thúc của nó là một bản án, quyết định thông qua việc xét xử
công khai với người dân tại Tòa án để trừng trị, giáo dục người phạm tội. Việc
này đồng nghĩa với việc những hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra cho người bị
hại cũng được cơng khai tại phiên tịa xét xử hình sự. Nhưng, từ phía người bị
hại, khơng phải mọi trường hợp công khai xử lý tội phạm xâm hại nhằm bảo vệ
các quyền lợi hợp pháp của họ đều mang đến những lợi ích tích cực cho họ, đơi
lúc chính việc xử lý đó gián tiếp mang đến cho người bị hại thêm những hậu quả
không mong muốn. Lợi ích của người bị hại trong TTHS khơng phải là lợi ích
vật chất mà cịn là các lợi ích tinh thần, lợi ích xã hội khác. Nhất là đối với các
tội phạm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người,
nếu khởi tố thì những lợi ích về tinh thần, lợi ích khác trong xã hội cũng có thể
bị ảnh hưởng mặc dù tội phạm khơng hề xâm hại đến. Chính vì vậy, PLTTHS
cho phép người bị hại lựa chọn cân nhắc trong việc quyết định yêu cầu các cơ
quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm gây ra thiệt hại cho mình trong một số

1


trường hợp nhất định, theo đó, quy định về “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại” cũng ra đời.
Quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được
đề cập đến tại Điều 88 của BLTTHS 1988, sau đó tiếp tục được giữ nguyên và
phát triển tại Điều 105 BLTTHS 2003 và hiện nay là Điều 155 BLTTHS 2015.
Đây được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta, đảm bảo sự
tốt nhất về quyền lợi cho người bị hại. Thực tế cho thấy, chế định này đã và đang
mang đến những hiệu quả đáng ngưỡng mộ mà các nhà làm luật đã mong đợi.
Tuy nhiên, việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại hiện nay vẫn chỉ
nằm ở mức là quy định của pháp luật nhưng chưa được nguyên cứu hoặc nghiên

cứu chưa sâu, chưa hiệu quả nên việc thực hiện chế định này ở nhiều địa phương
có những nhận thức khác nhau, dẫn đến những hạn chế, vướng mắc nhất định
trong việc áp dụng pháp luật.
Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội là một trong những quận trung tâm
của thành phố với mật độ dân cư đơng đúc, chính vì thế mà tình hình tội phạm
cũng rất phức tạp. Để đáp ứng yêu cầu đặt ra, thời gian các cơ quan tiến hành tố
tụng của quận Hoàng Mai đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, góp phần giữ vững trật tự - xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, như đã nói ở
tên, khơng phải mọi cơng tác đều được thực hiện tốt, cịn nhiều cơng tác đang
vướng phải nhiều khó khăn, hạn chế trong đó có việc thực hiện chế định khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại. Những vướng mắc, bất cập này gây khơng ít khó
khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật.
Vì vậy, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của người bị hại do tội
phạm xảy ra trên địa bàn quận Hồng Mai, nơi mà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể,
lợi ích cộng động, xã hội được đặt lên trên nhiều mặt của đời xong thì việc nâng
cao nhận thức về việc áp dụng pháp luật trong khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai hiện nay.

2


Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Dưới góc độ khoa học, thời gian qua việc nghiên cứu về chế định khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số
cơng trình nghiên cứu được công bố như:
Các luận án, luật văn luật học: 1) Nguyễn Đức Thái, Luận án tiến sĩ luật

học: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt Nam, Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2015; 2) Lương Bình Dương, Luận án tiến sĩ luật
học: Pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS Việt
Nam hiện nay, Học Viện Khoa học Xã hội, 2017; 3) Hoàng Lan Phương, Luận
văn thạc sĩ luật học: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
TTHS, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Lê Lan Chi, Luận án Tiến
sĩ Luật học: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật
TTHS Việt Nam + Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2010; 5) Lê Nguyên Thanh, Luận án tiến sĩ Luật học: Người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam, Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, 2012;…
Một số sách chun khảo, giáo trình, bài viết: 1) Nguyễn Ngọc Anh, Phan
Trung Hồi, Bình luận khoa học BLTTHS 2015, NXB Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội, 2018; 2) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,
NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2016; 3) Trường Đại học kiểm sát Hà Nội,
Giáo trình luật TTHS, NXB Chính trị quốc gia -sự thật, Hà Nội, 2016; 3) Đinh
Văn Quế, “Khởi tố theo u cầu của người bị hại”, Tạp chí Tịa án số 11, 1991;
4) Nguyễn Hải Ninh, Vấn đề khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chị Luật
học số 6, 2010; 5) TS. Phạm Mạnh Hùng, Vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại trong BLTTHS 2015”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 03,

