Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

mot so bien phap quan ly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.91 KB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. Độc lập- Tự do- Hạnh phúc. BẢN CAM KẾT I. Tác giả: Phạm Hải Anh Ngày, tháng, năm sinh: 26/ 3/ 1963 Đơn vị: Trường Tiểu Học Đoàn Đức Thái Số điện thoại DĐ: 0919 237088 II. Sản phẩm: “Một số biện pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái”. III. Cam kết Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này của cá nhân tôi. Nếu có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ SKKN, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Phòng GD và ĐT về tính trung thực của bản cam kết này. Cát Hải, ngày 5 tháng 1 năm 2013 Người cam kết. Phạm HảiAnh.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> PHẦN THỨ NHẤT Tên đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP VỀ QUẢN LÝ CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN ỨNG DỤNG PPBTNB VÀO DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐOÀN ĐỨC THÁI. I. Lý do và tính cấp thiết Đất nước ta đang trên con đường hội nhập, kinh tế đang trên đà phát triển. Để đáp ứng cho yêu cầu đổi mới của đất nước không thể thiếu những con người năng động, sáng tạo. Vì thế giáo dục góp một phần không nhỏ trong việc đào tạo ra những con người phát triển toàn diện. Nhưng nói đến giáo dục thì yêu cầu đặt lên hàng đầu phải là chất lượng. Chất lượng giáo dục là vấn đề sống còn của một đất nước, một dân tộc. Nhưng để đảm bảo chất lượng ngoài những yếu tố khách quan và chủ quan thì đổi mới phương pháp dạy học cần được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Mục tiêu giáo dục tiểu học cũng đã nhấn mạnh đến yêu cầu của giáo dục tiểu học là góp phần đào tạo những người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo, chủ động, thích ứng. Yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục, trong đó cần ưu tiên đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về lĩnh vực giáo dục đào tạo đã chỉ rõ : Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa giáo dục. Vậy việc nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục đào tạo học sinh như thế nào để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ CNH- HĐH đất nước? Thực trạng dạy học và quản lý chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường tiểu học hiện nay đang là vấn đề cần quan tâm. Đặc biệt thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH đất nước. Rõ ràng phương pháp dạy học là vấn đề cấp thiết và trở thành nghị quyết của Đảng. Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ chỉ đạo quản lý.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> dạy học ở trường tiểu học của người làm công tác chuyên môn. Từ thực tế dạy học ở trường tôi hiện nay, thiết nghĩ đổi mới phương pháp dạy học cũng cần có giải pháp thực tế hơn, trở về với mỗi giáo viên, với công việc thường ngày của họ trong mỗi bài học, tiết học, ở từng lớp học – nơi quyết định đến chất lượng giáo dục và hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học mà chúng ta đang quan tâm. Là một cán bộ quản lý, tôi rất băn khoăn, lo lắng đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Từ những suy nghĩ đó, những năm học vừa qua tôi đã đẩy mạnh chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học trong toàn giáo viên. Bản thân nhận thức rằng đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu quan trọng, là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục. Đây là một việc làm hết sức cần thiết của lương tâm người làm công tác quản lý giáo dục, là nhu cầu không thể thiếu của mỗi giáo viên. Đặc biệt trong năm học 2012 – 2013, thực hiện sự chỉ đạo của Sở giáo dục là ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào trong dạy học các môn khoa học và tự nhiên xã hội, đây là một phương pháp hoàn toàn mới đối với giáo viên. Vậy chỉ đạo giáo viên thực hành phương pháp này như thế nào đây? Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã mạnh dạn chọn chuyên đề : “Một số biện pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái”. Hy vọng chuyên đề của tôi góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo dục. II. Mục đích nghiên cứu - Đề xuất một số giải pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái. - Tìm hiểu thực trạng việc ứng dụng PPBTNB vào dạy học, từ đó đề ra một số biện pháp. III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Các biện pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái”..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 3.2- Khách thể nghiên cứu - Là quá trình tổ chức các hoạt động dạy học nói chung và dạy các môn khoa học, tự nhiên xã hội nói riêng ở trường Tiểu học Đoàn Đức Thái. - Đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy của trường TH Đoàn Đức Thái. IV. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn trong ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái”. 