Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Quy định của bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.62 KB, 33 trang )

Quy định của bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án theo yêu cầu
của người bị hại và hướng hoàn thiện
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. KHÁI NIỆM KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ KHÁI NIỆM KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có
thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án.”
* Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng
độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành
vi tố tụng và văn bản tố tụng. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự là những cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS 2003. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự – những văn bản tố tụng đặc trưng của
giai đoạn này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai
đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan
hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện
nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi
tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có
quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như
áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết định khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ
pháp luật TTHS giữa cơ quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người
tham gia tố tụng.


* Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) và các cơ quan khác (Cơ quan Hải quan,
Kiểm lâm, đơn vị Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác


của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra):
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự:
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với
tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với
những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định khởi tố vụ án hình
sự đối với những tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ thuộc cơ quan tư pháp.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: Khi thấy quyết
định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan khác trong Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra, lực lượng Cảnh sát biển, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm
lâm không có căn cứ thì Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi


tố vụ án hình sự. Viện kiểm sát cũng có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự
trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
+ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà phát hiện
được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác
+ Đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển
khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
trong lĩnh vực quản lý của mình thì có thẩm quyền khởi tố vụ án.

+ Các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khi
thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của mình.
* Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu
của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Để thực
hiện nhiệm vụ này cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình và thời hạn luật
định phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm bằng
những biện pháp như:
- Kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo; yêu cầu
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung cấp
những tài liệu cần thiết.


- Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan giải thích rõ sự việc nhằm
mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm. Khi yêu cầu giải thích, cơ quan có thẩm quyền
không được áp dụng các biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người
được yêu cầu giải thích.
- Khi cần thiết phải kiểm tra nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội thì phải yêu
cầu cơ quan, tổ chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan thanh tra tiến hành
thanh tra để làm rõ sự việc.
- Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến hành lấy
lời khai của người bị bắt.
- Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện
pháp khác theo quy định của BLTTHS để xác định dấu hiệu tội phạm.
* Quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Quyết định khởi tố vụ án hình sự được ra khi cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác
định có dấu hiệu tội phạm. Đây là cơ sở pháp lý để thực hiện việc điều tra. Trong

quyết định khởi tố vụ án, bên cạnh thời gian, điều khoản của BLHS, họ tên, chức vụ
của người ra quyết định còn phải ghi rõ căn cứ khởi tố vụ án. Việc ghi rõ căn cứ
khởi tố vụ án trong quyết định giúp cho người có thẩm quyền ra quyết định phải cân
nhắc kỹ, tránh sự hời hợt, qua loa, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người có
thẩm quyền. Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Điều 100 BLTTHS 2003 chỉ
quy định một căn cứ duy nhất để khởi tố đó là dấu hiệu tội phạm đã được xác định.
Đồng thời điều luật cũng quy định các cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm. Các cơ
sở đó bao gồm: Tố giác của công dân; Tin báo của cơ quan tổ chức; Tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội
biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các
cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến


hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người
phạm tội tự thú.
Như vậy, 5 nguồn thông tin trên đây mới chỉ là những cơ sở ban đầu để cơ quan có
thẩm quyền xác minh, thẩm tra để từ đó xác định có hay không có căn cứ để khởi tố
vụ án. Hay nói cách khác, những nguồn thông tin đó chưa phải là căn cứ khởi tố mà
chỉ là nguồn, là cơ sở hàm chứa những thông tin cho phép đi đến kết luận có dấu
hiệu tội phạm hay không để khởi tố vụ án hình sự. Điều này phù hợp với quy định
của Điều 100 BLTTHS 2003 vì điều luật chỉ quy định 5 nguồn thông tin này là cơ
sở để xác định dấu hiệu tội phạm từ đó làm căn cứ khởi tố vụ án.
Theo quy định của BLTTHS 2003 khi xác định có sự việc xảy ra và sự việc đó có
dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Còn nếu
thấy có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS 2003 thì cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định không
khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố xác định
thông tin về tội phạm hoặc một sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình
sự. Các căn cứ đó bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành
tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách

nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định
đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
Tội phạm được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định
trong BLTTHS 1988 và sau đó, trên cơ sở kế thừa, BLTTHS 2003 tiếp tục quy định
với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tế. Tuy nhiên, cả hai
BLTTHS đều không đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại. Mặc dù vậy, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được xem là


trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, cho nên nó sẽ có những đặc điểm
chung của khởi tố vụ án hình sự.
Đối với các vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, giai đoạn
khởi tố vẫn được xác định là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng. Tuy nhiên,
trong giai đoạn khởi tố của những vụ án hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại cần có yêu cầu khởi tố vụ án từ phía người bị hại. Nếu không có yêu
cầu khởi tố của người bị hại thì Cơ quan điều tra không được ra quyết định khởi tố
vụ án. Đây là điểm khác biệt so với giai đoạn khởi tố của các vụ án hình sự khác.
Về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Như đã phân
tích ở trên, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án gồm các cơ quan tiến hành tố tụng
và các cơ quan khác. Nhưng với những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại, không phải cơ quan nào trong số các cơ quan có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự đều được khởi tố. Các cơ quan như đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển… do chỉ có thẩm quyền khởi tố
vụ án khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực quản lý của mình nên có thể
khẳng định các cơ quan này không có thẩm quyền khởi tố vụ án do người bị hại yêu
cầu. Còn về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại chỉ thuộc về một số cơ quan nhất định, đó là Cơ quan

cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân và Cơ quan điều tra hình sự trong Quân
đội nhân dân. Viện kiểm sát, Toà án, Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
không có thẩm quyền khởi tố những vụ án hình sự chỉ được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại do các cơ quan này chỉ được quyền khởi tố vụ án trong những
trường hợp nhất định hoặc đối với một số loại tội phạm cụ thể theo quy định. Chẳng
hạn như Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân ra quyết định khởi tố vụ
án đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hay Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao có thẩm quyền khởi tố vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp. Từ đây có thể thấy,
mặc dù luật không quy định rõ nhưng có thể khẳng định rằng chỉ những cơ quan


nào có thẩm quyền khởi tố đối với 11 trường hợp phạm tội được quy định tại khoản
1 Điều 105 BLTTHS 2003 thì cơ quan đó mới có thẩm quyền khởi tố đối với các vụ
án chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Trong các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, để xác định dấu hiệu
tội phạm thì sau khi có yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại Cơ quan Điều tra
phải tiến hành các hành vi tố tụng như đối với các vụ án thông thường. Nếu chưa có
yêu cầu của người bị hại, Cơ quan điều tra vẫn có thể xác minh, kiểm tra tin báo, tố
giác về tội phạm nhưng không được ra quyết định khởi tố vụ án. Trong một số
trường hợp, người bị hại không biết họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án thì Cơ quan
điều tra phải thông báo cho người bị hại biết, hỏi họ có yêu cầu khởi tố vụ án không
và hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết.
Đối với các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, một vấn đề được đặt
ra là yêu cầu của người bị hại là cơ sở để xác định dấu hiệu tội phạm hay là căn cứ
để khởi tố vụ án hình sự?
Có quan điểm cho rằng "yêu cầu của người bị hại là một dạng đặc biệt của tố giác".
Giữa yêu cầu của người bị hại và tố giác của công dân có nhiều điểm tương đồng:
Một là,"tố giác hay yêu cầu của người bị hại đều là việc thông báo với các cơ quan

có trách nhiệm về một tội phạm đã xảy ra". Hai là, chủ thể tố giác và người yêu cầu
khởi tố đều là cá nhân; Ba là, cả tố giác và yêu cầu của người bị hại đều được thể
hiện dưới dạng văn bản hoặc lời nói. Bên cạnh đó, BLTTHS 2003 cũng chỉ quy định
trình tự, thủ tục để giải quyết tố giác của công dân, nên "nếu cho rằng yêu cầu của
người bị hại không phải là một dạng của tố giác thì yêu cầu đó sẽ được giải quyết
theo trình tự, thủ tục nào?". Tuy nhiên, yêu cầu của người bị hại không hoàn toàn là
tố giác: Chủ thể yêu cầu khởi tố vụ án chỉ có thể là người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại, còn chủ thể tố giác có thể chính là người bị hại hoặc bất
kỳ người nào biết về sự việc đó; Yêu cầu khởi tố vụ án là quyền của người bị hại
còn tố giác vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân; Nội dung của yêu cầu khởi
tố ngoài báo tin về tội phạm còn là sự mong muốn pháp luật trừng trị kẻ phạm tội


còn nội dung tố giác là báo tin về tội phạm (thời gian, địa điểm…). Nhưng cũng có
quan điểm cho rằng yêu cầu khởi tố vụ án là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án vì "trong quyết định khởi tố phải ghi rõ căn cứ khởi tố, một
trong những căn cứ khởi tố các tội quy định tại Điều 88 BLTTHS là yêu cầu của
người bị hại". Quan điểm này chưa thực sự hợp lý vì theo quy định tại Điều 100
BLTTHS 2003, dấu hiệu của tội phạm đã được xác định là điều kiện cần và đủ để
cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án. Đối với các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 105 BLTTHS 2003 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án trên cơ
sở sự kết hợp của hai yếu tố: có dấu hiệu của tội phạm và có yêu cầu của người bị
hại. Nếu không có dấu hiệu của tội phạm thì dù người bị hại có yêu cầu, cơ quan có
thẩm quyền cũng không được ra quyết định khởi tố vụ án và ngược lại, nếu không
có yêu cầu của người bị hại thì dù xác định có dấu hiệu của tội phạm cơ quan thẩm
quyền cũng không được khởi tố vụ án. Hay nói cách khác, với vụ án hình sự khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại, điều kiện cần là yêu cầu khởi tố của người bị hại và
điều kiện đủ đó là có dấu hiệu tội phạm đã được xác định. Tuy nhiên điều này
không có nghĩa là nếu không có yêu cầu của người bị hại thì Cơ quan điều tra phải
ra quyết định không khởi tố vụ án vì quyết định không khởi tố vụ án chỉ đựoc ra khi