3


2016; 6) Nguyễn Văn Dũ, Rút yêu cầu khởi tố: Khơng có gì tranh cãi, Báo Pháp
luật TP Hồ Chi Minh online ngày 7/5/2012; 7) Nguyễn Văn Cường, Khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của người bị hại + những vướng mắc, Tạp chí Kiểm sát
số 01, 1998;…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các cơng trình trên cho thấy một số cơng trình
chủ yếu dựa trên những quy định của BLHS 1999 và BLTTHS 2003 nên đã

khơng cịn phù hợp, bên cạnh đó, các cơng trình mang tính tổng qt nhưng chưa
có một cơng trình nào được phân tích dựa địa phương cụ thể. Vì vậy việc nghiên
cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong
TTHS, từ thực tiễn địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.” vẫn là một
nội dung mang tính mới, đáp ứng địi hỏi của thực tiễn cơng cuộc đấu tranh,
phịng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nguyên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật
về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong TTHS; hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng chế định này; nghiên cứu các vi
phạm phổ biến, các vấn đề tồn tại và đưa ra những kiến giải nhằm nâng cao hiểu
quả của áp dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại dựa
trên tình hình thực tế tại quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội.
Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải phân tích,
làm rõ các quy định của PLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại trên phạm vi quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội. Từ đó, rút
ra nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và kiến giải hợp lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu
những đối tượng cụ thể :

4


Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong TTHS từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích các quy định của pháp luật về TTHS và khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại theo pháp luật hiện hành. Cụ thể là từ hoạt động
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến khi
có bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, phân tích thực tiển áp
dụng pháp luật khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trên phạm vi địa bàn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong 05 năm (từ 2015 đến 2019).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được phân tích, nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối,
chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
5.2. Phương
pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến, thường xuyên trong nghiên
cứu khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải quyết
các vấn đề đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luân và thực tiễn
Về lý luận, đề tài được xây dựng dựa trên các vấn đề lý luận về khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của bị hại gắn với thực tiễn tại địa bàn quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài
góp phần hồn thiện và và làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, hoạt động cụ thể của các cơ
quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật.

5



Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh tham khảo
hữu ích cho các đơn vị như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án
nhân dân các cấp nói chung và các đơn vị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân, Tịa án nhân dân quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng trong thực
tiễn thực hiện chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Ngồi ra, kết
quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng nghiên cứu, áp
dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại.
Chương 2: Thực trạng quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại trong TTHS và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố
Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng quy
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU
CỦA BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Giai đoạn TTHS là các phần độc lập, liên quan, kế tiếp nhau liên tục, giai
đoạn trước là điều kiện, là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn sau, giai đoạn
sau thay thế và kiểm tra kết quả của giai đoạn trước, tạo thành một q trình tố
tụng hồn chỉnh nhằm đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn,
khách quan, toàn diện và kịp thời. Khoa học luật tố tụng hình sự cho rằng quy

trình giải quyết một vụ án hình sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định gồm:
khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên
của quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có đầy đủ
các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với những mục tiêu và nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Giai đoạn
khởi tố là mở đầu quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ của các giai đoạn tố
tụng sau, và các giai đoạn sau cũng có mối quan hệ chặt chẽ với giai đoạn khởi
tố thể hiện ở việc kết quả của các giai đoạn này sẽ kiểm nghiệm lại những vấn đề
đã được xác định trong giai đoạn khởi tố.
Cịn theo quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu
của trình tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có
dấu hiệu của tội phạm hay khơng để quyết định khởi tố hay quyết định không
khởi tố vụ án hình sự [34, tr.233].
Quan điểm của Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề này như sau: Khởi tố vụ án hình sự là một giai
đoạn độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay khơng dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc quyết