4.2. Một số giải pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái. V. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu tôi sử dụng những biện pháp nghiên cứu sau: - Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu tham khảo một số tài liệu về phương pháp bàn tay nặn bột, các tài liệu hướng dẫn các bước ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài này. - Phương pháp quan sát: Quan sát một số giờ dạy của giáo viên, quan sát cách tổ chức các hoạt động , quan sát hoạt động của học sinh khi tham gia học tập. - Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn giáo viên về chất lượng và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học khi ứng dụng PPBTNB vào các tiết dạy . Trò chuyện với học sinh để nắm bắt vấn đề nghiên cứu. VI. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Đề tài này đi sâu vào nội dung sau: “Một số biện pháp về quản lý, chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường tiểu học Đoàn Đức Thái”. do phó hiệu trưởng chỉ đạo. Vì thế chỉ thực hiện trong phạm vi nhà trường với việc giảng dạy những tiết khoa học và tự nhiên xã hội.. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG ĐỀ TÀI.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA BIỆN PHÁP VỀ QUẢN LÝ CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN ỨNG DỤNG PPBTNB VÀO DẠY HỌC TIỂU HỌC ĐOÀN ĐỨC THÁI.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> I.Cơ sở lý luận : 1. Lịch sử của phương pháp “ Bàn tay nặn bột” - BTNB được sáng lập vào năm 1995 bởi Giáo sư Georges Charpak (đạt giải Nobel Vật lý năm 1992) - Năm 1998, Viện hàn lâm khoa học Pháp soạn thảo và công bố 10 nguyên tắc của BTNB, được coi là hiến chương của phương pháp dạy học tích cực này. - Năm 2001, được sự bảo trợ của Viện hàn lâm khoa học Pháp, một mạng lưới các chuyên gia nghiên cứu về bàn tay nặn bột được thành lập với mục đích trao đổi kinh nghiệm, củng cố và phát triển BTNB. - Bàn tay nặn bột (BTNB) đã có mặt nhiều nơi trên thế giới từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển có nền giáo dục tiên tiến: Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Mexico, Brazil, Trung Quốc, Philipin, Iran, Việt Nam… 2. Bàn tay nặn bột tại Việt Nam - 1998-1999: 2 giáo viên đầu tiên của Việt Nam đã được Hội Gặp gỡ Việt Nam tạo điều kiện sang Pháp học tập và nghiên cứu về BTNB - 1999: NXB Giáo dục đã xuất bản lần đầu tiên cuốn sách "Bàn tay nặn bột" nguyên bản tiếng Pháp của G. Charpak được dịch ra tiếng Việt bởi Đinh Ngọc Lân. - 2001: BTNB đã được phổ biến cho sinh viên khoa Sư phạm Tiểu họcĐHSP Hà Nội I và được áp dụng thí điểm tại trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), và trường thực hành Nguyễn Tất Thành ( thuộc ĐHSP Hà Nội I ). Từ đó đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam các lớp tập huấn hè về BTNB đã được triển khai cho các giáo viên cốt cán và các cán bộ quản lý tại nhiều địa phương trong toàn quốc. Đây là một chương trình trong quan hệ hợp tác văn hóa giáo dục song phương Pháp – Việt. 3. Phương pháp “ Bàn tay nặn bột là gì” ?.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. "Bàn tay nặn bột" (BTNB) chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra … Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh, giảng dạy khoa học dựa trên tìm tòi khám phá. - Xét về mặt đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học thì mỗi học sinh là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên cùng với sự phát triển về tính chất tâm lý của trẻ em đang hình thành và phát triển. Mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành. Vì vậy trường tiểu học cần phải rèn luyện cho học sinh tính năng động và sáng tạo bằng cách chuyển qua dạy học theo hướng tích cực hóa học tập, tập trung vào hoạt động của người học mới rèn luyện được cho trẻ em những năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Bên cạnh đó, do sự phát triển của khoa học, sự bùng nổ thông tin với những yêu cầu ngày càng lớn của xã hội đòi hỏi phải có sự đột phá trong đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì thế năm học 2012 – 2013 Sở giáo dục và đào tạo Hải Phòng đã triển khai ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong tất cả các trường học tại thành phố Hải Phòng. Do đó việc ứng dụng phương pháp “ Bàn tay nặn bột” vào.