có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS 2003.
Từ những phân tích trên đây có thể nói khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại là việc ra quyết định khởi tố do cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo
yêu cầu của người bị hại sau khi xác định một sự việc xảy có dấu hiệu của một số
tội phạm theo quy định của BLHS 1999.
1.2. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU
CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ CƠ SỞ CỦA VIỆC THIẾT LẬP CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.2.1. Khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại


Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định pháp luật. “Chế
định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau
nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”. Như vậy, theo định
nghĩa này, chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm pháp luật có đặc điểm
chung và cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, không đòi hỏi các
quy phạm này phải được sắp xếp trong cùng một chương, mục. Khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định như thế. Thuật ngữ chế định khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại đã được một số tác giả đề cập.
Trong BLTTHS 2003, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại
không được quy định thành một chương riêng và các quy định của chế định tập
trung xung quanh hai vấn đề là yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và rút yêu cầu khởi tố
vụ án của người bị hại.
Thứ nhất, vấn đề yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại được quy định tại khoản 1
Điều 105 BLTTHS 2003 với nội dung “Những vụ án về các tội phạm được quy định
tại khoản 1, các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của
Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại
diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất.” Quy định này đã chỉ ra chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự và các trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.

Ngoài ra vấn đề này còn được điều chỉnh bởi khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003, theo
đó nếu vụ án do người bị hại yêu cầu được Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố
và giải quyết theo thủ tục chung thì tại phiên tòa, người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội. Trong trường hợp Hội đồng xét xử tuyên bị
cáo vô tội thì người đã yêu cầu phải nộp tiền án phí theo quy định tại khoản 3 Điều
99 BLTTHS 2003.
Thứ hai là vấn đề rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu. Khoản 2 Điều
105 BLTTHS 2003 quy định người đã yêu cầu khởi tố có quyền rút yêu cầu của
mình. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu dẫn đến hai hậu quả


pháp lý là vụ án được đình chỉ và người đã yêu cầu phải nộp tiền án phí. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 164 BLTTHS 2003 thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình
chỉ điều tra nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trong giai đoạn điều tra. Viện
kiểm sát và Toà án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án nếu trong giai đoạn truy tố và
giai đoạn xét xử nhưng trước ngày mở phiên toà sơ thẩm người đã yêu cầu khởi tố
rút yêu cầu của mình (khoản 1 Điều 168 và Điều 180 BLTTHS 2003). Riêng với
việc nộp án phí thì theo quy định tại khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2003, nếu vụ án bị
đình chỉ theo khoản 2 Điều 105 thì người bị hại phải nộp áp phí.
Như vậy, xét một cách tổng thể các quy phạm trong chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại không có sự tập trung. Trong số các quy phạm pháp
luật của chế định này, Điều 105 BLTTHS 2003 được xem là quy phạm trung tâm
của chế định. Không chỉ quy định về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án, các
trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố, Điều 105 BLTTHS
2003 còn quy định căn cứ để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án được tiếp tục
tiến hành tố tụng khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu và căn cứ để người bị hại
yêu cầu khởi tố lại vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Điều 105 BLTTHS 2003 còn là điều
luật dẫn chiếu. Khoản 3 các Điều 51, Điều 99, khoản 2 Điều 164, khoản 1 Điều 169,
Điều 180 BLTTHS 2003 khi quy định về các vấn đề khác của chế định đều có sự
dẫn chiếu đến Điều 105 BLTTHS 2003.