7


định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin
về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].
Định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự cũng được GS.TSKH Lê Cảm đưa ra,
theo đó:“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của PLTTHS tiến hành
việc xác định có (hay khơng) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố

(hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó” [7, tr.15].
Trong định nghĩa về Quyết định khởi tố vụ án hình sự, GS.TS Võ Khánh
Vinh cũng đã đưa ra định nghĩa bao hàm định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự như
sau: “Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi TTHS của một pháp nhân (chủ
thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu hiện bằng một
văn bản TTHS xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của
tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố
tụng, mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự
thật khách quan về sự kiện đó. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ
khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan
có thẩm quyền ra được một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình
sự và quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự” [43, tr.268, 269].
Qua nghiên cứu các cơng trình và tài liệu chun ngành TTHS đã công bố
cho thấy, khái niệm “khởi tố vụ án hình sự” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau:
Góc độ tiếp cận thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự là một chế định của luật
TTHS, bao gồm tập hợp những quy định về trình tự và thủ tục khởi tố vụ án hình
sự. Theo đó có thể hiểu, khởi tố vụ án hình sự là tập hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ tố tụng hình sự thể hiện ở các mặt quy định về thẩm quyền,
về trình tự thủ tục, và các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự
thể hiện vai trị quan trọng trên nhiều phương diện, cả về phương diện kiểm soát

8


và phòng ngừa tội phạm. Bởi lẽ, khởi tố vụ án hình sự là biện pháp hữu hiệu
trong việc ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế, thể
hiện sự nhanh chóng và kịp thời của các cơ quan đấu tranh chống tội phạm trong
việc xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi tội

phạm và người phạm tội, bảo đảm tính trừng trị và giáo dục của pháp luật hình
sự. Để khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên các quy định của BLTTHS. Để xác
định có dấu hiệu tội phạm thì phải dca vào cấu thành tội phạm cụ thể, với các
dấu hiệu đặc trưng sau: Một là, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
Hai là, tính có lỗi; Ba là, tính trái pháp luật hình sự; Bốn là, tính phải chịu hình
phạt. Chỉ khi xác định đầy đủ các yếu tố theo quy định của BLHS và BLTTHS
khi đó mới có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi động quy trình giải
quyết một vụ án cụ thể.
Góc độ tiếp cận thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một hành vi tố
tụng mở đầu cho giai đoạn điều tra, được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền
theo quy định của BLTTHS. Theo đó có thể hiểu khởi tố vụ án hình sự là quyết
định của cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật
hình sự, biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự mở đầu cho việc thực hiện
những hành vi tố tụng tiếp theo để làm rõ sự thật khách quan của sự việc có chứa
đựng dấu hiệu tội phạm, từ đó đề ra các biện pháp xử lý bằng pháp luật hình sự
đúng đắn.
Góc độ tiếp cận thứ ba, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn
tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là cách hiểu thông
thường và phổ biến hiện nay. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xem là giai
đoạn mở đầu cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo rong TTHS. Nói cách khác, sau
khi ban hành quyết định khởi tố vụ án sẽ làm phát sinh nhiều quyển hạn của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án khi thực hiện các hành vi tố tụng theo quy
định của BLTTHS nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm và người
phạm tội.

9


Có thể thấy, mỗi góc độ tiếp cận trên đây đều có hạt nhân hợp lý nhất
định, tuy nhiên tựu chung lại giai đoạn này có đặc điểm chính sau đây:

Một là, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho
quá trình TTHS, được bắt đầu với việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc trực tiếp phát hiện về tội phạm và thời
điểm kết thúc của giai đoạn này là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Hai là, xuất phát từ việc khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
TTHS, ở đó chức năng quan trọng của giai đoạn tố tụng này đó là xác định các
tiền đề pháp luật về nội dung (trên cơ sở BLHS) và pháp luật về hình thức (trên
cơ sở BLTTHS) của việc điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định sự việc đó có dấu hiệu tội
phạm hay không?; căn cứ để khởi tố vụ án có đảm bảo khơng?; các trình tự, thủ
tục tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh nào phù hợp với quy định pháp
luật?...
Ba là, kết quả quả giai đoạn này là quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc có hay khơng khởi tố vụ án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả, bên cạnh những nội dung đã được thống nhất
như trên, định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự cịn phải bao hàm thêm những nội
dung sau:
Một là, cần nêu lên những căn cứ mà các cơ quan có thẩm quyền phải dựa
vào để tiến hành việc xác định có hay khơng các dấu hiệu của tội phạm, cụ thể là
phải căn cứ vào “các quy định của pháp luật hình sự và TTHS”.
Hai là, xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm hoặc phát hiện tội phạm và giai đoạn khởi tố kết
thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi các CQTHTT
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm như: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan,

