Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Nhà Triệu pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.5 KB, 5 trang )

Nhà Triệu
Nhà Triệu do Triệu Vũ Đế sáng lập với quốc hiệu là Nam Việt, tồn tại từ
năm 207 TCN đến năm 111 TCN.
Lập quốc
Năm 214 TCN, nhà Tần sai Đồ Thư (theo cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên,
là nguồn sử duy nhất cho các nhà viết sử Trung Hoa và Việt Nam sau này,
là Đồ Tuy) đem quân sang đánh vùng Dương Việt, đặt các quận Tượng
(nam Hồ Nam), Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và Nam Hải (Quảng
Đông), cho Nhâm Ngao (theo cuốn Sử Ký, là Nhiệm Hiêu hay Nhậm
Hiêu) làm Quận Uý và Triệu Đà làm Lệnh Úy huyện Long Xuyên(thuộc
quận Nam Hải). Năm 210 TCN, Nhâm Ngao và Triệu Đà đánh nước Âu
Lạc của An Dương Vương, bị thua trận phải rút về.
Sau khi Tần Thuỷ Hoàng mất, đế quốc Tần hỗn loạn, khởi nghĩa nổi lên
khắp nơi. Nhâm Ngao sắp chết, khuyên Triệu Đà chiếm lấy vùng Bách
Việt để tự lập làm vua. Năm 208 TCN (có thuyết khác cho rằng năm 179
TCN), Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc, sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải.
Năm 207 TCN, Triệu Đà lập ra nước Nam Việt, tự xưng làm vua nước
Nam Việt (hay Nam Việt Vương). Sau khi nhà Tần sụp đổ (206 TCN)
Triệu Đà tiếp tục tiến đánh và thu phục quận Quế Lâm vào lãnh thổ Nam
Việt
Quan hệ với nhà Hán
Lưu Bang lên ngôi hoàng đế (tức là Hán Cao Tổ), cử Lục Giả đi sứ để
phong vương cho Triệu Đà. Theo Trần Trọng Kim, mà không có trong Sử
Ký của Tư Mã Thiên, nguồn sử duy nhất cho các nhà viết sử sau đó, ban
đầu Triệu Đà không phục, Lục Giả bèn nói: "Nhà vua là người nước Tàu,
mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua
thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ
thần, không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và
giết hại thân thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế
nào?" Vũ vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói
rằng: "Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta


cũng chẳng kém gì Hán đế!"
[1]
.
Khi Hán Cao Tổ mất, Triệu Đà xưng đế và phái binh mã đánh quận
Trường Sa (tỉnh Hồ Nam ngày nay). Năm 181 TCN, quân Hán đánh Triệu
Vũ Đế bị thua, thanh thế của ông càng lẫy lừng.
Hán Vũ Đế lên ngôi, lại sai Lục Giả sang khuyên Triệu Đà thần phục nhà
Hán. Triệu Đà nghe theo, bỏ đế hiệu và triều cống nhà Hán.
Suy tàn
Triệu Đà mất (137 TCN), truyền ngôi cho cháu đích tôn là Triệu Hồ.
Triệu Hồ ở ngôi 12 năm (136-125), khi mất truyền ngôi cho con là Anh
Tề. Anh Tề từng làm con tin ở nhà Hán, lấy người con gái họ Cù, sinh
con tên Hưng, sau khi lên ngôi lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm thế
tử.
Anh Tề cũng ở ngôi được 12 năm thì mất (113 TCN). Thế tử Hưng được
lập làm vua, nhưng Cù thái hậu làm nhiếp chính. Cù thái hậu ngang nhiên
tư thông với sứ giả nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, vốn là người tình cũ
khi ở đất Hán khi chưa lấy Anh Tề.
Tể tướng Lữ Gia (có tài liệu nói ông là người Việt) làm quan trải ba đời
vua Triệu, được lòng dân hơn vua, muốn làm loạn. Thái hậu muốn mượn
tay nhà Hán giết Lữ Gia. Lữ Gia về nhà dấy quân, giết vua và Cù thái hậu
cùng bọn sứ giả nhà Hán, lập cháu của Triệu Đà là Kiến Đức làm vua, tức
là Thuật Dương vương (112 TCN).
Hán Vũ đế sai Hàn Thiên Thu mang quân đánh Nam Việt. Lữ Gia đón
đánh giết được Hàn Thiên Thu. Hán Vũ đế liền sai Dương Bộc, Lộ Bác
Đức đem đại quân sang đánh, Thuật Dương Vương Kiến Đức và Tể
tướng Lữ Gia đều lần lượt bị bắt và bị hại (111 TCN).
Sau khi chiếm được Nam Việt, Hán Vũ đế đổi tên Nam Việt thành Bộ
Giao Chỉ, chia đất Nam Việt thành 9 quận
Nhà Triệu và nước Nam Việt tính từ Triệu Đà đến Triệu Kiến Đức là 5