Vậy, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải
quyết yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại và việc rút yêu cầu khởi tố vụ
án của họ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, đồng thời đảm bảo
lợi ích Nhà nước, xã hội.
1.2.2. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
a. Cơ sở lý luận


Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề quyền con
người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội. Với quan điểm
duy vật về lịch sử, triết học Mác- Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung
đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con người, khẳng định mối quan hệ
gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ bản với các điều kiện và biện pháp đảm
bảo thực hiện quyền con người trong thực tế.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là công cụ sắc bén được Nhà
nước sử dụng để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, mọi công dân đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải
được phát hiện và xử lý kịp thời. Có như vậy, mới giữ vững được kỷ cương phép
nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong xã hội đó, con người vừa
là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy mà họ luôn được pháp luật
tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các quyền tự do dân chủ mà còn
“có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm”. Còn riêng với người bị hại, họ là người bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm
hại, vì vậy Nhà nước đã quy định cho họ có một quyền đặc biệt, đó là quyền được
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho
người bị hại được cân nhắc, tính toán việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho

họ hay không? Tuy nhiên, những trường hợp người bị hại được yêu cầu khởi tố
cũng chỉ nằm trong giới hạn mà Nhà nước và xã hội chấp nhận được nhằm đảm bảo
mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Trước khi có BLTTHS 1988, người bị hại không được pháp luật quy định có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án mà thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại làm đơn xin
giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt một cách có tình, có lý


cho người phạm tội cũng không được Toà án chấp nhận. Quan niệm phổ biến lúc đó
không chấp nhận việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại bởi: “Quan hệ
pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó với tư cách
là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng
với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra”. Bên cạnh đó, các
nhà làm luật cũng cho rằng, những vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại là các vụ án tư tố, quyền yêu cầu của người bị hại là quyền tư tố bởi đó
“là việc nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố giác hành vi sai phạm, tội phạm
nào đó" và "tư tố là một hình thức… mà pháp luật dành cho những người bị hại
hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội, xâm phạm các quyền và lợi ích cá
nhân”. Như vậy, quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại sẽ mâu thuẫn với quyền
công tố của Nhà nước, vì quyền công tố là nhân danh lợi ích công cộng, lợi ích Nhà
nước để phát giác, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật. Một trong những nguyên
tắc cơ bản của Luật TTHS Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là mọi hành vi phạm
tội đều phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân bằng Hiến pháp, bằng pháp luật và bằng cơ chế đảm bảo
thực hiện. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích của công
dân đều sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số nước đặc biệt là pháp

luật tố tụng của Liên Xô, các nhà lập pháp cũng nhận thấy “quyền tư tố” của người
bị hại được xã hội chấp nhận khi nó ở trong giới hạn nhất định và không làm ảnh
hưởng đến quyền công tố của Nhà nước. Do đó, BLTTHS 1988 đã chính thức ghi
nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo quy định của BLTTHS 1988 chỉ áp dụng
đối với những hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, không có
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thuộc hai nhóm tội là các tội xâm phạm
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và các tội xâm phạm quyền tự do dân


chủ của công dân. Sau đó khi BLHS 1999 ban hành, do có sự sửa đổi bổ sung trong
phân nhóm tội phạm cũng như khi áp dụng vào thực tế, chế định khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại có những điểm hạn chế, thiếu sót nên khi xây dựng
BLTTHS 2003, bên cạnh việc ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trên cơ sở kế thừa các quy định của BLTTHS 1988, chúng ta đã có
những sửa đổi, bổ sung nhất định.
Việc BLTTHS 2003 tiếp tục ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại cho thấy sự cần thiết của chế định này trong hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự của nước ta. Một mặt góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của người bị
hại, mặt khác, vẫn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, xã hội. Chế định này thể hiện
tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt hại mất mát của người bị
hại.
b. Cơ sở thực tiễn
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ quan trọng, có tính chất
quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn khác của quá trình tố tụng. Tuy nhiên,
không phải cứ phát hiện có dấu hiệu tội phạm rồi khởi tố vụ án là cơ quan có thẩm
quyền sẽ bảo vệ lợi ích của người bị hại một cách tốt nhất. Trong thực tế, có những
người bị hại chỉ bị thiệt hại về thể chất, có người bị hại chỉ bị thiệt hại về tài sản,
nhưng cũng có những người bị thiệt hại cả về thể chất, tinh thần và tài sản. Đối với
những thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra thì có thể khôi phục được, còn đối với

thiệt hại về tinh thần hoặc thể chất thì chỉ có thể bù đắp được phần nào mà không
thể khôi phục lại được như cũ. Trong đó, thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không thể
tính toán được vì đó là những tổn thương vô hình, những sợ hãi hoặc ám ảnh mà
người bị hại không muốn nhắc lại và càng không muốn bị công khai. Đối với những
trường hợp này, cách tốt nhất là để cho người bị hại và người gây thiệt hại chủ động
giải quyết với nhau. Còn nếu người bị hại thật sự muốn kẻ gây thiệt hại phải bị pháp
luật trừng phạt thì sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố và giải quyết vụ án.


Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại là một chế định được quy định và
áp dụng khá phổ biến trong pháp luật một số nước.
Tại khoản 2 Điều 20 BLTTHS Liên Bang Nga quy định: “Các vụ án hình sự về các
tội phạm quy định tại các Điều 115, 116, khoản 1 Điều 129 và Điều 130 BLHS Liên
Bang Nga được coi là các vụ án tư tố. Các vụ án này chỉ được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ”. Còn Điều 105 BLTTHS
Trung Quốc quy định: “Những vụ án hình sự do người bị hại tố cáo hoặc có tình tiết
giảm nhẹ sẽ do một thẩm phán điều hành việc xét xử”. Như vậy, pháp luật TTHS
Trung Quốc cũng đã gián tiếp ghi nhận quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị
hại.
Bên cạnh những quốc gia ghi nhận chế định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
trong Luật TTHS thì có những quốc gia lại quy định yêu cầu khởi tố của người bị
hại là một yếu tố cấu thành tội phạm. Điều 22 Bộ luật hình sự Cộng hoà Dân chủ
nhân dân Lào quy định: “Chỉ bị coi là tội phạm khi có đơn kiện của người bị hại.
Nếu hành vi không nguy hiểm cho xã hội và nếu người bị hại không có đơn kiện thì
toà án sẽ không kết tội trong các trường hợp: Xâm phạm thân thể giữa những người
thân (nếu không gây thương tích nặng hay gây thiệt hại về sức khoẻ), xúc phạm, vu
khống, có hành vi thô bạo đối với thi thể hay danh dự của người đã chết, xâm phạm
tài sản của họ hàng thân thiết, xâm phạm thô bạo đối với danh dự, bí mật riêng tư
của gia đình, cá nhân. Việc người bị hại rút đơn kiện sẽ chấm dứt quá trình tố tụng
tại toà án”. Hay Điều 135 BLHS Nhật Bản quy định: “Các tội phạm quy định tại

chương các tội xâm phạm bí mật chỉ được khởi tố theo đơn yêu cầu của người bị
hại”. Còn luật hình sự Cộng hoà dân chủ Đức đã đưa yêu cầu khởi tố của người bị
hại như một yếu tố cấu thành tội phạm đối với một số tội như: Vô ý gây thương
tích, xâm phạm đến sở hữu riêng, sử dụng xe không có giấy phép, xâm phạm sở
hữu giữa những người thân thuộc.


Như vậy, dù được quy định trong luật TTHS hay luật hình sự thì chế định khởi tố vụ
án theo yêu cầu của người bị hại vẫn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại.
ở Việt Nam, qua thực tiễn xét xử cũng như thực tế cho thấy, mặc dù bị thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra nhưng có trường hợp người bị hại không muốn đưa ra xử lý
vì có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín và tương lai của họ hoặc giữa
người bị hại và kẻ gây thiệt hại có những mối quan hệ nhất định. Trong quá trình áp
dụng chế định này cho thấy, mặc dù còn có nhiều vướng mắc nhưng quy định này
đã từng bước phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích của người bị hại đã được bảo vệ
tốt hơn.
CHƯƠNG 2 - NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU
CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
2.1. YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
a. Người bị hại
Khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Thông tư số 16/TATC
ngày 27/09/1974 của TANDTC. Theo đó, người bị hại được định nghĩa "là công dân
đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm phạm về
tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm cắp, lừa đảo...)". Định nghĩa đã chỉ ra
người bị hại là cá nhân, không thể là cơ quan, tổ chức, đồng thời đối tượng tác động

của tội phạm là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của cá nhân đó.


Sau đó, BLTTHS 1988 đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm người bị hại tại
khoản 1 Điều 39 như sau: "Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh
thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra".
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS 2003, "người bị hại là người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra".
Như vậy, giữa hai khái niệm về người bị hại trong hai BLTTHS không có sự thay
đổi về chất mà chỉ có sự thay đổi về hình thức, văn phạm ngắn gọn hơn. Đây có thể
được coi là một quy phạm định nghĩa nêu ra khái niệm pháp lý về người bị hại. Quy
phạm này chứa đựng các dấu hiệu để xác định người bị hại.
Về chủ thể, người bị hại chỉ có thể là cá nhân - một con người cụ thể. Pháp nhân
hay tổ chức không được coi là người bị hại.
Về thiệt hại, người bị hại bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc tài sản.
Thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ như bị giết, bị gây
thương tích… Thiệt hại về tinh thần là bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín
như bị xỉ nhục, vu khống, thoá mạ, miệt thị… Thiệt hại về tài sản là tài sản của
người bị hại bị cướp, bị cưỡng đoạt, bị trộm cắp…
Về nguồn gốc, thiệt hại của người bị hại do tội phạm trực tiếp gây ra bởi cái mà tội
phạm hướng đến chính là thể chất, tinh thần hoặc tài sản của người bị hại. Nhưng
thế nào là "do tội phạm gây ra?", theo tác giả Đinh Văn Quế: "khoa học luật hình sự
chỉ coi là tội phạm khi có đủ 4 yếu tố cấu thành và khi đã là tội phạm rồi thì lúc đó
mới có người bị hại trong vụ án hình sự".
Bên cạnh ba dấu hiệu luật định thì xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong TTHS khi
họ được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu
tập họ đến khai báo với tư cách người bị hại. Trong nhiều trường hợp, hành vi phạm