10



tổ chức, cá nhân; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị
khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội
biên phòng, Cơ quan Hải quan, Cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và
các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
người phạm tội tự thú. Giai đoạn khởi tố kết thúc khi các cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình
sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có
hay khơng có các dấu hiệu cấu thành tội phạm, từ đó làm căn cứ để quyết định
việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2. Khái niệm bị hại trong tố tụng hình sự
Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể của tố tụng hình sự
bên cạnh CQTHTT và người tiến hành tố tụng trong suốt q trình giải quyết vụ
án để địi hỏi khơi phục lại những thiệt hại của họ do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại có thể là người đã bị thiệt hại, nhưng cũng có thể là người bị đe dọa
nghiêm trọng gây thiệt hại trong những trường hợp phạm tội nhưng chưa gây hậu
quả theo quy định của BLHS. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công
cuộc cải cách tư pháp, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền
tự do dân chủ của công dân đã được ghi nhận trong Nghị quyết 48 –NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị và tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 như: “tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng...”, các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại là vấn đề cần quan tâm tìm hiểu rõ ràng, cụ thể.
Người tham gia tố tụng là người có quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy
định của BLTTHS. Sự tham gia của họ góp phần quan trọng trong việc xác định


11


sự thật của vụ án, đồng thời nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chính
họ trong tiến trình tố tụng. Bị hại trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng quan
trọng, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án đồng thời để bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình khi bị tội phạm xâm hại.
Trước khi BLTTHS 2015 ra đời, PLTTHS Việt Nam luôn xem định bị hại
chỉ là cá nhân, theo đó bị hại chỉ được hiểu một cách đơn giản là người bị thiệt
hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. BLTTHS 2015 ra đời
đã thay thế thuật ngữ “Người bị hại” thành“Bị hại” trong đó đã bỏ từ “người”
đi, nhờ đó khái niệm bị hại cũng được mở rộng hơn phạm vi các đối tượng được
xem là bị hại bao gồm cả thể nhân và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy
tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Trên cơ sở khái niệm trên, “bị hại” là chủ thể có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang
sống ở thời điểm bị thiệt hại. Đối với trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì cơ
quan, tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp và đang hoạt động ở thời điểm bị
thiệt hại. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức sẽ tham
gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại; trường hợp cơ quan, tổ
chức thay đổi người đại diện thì pháp nhân đó có trách nhiệm thơng báo ngay
cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật.
Thứ hai, thiệt hại của bị hại trong các vụ án hình sự ln có mối quan hệ
nhân quả với hành vi phạm tội. Do đối tượng mà hành vi phạm tội hướng tới
xâm hại là bị hại, cho nên các hành vi này trực tiếp gây ra thiệt hại, đe dọa gây ra
thiệt hại cho bị hại, xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của
bị hại được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, thiệt hại của bị hại trong vụ án hình sự phải là những thiệt hại cụ
thể. Đối với cá nhân, những thiệt hại có thể kể đến là thiệt hại về thể chất, tinh
thần và tài sản do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra. Đối với cơ quan,

tổ chức, những thiệt hại có thể kể đến là các thiệt hại về tài sản, uy thạ.