đời vua, tồn tại 97 năm (206 - 111 TCN).
Vấn đề chính thống
Nhà Triệu trong lịch sử Trung Hoa là một vua chư hầu trong đế quốc
Trung Hoa, nhưng là một giai đoạn lịch sử gây tranh cãi trong những sử
gia Việt Nam. Người Trung Hoa không công nhận nhà Triệu và Triệu Đà
thuộc nước họ vì ông là Nam Việt hiệu úy còn theo quan điểm chính
thống ở Việt Nam ngày nay thì Triệu Đà bị coi là giặc xâm lược.
[2]
Quan điểm chính thống thời phong kiến, thể hiện qua các sử gia từ Lê
Văn Hưu đến Trần Trọng Kim, coi đó là thời kỳ độc lập của Việt Nam,
bởi vì họ Triệu cai trị Nam Việt độc lập với nhà Hán cho tới tận năm 111
TCN, khi các đội quân nhà Hán xâm lược đất nước này và sáp nhập nó
vào đế chế Hán thành bộ Giao Chỉ. Quan điểm chính thống hiện nay tại
Việt Nam
[cần dẫn nguồn]
, cho rằng đây là giai đoạn Việt Nam bị Trung Quốc
cai trị, bởi vì:
• Triệu Đà là người Trung Quốc, quê ở châu Chân Định.
• Triệu Đà là tướng nhà Tần, về sau cát cứ với trung ương lập nước
riêng, đã thôn tính Âu Lạc.
• Diện tích phần Việt Nam ngày nay chỉ chiếm một phần rất nhỏ
trong Nam Việt, mà diện tích phần Trung Quốc ngày nay chiếm hầu
hết nước Nam Việt.
• Dân chúng trong phần Việt Nam ngày nay chỉ chiếm một phần rất
nhỏ trong nước Nam Việt, mà dân chúng trong phần Trung Quốc
ngày nay chiếm phần lớn hơn rất nhiều trong nước Nam Việt.
Tuy nhiên các sách vở đời xưa vẫn công nhận nhà Triệu, trái với quan
điểm chính thống hiện nay. Đời Trần, sử gia Lê Văn Hưu khi viết bộ Đại
Việt sử ký đã chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng và so sánh Vũ
Đế với các bậc vua hiền thời cổ như Thuấn, Văn Vương:

Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối
ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp
đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người
làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững
bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo,
giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương
Bắc không thể lại ngấp nghé được.
Cho tới Thế kỷ 20, Học giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược vẫn
công nhận nhà Triệu như là một triều đại chính thống của Việt Nam. Có
một số tác giả phương Tây cũng công nhận điều này và cho rằng chỉ tới
khi quân Hán sang tấn công Nam Việt, thời Bắc thuộc của Việt Nam mới
bắt đầu.
Các đời vua nhà Triệu
Danh hiệu (chữ Hán,
âm pinyin, âm Quảng
Đông)
Tên húy (chữ Hán, âm pinyin, âm
Quảng Đông)
Thời gian
ở ngôi
Nhà Triệu
207 TCN - 111 TCN
Vũ Vương (武王, Wǔ
Wáng, Mou5 Wong4)
hay Vũ Đế (武帝, Wǔ
Triệu Đà (趙佗, Zhào Tuó, Ziu6
To4)
207 TCN-
137 TCN
Dì, Mou5 Tai3)

Văn Vương (文王, Wén
Wáng, Man4 Wong4)
Triệu Hồ (趙胡, Zhào Hú, Ziu6
Wu4) hay Triệu Mạt/Muội (趙眜,
Zhào Mò, Ziu6 Mut6)
137 TCN-
124 TCN
Minh Vương (明王,
Míng Wáng, Ming4
Wong4)
Triệu Anh Tề (趙嬰齊, Zhào Yīngqí,
Ziu6 Ying1 Cai4)
124 TCN-
113 TCN
Ai Vương (哀王, Āi
Wáng, Oi1 Wong4)
Triệu Hưng (趙興, Zhào Xīng, Ziu6
Hing1)
113 TCN-
112 TCN
Dương Vương (陽王,
Yáng Wáng, Joeng4
Wong4)?
Triệu Kiến Đức (趙建德, Zhào
Jiàndé, Ziu6 Gin3 Dak1)
112 TCN-
111 TCN

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×