tội không bị phát hiện và xử lý hoặc không xác định được người bị thiệt hại thì mặc
dù trên thực tế có người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm
tội trực tiếp gây ra nhưng người đó cũng không thể trở thành người bị hại trong vụ
án hình sự.
b. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
So với Điều 88 BLTTHS 1988, Điều 105 BLTTHS 2003 có quy định thêm một chủ
thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đó là người đại diện hợp pháp của
người bị hại. Đây được coi là một tiến bộ trong kỹ thuật luật pháp. Không phải tất
cả những người đại diện hợp pháp của người bị hại đều có quyền yêu cầu khởi tố vụ
án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án
khi người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất.
Thứ nhất, khi người bị hại là người chưa thành niên. "Những người bị hại chưa
thành niên là những người theo quan điểm lập pháp của chúng ta chưa có đầy đủ
năng lực hành vi để thực hiện quyền chủ thể của mình. Họ chưa ý thức được một
cách đầy đủ những thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra cho họ và thiếu các điều
kiện chủ quan để tự bảo vệ những lợi ích của mình”. Do đó, việc người đại diện
hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng là cần thiết và việc họ có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là hợp lý.
Thứ hai, khi người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Khoản 1 Điều 105 BLTTHS
2003 sử dụng thuật ngữ "[người bị hại] có nhược điểm về tâm thần" là không chính
xác vì trên thực tế, người bị hại có thể trong tình trạng tâm thần hoặc có nhược điểm
về tâm thần. Nhược điểm về tâm thần là hạn chế trong việc nhận thức hoặc điều
khiển hành vi. Còn trong trường hợp người bị hại hoàn toàn không có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi thì phải xác định là người bị hại tâm thần chứ
không phải là người bị hại có nhược điểm về tâm thần. Những người bị hại tâm thần


hoặc có nhược điểm về tâm thần bị hạn chế về khả năng hoặc không có khả năng tự

thể hiện được ý chí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên người đại
diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, khi người bị hại là người có nhược điểm về thể chất. Người có nhược điểm
về thể chất là những người bị khuyết tật về thể chất như bị mù, bị câm, bị điếc…
Nhược điểm này tuy không làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của
người bị hại nhưng có thể làm cho người bị hại không thể hiện được hoặc thể hiện
không đầy đủ yêu cầu của mình. Do đó, pháp luật quy định cho người đại diện hợp
pháp của họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hại.
2.1.2. Các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định 11 trường hợp mà cơ quan có thẩm
quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại:
a. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS: Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1 là gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%
hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến
điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS như: dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây
nguy hại (điểm a), thực hiện hành vi nhiều lần đối với cùng một người hoặc với
nhiều người (điểm c)… Mức hình phạt cao nhất đối với những trường hợp phạm tội
thuộc khoản này là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm. Như vậy, đây là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, có thể giải quyết
bằng bồi thường dân sự hoặc biện pháp khác… Do đó, pháp luật quy định đối với
những trường hợp này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.


b. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLHS: Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh

So với hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác được quy định tại Điều 104 – BLHS, thì hậu quả của tội phạm này ở
mức nghiêm trọng hơn (tỉ lệ thương tật là từ 31% trở lên). Tuy nhiên, đây lại là hậu
quả của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - do lỗi của người bị hại nên pháp
luật hình sự quy định đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và chế tài áp
dụng cho những trường hợp phạm tội ở khoản 1 có thể là hình phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm. Vì vậy mà
BLTTHS 2003 quy định đây là một trong những trường hợp chỉ được khởi tố khi có
yêu cầu của người bị hại.
c. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 106 BLHS: Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định là một tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội là nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nước hoặc của tổ chức…nhưng
do vượt quá giới hạn phòng vệ cho phép. Người bị hại là người có lỗi vì họ đã gây
ra tình huống nguy hiểm trước. Do đó, mặc dù hậu quả của hành vi nguy hiểm là
nghiêm trọng nhưng chủ thể tội phạm chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có
đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại
d. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 108 BLHS: Tội vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác


Hành vi này do chủ thể tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, vi phạm các quy tắc đảm
bảo an toàn về sức khoẻ con người trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Tỷ lệ thương tật tối thiểu là 31% và phải là hậu quả của hành vi phạm tội. Mức
hình phạt cao nhất của tội phạm này là đến hai năm tù (có thể có hình phạt bổ sung).
Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu khởi tố vụ án từ
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.
đ. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109 BLHS: Tội vô ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý; họ không cố tình và
cũng không có mâu thuẫn với người bị hại. Họ không mong muốn hậu quả xảy ra.
Quy tắc an toàn trong trường hợp này là quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính. Do đó, đòi hỏi chủ thể phải có trách nhiệm cao hơn trong việc tuân thủ các
quy tắc này. Đây được xem là trường hợp phạm tội nặng hơn so với trường hợp
phạm tội do vô ý được quy định tại Điều 108 BLHS. Chính vì vậy, khung hình phạt
của tội này được quy định nặng hơn. Mức hình phạt cao nhất có thể đến ba năm tù
(có thể có hình phạt bổ sung). Tuy nhiên, tội phạm này vẫn thuộc trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003.
e. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS: Tội hiếp dâm
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với phụ nữ trái ý muốn
của họ bằng các thủ đoạn: dùng vũ lực (dùng sức mạnh vật chất để đè bẹp sự kháng
cự của nạn nhân như xô ngã, bóp cổ nạn nhân…); đe doạ dùng vũ lực (đe doạ gây
thương tích, đe doạ giết…) nhằm làm tê liệt ý chí của nạn nhân; lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được (người phụ nữ bị ốm, bị say rượu…); thủ đoạn khác (cho
dùng chất gây mê, lợi dụng sự kém hiểu biết…).


Điều 111 BLHS quy định 3 khung hình phạt. Chỉ khi nào tội phạm thuộc khung
hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 (có mức hình phạt là từ hai đến bảy
năm tù) thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án.
f. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 113 BLHS: Tội cưỡng dâm
Người phạm tội có hành vi ép buộc bằng các thủ đoạn khác nhau người phụ nữ lệ
thuộc mình hoặc người phụ nữ đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu. Người bị hại là người phụ nữ bị lệ thuộc (sự lệ thuộc về công tác, về kinh
tế, nuôi dưỡng, tôn giáo) hoặc người phụ nữ đang trong tình trạng quẫn bách (hoàn
cảnh khó khăn, éo le…). Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để khống chế

nạn nhân có thể là đe doạ hoặc hứa hẹn… Từ đó, người phụ nữ buộc phải giao cấu
trong khi mình không muốn.
Điều 113 BLHS quy định ba khung hình phạt. Những tội phạm quy định ở khoản 1
(mức hình phạt từ 6 tháng đến 5 năm tù) chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người
bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại.
g. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLHS: Tội làm nhục người khác
Hình thức biểu hiện của hành vi làm nhục người khác rất đa dạng, có thể là những
lời nói có tính chất thoá mạ, xỉ nhục, hạ thấp danh dự, chửi bới nhạo báng, xúc
phạm đến nhân phẩm nhưng cũng có thể là các hành vi, cử chỉ… có tính chất bỉ ổi,
xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Những hành vi
này có thể được thực hiện một cách trực tiếp, công khai trước mặt người bị hại hoặc
có thể được thực hiện gián tiếp thông qua những người khác.
Điều 121 BLHS quy định hai khung hình phạt, trong đó khung cơ bản được quy
định tại khoản 1 có mức hình phạt cao nhất là hai năm tù áp dụng đối với trường
hợp phạm tội ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng nặng. Với những trường


hợp phạm tội thuộc khoản này, nếu không có yêu cầu khởi tố từ phía người bị hại
thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án.
h. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 122 BLHS: Tội vu khống
Tội vu khống được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt
nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm
quyền.
Hành vi phạm tội của tội này có ba dạng: hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự
hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (như đưa ra
các thông tin không đúng sự thật, thông tin có nội dung xúc phạm đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín…); hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xâm
phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
(người thực hiện hành vi không tự đưa ra thông tin không đúng sự thật nhưng có

hành vi loan truyền tiếp những thông tin mà người khác đã đưa đến); hành vi bịa đặt
người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Khung cơ bản của tội này được quy định tại khoản 1 có mức hình phạt cao nhất là
đến hai năm tù, áp dụng cho trường hợp ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng
nặng. Trong trường hợp này, khi có yêu cầu của người bị hại thì cơ quan có thẩm
quyền mới được khởi tố vụ án.
i. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 131 BLHS: Tội xâm phạm quyền tác
giả
Tội phạm xâm phạm quyền nhân thân phi tài sản và quyền tài sản của tác giả đối
với tác phẩm được pháp luật bảo vệ.


Hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các dạng hành vi: chiếm đoạt quyền
tác giả; mạo danh tác giả trên các tác phẩm; sử dụng bất hợp pháp nội dung của tác
phẩm; công bố, phổ biến bất hợp pháp các tác phẩm.
Các hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc khi người
thực hiện đã bị xử lý về hành chính hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về loại
hành vi này.
Khoản 1 Điều 131 BLHS ngoài quy định về các dạng hành vi phạm tội còn quy
định về khung hình phạt cơ bản với mức hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200
triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.
k. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS: Tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp
Tội phạm xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tội phạm cũng xâm phạm đến lợi ích của tổ
chức, cá nhân có quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ. Hành vi khách
quan của tội này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hành vi chiếm
đoạt (chiếm giữ bất hợp pháp) hoặc sử dụng bất hợp pháp (sử dụng không được sự
cho phép của chủ sở hữu hoặc sử dụng trong trường hợp pháp luật cấm) các đối
tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam như sáng chế, giải pháp hữu

ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại…
Hành vi trên cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính hoặc đã bị kết án về tội này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm.
Điều 171 quy định hai khung hình phạt, trong đó tại khung cơ bản (khoản 1) quy
định hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ


đến hai năm. Trong trường hợp này, người bị hại có thể yêu cầu khởi tố vụ án để
pháp luật bảo vệ quyền lợi cho mình.
Như vậy, 11 trường hợp phạm tội chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
hoặc của người đại diện hợp pháp của họ hầu hết là những tội phạm ít nghiêm trọng
(mức hình phạt cao nhất có thể là phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tù đến hai hoặc ba năm), xâm phạm đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp của người bị hại và không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Chủ thể thực hiện tội phạm này có thể là những người có mối
quan hệ với người bị hại như người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…
Chính vì vậy việc khởi tố vụ án để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện tội
phạm trong các trường hợp này có thể gây thêm những tổn thất về tinh thần cho
người bị hại. Do đó, pháp luật quy định đối với các trường hợp trên chỉ được khởi
tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của
người bị hại. Quy định này tạo điều kiện cho người bị hại và người thực hiện hành
vi phạm tội giải quyết sự việc với nhau bằng con đường thoả thuận, hoà giải. Người
bị hại vừa được đền bù một phần mất mát xảy ra, vừa giữ được tình cảm gia đình,
bạn bè, đồng thời giữ kín những chuyện đời tư của mình.
Tuy nhiên, pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí của người bị hại trong việc tự giải
quyết các sự việc gây thiệt hại cho chính mình cũng chỉ trong giới hạn mà xã hội
chấp nhận được. Vì vậy, nếu như các tội phạm nói trên có tình tiết thuộc các khung
tăng nặng của điều luật tương ứng (khoản 2, 3, 4) thì cơ quan tiến hành tố tụng sau
khi xác định có dấu hiệu tội phạm sẽ quyết định khởi tố vụ án mà không phụ thuộc

vào ý chí của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường
hợp này hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân người bị hại một
cách nghiêm trọng mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội. Việc khởi tố vụ án hình sự
trong trường hợp này là cần thiết để góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật.
2.1.3. Hình thức, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại


Thứ nhất, về hình thức yêu cầu khởi tố. BLTTHS 2003 không có quy định về vấn đề
này, nhưng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCABQP của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ Quốc phòng ngày
07/09/2005 thì "yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại diện thể hiện bằng
đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị hại hoặc người đại diện
đến trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập biên bản ghi rõ
nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên bản do
Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho cơ quan điều tra để xem xét vụ án
hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án". Như vậy, yêu cầu của người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp phải được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói đã được cơ quan
có thẩm quyền ghi lại thành văn bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị hại hoặc
của người đại diện hợp pháp của người bị hại mới được xem là yêu cầu đúng pháp
luật. Với quy định này có thể hiểu pháp luật muốn người có quyền yêu cầu khởi tố
phải trực tiếp thể hiện ý chí của mình và chịu sự ràng buộc nhất định với yêu cầu
đó.
Thứ hai, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án. Đây là một vấn đề mà cả BLTTHS 1988
và BLTTHS 2003 đều không có quy định. Tuy nhiên theo tinh thần của khoản 1
Điều 105 BLTTHS 2003, thời điểm xuất hiện yêu cầu của người bị hại hoặc của
người đại diện hợp của người bị hại phải có trước thời điểm ra quyết định khởi tố
"chứ không thể cho thời điểm yêu cầu của người bị hại phải xuất hiện chậm nhất là
cùng thời gian với việc quyết định khởi tố vụ án" vì cơ quan tiến hành tố tụng "chỉ
được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại…". Đây là một quy định có tính
chất bắt buộc đối với cơ quan có thẩm quyền khởi tố. Còn nếu quyết định khởi tố vụ
án rồi sau đó mới bổ sung yêu cầu của người bị hại thì chế định "khởi tố vụ án hình

sự theo yêu cầu của người bị hại" sẽ không có ý nghĩa.
2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, khi đã được cơ
quan tiến hành tố tụng thụ lý và giải quyết thì hậu quả pháp lý đặc trưng nhất, đó là


×