12


Thứ tư, hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại phải
là một hành vi phạm tội được quy định cụ thể trong BLHS, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Nếu hành vi xâm hại
đó chưa thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, chưa đến mức xử lý hình sự
hoặc người xâm hại chưa đủ (hoặc khơng có) năng lực TNHS thì hành vi xâm
hại chỉ được hiểu là hành vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao
động, hơn nhân và gia đình… Trong trường hợp này người bị xâm hại bởi hành
vi trái pháp luật không được xem là bị hại trong TTHS.
1.1.3. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
Trong bất kì xã hội nào, nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống tội phạm ln
được quan tâm và đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc duy trì quyền
lực cơng bảo vệ các lợi ích, giá trị xã hội mà nhà nước đó xác định là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào kiểu tố tụng, mơ hình tố
tụng và truyền thống pháp luật mỗi nhà nước khác nhau mà có cách thức thực
hiện quyền cơng tố cũng có sự khác nhau. Bên cạnh đó quy định “quyền tư tố”
đối với vụ án hình sự bên cạnh quyền công tố cũng được ghi nhận ở một số nhà
nước nhằm đảm bảo tồn diện các lợi ích về mặt xã hội và quyền lợi cho phía bị
hại. Trong những trường hợp này, quyền tư tố có phạm vi áp dụng không lớn, chỉ
áp dụng đối với một số lượng ít các tội phạm có tính chất xâm hại đến quyền
riêng tư cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác về thể chất, tinh thần và tài
sản của bị hại.
Theo quy định của BLTTHS, khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự theo quy
định pháp luật để tất cả các tội phạm đều được xử lí kịp thời, nghiêm minh. Tuy

nhiên, trong thực tế khơng ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho bị
hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm ủa
chính bị hại đó; trong những trường hợp này việc khởi tố vụ án hình sự để truy
cứu có thể lại gây thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, chế định

13


“Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, và được xem như là một
trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất hoạt động này không
chỉ đơn thuần là một trường hợp khởi tố có điều kiện là phải có yêu cầu của bị
hại mà cao hơn quyền buộc tội trong trường hợp này còn do bị hại quyết định,
bên cạnh các thẩm quyền tố tụng khác cỉa các cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Như vậy, trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, bên cạnh
việc đáp ứng các dấu hiệu thoãn mãn cấu thành tội phạm đối với từng tội phạm
cụ thể trong BLHS, thì cịn phải đảm bảo các điều kiện về tố tụng là yêu cầu của
người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trước khi khởi tố vụ án. Nếu khơng
có căn cứ về tố tụng, tức là u cầu của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
họ thì khơng được tiến hành khởi tố với vụ án.
1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự theo u cầu bị hại có những đặc điểm chung của
khởi tố vụ án hình sự, cụ thể như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu khi phát hiện những
nguồn tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự
việc xảy ra trong thực tế có hay khơng có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố
hay khơng khởi tố vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự chính là cơ sở pháp lý đầu tiên, mở đầu cho các
CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai đoạn TTHS kế tiếp là
điều tra, truy tố, xét xử, tuy nhiên luật cũng quy định loại trừ những trường hợp

đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc điều tra sau này
được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi... thì có thể được thực hiện trước khi khỏi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, Trong đó, CQTHTT gồm các chủ thể sau đây: CQĐT, VKS và
Tòa án (Hội đồng xét xử).

14


Thứ ba, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là khi đã xác định sự việc cụ thể có
dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án về bản chất chưa buộc tội bất kỳ ai,
mà chỉ mang ý nghĩa cơ sở ban đầu để tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể
được PLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy cơ
quan, người có thẩm quyền chỉ cần xác định có dấu hiệu tội phạm để khởi tố vụ
án hình sự. Giai đoạn khởi tố ụ án hình sự kết thúc có thể là sự khởi đầu của các
giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hoặc cũng có thể là sự chấm dứt quá
trình TTHS nếu kết thúc giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được luật TTHS quy định chặt chẽ
về thời hạn để hạn chế việc kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ năm, hoạt động tố tụng đặc trưng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự là hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Các hoạt động này nhằm
xác định tiền đề pháp luật về nội dung của việc điều tra vụ án hình sự, tức xác
định dấu hiệu tội phạm.
Thứ sáu, Kết quả giải quyết trong giai đoạn này là quyết định khởi tố vụ

án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, được ban hành theo
biểu mẫu thống nhất của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ nhất, việc khởi tố vụ án hình sự trong các trường hợp này phải dựa
trên yêu cầu khởi tố của bị hại. Nếu bị hại không yêu cầu việc khởi tố thì cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyết định của họ mà không
được tự ý khởi tố vụ án. Điều này thể hiện sự dung hịa giữa lợi ích chung của xã
hội và lợi ích riêng của bị hại, đồng thời thể hiện sự tiến bộ trong tư duy làm luật
của các nhà lập pháp trong việc đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.

15


Thứ hai, Đó là các tội phạm mà về bản chất của sự xâm hại không quá
nghiêm trọng, khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội có liên quan
trực tiếp đến bản thân người bị hại như sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền
sở hữu trí tuệ của họ mà việc xử lý bằng biện pháp hình sự trong những trường
hợp này có thể mang lại những hậu quả không mong muốn cho bị hại, đồng thời
khơng đảm bảo hiệu quả đấu tranh, phịng ngừa tội phạm nói chung.
Thứ ba, ý chí của bị hại là điều kiện tiên quyết để cơ quan tiến hành tố
tụng khởi tố vụ án hình sự hoặc chấm dứt việc giải quyết vụ án hình sự. Chỉ bị
hại hoặc người đại diện trong các trường hợp cụ thể do BLTTHS quy định có
u cầu khởi tố thì vụ án mới được khởi tố mà không phải phụ thuộc vào quyết
định của cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Khi bị hại
rút yêu cầu thì đó cũng là cơ sở để chấm dứt việc truy cứu TNHS đối với người
thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, tùy từng giai đoạn tố tụng mà bị hại hoặc
người đại diện bị hại có yêu cầu, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ tư, chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại ở nước ta là sự thể
hiện của việc kết hợp giữa quyền công tố và quyền tư tố trong TTHS. PLTTHS
nước ta chủ yếu vận hành theo nguyên tắc cơng tố, tức là Nhà nước tồn quyền

quyết định việc buộc tội, nhưng đối với một số loại tội phạm Nhà nước quyết
định việc buộc tội khi bị hại có yêu cầu khởi tố VAHS. Đây là quyền buộc tội
của bị hại, có tính chất tư tố, là điều kiện phát sinh quyền công tố của Nhà nước
nhưng vẫn nằm trong giới hạn của quyền cơng tố, vì bị hại chỉ có quyền yêu cầu
khởi tố VAHS, sau đó vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Bên cạnh đó,
mơ hình tố tụng ở Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành BLTTHS 2015 được
đa số các nhà luật học thừa nhận là “mơ hình tố tụng pha trộn”[17, tr.23]. Mục
đích của tố tụng được xác định là nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án để
đấu tranh phịng chống tội phạm (kiểm sốt tội phạm), nên nhà nước không quy
định quyền tư tố, đồng thời khẳng định dứt khốt ngun tắc cơng tố trong tố
tụng. Trong nhà nước XHCN, VKS là cơ quan đại diện cho Nhà nước thực hiện

16


chức năng thực hành quyền công tố; quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của
người bị hại cũng chỉ giới hạn trong phạm vi mà nhà nước thừa nhận đối với một
số trường hợp nhất định, đó là những trường hợp mà tội phạm có tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội không cao xâm hại đến thể chất, tinh thần, tài sản, uy
tín, danh dự của chính bị hại mà việc khởi tố có thể gây ảnh hưởng xấu đến
chính bị hại của vụ án. Theo quy định của BLTTHS, bị hại được thực hiện quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mà khơng phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội
phạm, buộc tội như trong thủ tục tư tố đối với vụ án. Trong vụ án hình sự được
khởi tố theo yêu cầu của bị hại, quyền cơng tố vẫn được duy trì và VKS vẫn là
cơ quan đại diện nhà nước thực hiện việc buộc tội để truy tố tội phạm và người
phạm tội.
Thứ năm, chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại là biểu hiện của
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam [12, tr.34]. Có nhiều tội phạm
gây ra những thiệt hại không chỉ về vật chất mà cả những thiệt hại nghiêm trọng
về mặt tinh thần đối với người bị hại.

Vì vậy, nhà nước xác lập một khả năng, điều kiện để người bị hại được
cân nhắc tính tốn khởi tố như thế có q bất lợi cho cả lợi ích của họ hay
khơng.Việc nhà nước điều chỉnh bằng PLTTHS với việc khởi tố vụ án hình sự
theo u cầu của người bị hại chính là việc áp dụng các khả năng để cho người
bị hại lựa chọn biện pháp xử lý tội phạm gây ra cho mình, nếu khơng lựa chọn
biện pháp khác phù hợp với pháp luật thì biện pháp yêu cầu xử lý về hình sự là
biện pháp cuối cùng của người bị hại.
Thứ sáu, Bảo vệ tốt nhất, cao nhất quyền con ngquy, quyền công dân là lý
tưởng hướng đến của nhà nước pháp quyền. Lý luận về quyền con người xác
định về nội dung bảo vệ quyền con người gồm các yêu cầu là thừa nhận, bảo
đảm và thực thi quyền con người như là yếu tố tự nhiên vốn có của nó, khơng
phụ thuộc ý chí nhà nước [17, tr.47]. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự nội dung
này đã được quy định rất sớm và rộng rãi; việc thừa nhận được nêu rõ từ các lĩnh
vực thiết thực nhất như: bảo vệ quyền sống, quyến bất khả xâm phạm về thân

17


thể, quyền tự do, quyền nhân thân đến danh dự, nhân phẩm… Pháp luật về khởi
tố vụ án theo yêu cầu của bị hại đã trao quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho bị hại,
đây là biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự.
Về nội dung bảo đảm và thực thi về quyền con người trong pháp luật hình sự
được xác lập bằng hai phương thức: là phương thức nhà nước tự quyết định biện
pháp bảo vệ cho mọi công dân gọi là công tố và phương thức cá nhân được phép
sử dụng quyển mà nhà nước ghi nhận và bảo đảm Trong vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại ghi nhận quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự là
việc ghi nhận, bảo đảm “quyển con người” ở phạm vi nhất định. Việc để cho bị
hại có quyền tự do lựa chọn biện pháp tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của mình
thơng qua việc u cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố hay khơng khởi tố vụ án
hình sự thể hiện sự tơn trọng quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự. Do bị

hại là chủ thể bị tội phạm tác động trực tiếp nên họ là người có điều kiện và khả
năng đánh giá chính xác và tự quyết định trong giới hạn pháp luật cho phép hành
vi của mình, trên cơ sở cân nhắc các mặt lợi ích để xác định lợi ích nào cần đạt
có lợi cho họ nhất: như lợi ích vật chất, tinh thần, lợi ích khác… Từ đó lựa chọn
hành động đúng đắn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Việc xây dựng
và áp dụng quy định này đồng thời phải tính tới yếu tố bảo vệ lợi ích hợp pháp
của mọi cơng dân khác và các lợi ích hợp pháp chung của Nhà nước, của xã hội,
bảo đảm nguyên tắc nhà nước duy trì quyền cơng tố trong xử lý tội phạm.
Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại trong TTHS là
“trường hợp đặc biệt” của pháp luật về khởi tố vụ án, đây là quyền “yêu cầu khởi
tố đối với vụ án hình sự” của người bị hại trong giới hạn pháp luật quy định; là
cơ sở, là điều kiện để phát sinh quyền công tố nhà nước với các tội phạm. Có thể
nói quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong TTHS Việt Nam đã
tạo điều kiện để bảo vệ tốt hơn quyền con người thông qua việc tạo ra một
phương tiện pháp lý hữu hiệu giúp bị hại thực hiện quyền của mình; thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống tội phạm trong chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước ta; bảo đảm dân chủ, công bằng trong TTHS.

18


1.3. Ý nghĩa của khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố
tụng hình sự
1.3.1. Ý nghĩa pháp lý
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành một
cách toàn diện, sâu sắc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới mang lại đã
tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới. Nhiều
tư tưởng, quan điểm về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng đã được
đề ra, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ
chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và

Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị đề cập vấn đề “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đặt ra nhiều vấn đề về PLTTHS
cần tiếp tục được thể chế hoá thành những quy định của pháp luật; đồng thời,
những hạn chế bất cập của PLTTHS hiện hành cần được khắc phục nhằm đảm
bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm sự thống nhất và đồng
bộ giữa các văn bản pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của công
dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, và cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội
phạm hiện nay. Những quy định của BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị
hại đã góp phần củng cố các nhiệm vụ, mục tiêu trong chiến lược cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước ta, góp phần xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành
vi phạm tội, người phạm tội; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm trong tình hình mới.
Khởi tố vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
bị hại nói riêng là hoạt động xác nhận về mặt pháp lý một vụ án hình sự đã xảy
ra và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước có trách
nhiệm giải quyết vụ án đó. Nhà nước dùng PLTTHS mang các đặc trưng mà các
biện pháp điều chỉnh khác không có như tính quy phạm phổ biến, tính bắt buộc
chung, tính cưỡng chế để tăng cường hiệu quả trấn áp tội phạm. Thông qua công

19


×