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> trong day học là việc làm cần thiết đòi hỏi những người làm công tác chỉ đạo chuyên môn cần quan tâm để giúp giáo viên tiếp cận với việc ứng dụng phương pháp này một cách hiệu quả nhất. II. Cơ sở thực tiễn : 1. Đội ngũ giáo viên : - Tổng số toàn trường : 31 cán bộ giáo viên. Trong đó : Nữ : 29 đ/c - Đặc điểm tình hình : Trường có 23 giáo viên đứng lớp thì có 2/3 sô giáo viên có khả năng dạy toàn cấp bởi họ được đào tạo bằng nhiều hình thức khác nhau. Biên chê 21, hợp đông huyên 2 TS giáo. Nữ. Trình độ đào tạo ĐH CĐ 12+2 10+2. Năng lực chuyên môn Tốt Khá T B Yếu. viên 23 22 9 14 0 0 13 10 0 0 Thâm niên : Tuổi đời : Trên 50 tuổi : 2 người ; 40 – 50 tuổi : 14 người ; 30 – 40 tuổi : 6 người, dưới 30 tuổi: 2 Tuổi nghề : cao nhất 30 năm, thấp nhất là 2 năm, còn lại là bình quân trên dưới 20 năm. Xuất phát từ tình hình đội ngũ như thế nên cái thuận lợi là họ rất chuyên tâm với nghề, có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm cũng như giảng dạy. Nhưng cái khó khăn lớn nhất là nếp hằn trong chuyên môn của học đã ổn định nên vấn đề thay đổi cái mới trong phương pháp dạy học nói chung là hết sức nan giải. Tục ngữ có câu: “ Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Vì thế cái gì đã ăn sâu vào trong nếp nghĩ, thói quen thì thay đổi lại để tiếp cận với cái mới là họ rất ngại. Thứ hai là tính nhanh nhạy ở họ đã giảm, khả năng tiếp thu cái mới hạn chế, nhất là tiếp cận với khoa học giáo dục chậm, thêm vào đó một số giáo viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hầu hết giáo viên của trường tiểu học Đoàn Đức Thái là trụ cột kinh tế chính trong gia đình cho nên phần nào công việc của họ bị chi phối bởi kinh tế gia đình. Ngoài ra nhận thức của giáo viên về tính cấp thiết phải đổi mới phương pháp dạy học chưa rõ ràng, tiềm năng kiến thức lý luận về phương pháp dạy học đối với các môn học ở tiểu học còn hạn chế nên hiệu quả ứng dụng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> phương pháp và hình thức dạy học chưa nhạy bén. Giáo viên truyền thụ tri thức có sẵn cho học sinh một cách gò ép, áp đặt, dàn trải, giáo viên đứng lớp còn lúng túng trong việc đổi mới phương pháp, đưa ra kết luận có sẵn để bắt buộc học sinh thụ động tiếp thu công nhận. Một số giáo viên chủ yếu dựa vào bài soạn và sách hướng dẫn mà không để ý đến đặc điểm tâm lí của mỗi học sinh, chưa quan tâm đến các đối tượng. Việc tổ chức một tiết học chưa linh hoạt sáng tạo, chưa nghiên cứu kĩ sách giáo khoa nên lên lớp còn lúng túng. Thực tế mà nói sau khi đi tập huấn phương pháp BTNB tại thành phố về và triển khai ở trường, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, không được sự hưởng ứng hỗ trợ từ phía giáo viên. Giáo viên ngại lên lớp thực hành, cơ sở vật chất nhà trường không dấp ứng cho việc ứng dụng, học sing còn bỡ ngỡ chưa quen với việc ứng dụng phương pháp mới của cô giáo. Tiết dạy thường vất vả khi không có sự ăn khớp giữa cô và trò. *Kết quả dự giờ : Năm học. SL giáo viên. Xếp loại tốt. Xếp loại. Đạt yêu. khá. cầu. 2009 - 2010 25 10 13 2010 - 2011 24 10 13 2011 – 2012 23 13 10 2. Về chất lượng kết quả học tập của học sinh :. 2 1 0. Chưa đạt yêu cầu 0 0 0. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách không đầy đủ những điều giáo viên giảng, kiến thức thực tế của học sinh ít, các em không tìm tòi khám phá sáng tạo, không tự tìm ra được kết luận, kĩ năng sống còn hạn chế nhất là kĩ năng giao tiếp, hợp tác trong học tập. Ví dụ : Đối với môn Tiếng Việt nhiều học sinh không thích học môn học này do chưa thấy được cái hay, cái đẹp của những giờ tập đọc, học sinh ngại viết văn. Vì vậy kết quả về bộ môn Tiếng Việt thấp hơn môn Toán..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Có những học sinh qua khảo sát điều tra trong năm học 2011 – 2012 thấy rằng kỹ năng đọc vẫn còn yếu ( chưa trôi chảy, chưa diễn cảm cho nên khả năng cảm thụ không có ) Môn tập đọc là một phân môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt của bậc học tiểu học, nếu học tốt môn này thì học sinh rèn luyện được kỹ năng đọc, phát triển được vốn từ phong phú tạo điều kiện học tốt các môn học khác. Thực tế chúng tôi đã khảo sát về phân môn Tập làm văn ở khối 4, 5 kết quả trong số những em yếu tập làm văn cũng chính là những em yếu toán và những môn khác. Đặc biệt kĩ năng diễn đạt của học sinh nói chung đều rất chậm, ngôn ngữ nói chưa tự nhiên, các em thường e ngại rụt rè khi hợp tác giao tiếp trong hoạt động nhóm. 3. Về quản lý chỉ đạo : Trong những năm vừa qua phong trào đổi mới phương pháp dạy học nói chung đã hình thành và dấy lên mạnh mẽ. Song về chỉ đạo thì còn ở dạng chung hoặc chuyển tải còn rời rạc mang tính hình thức, lí thuyết, chưa đi sâu vào thực hành … Là người quản lý công tác chuyên môn, trực tiếp chỉ đạo quản lý đội ngũ giáo viên phải tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tiếp cận với những cái mới của khoa học giáo dục. Tuy nhiên việc học hỏi của quản lý còn ít, nhiều vấn đề mới chưa được tiếp cận. Người quản lý phải định hướng được cách thức và yêu cầu đổi mới của giáo viên trong các khâu của quá trình dạy học. Chú trọng tham mưu xây dựng các điều kiện thiết yếu để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. Tuy nhiên việc chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có kế hoạch nhưng chưa cụ thể, chưa rõ ràng, chưa dứt khoát. Chính những hạn chế đó dẫn đến người quản lý chưa đánh giá đúng mức độ vận dụng đổi mới phương pháp và sự cố gắng của từng giáo viên cũng như toàn thể đội ngũ. Người quản lý đã nhận thức rằng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và ứng dụng phương pháp BTNB nói riêng là sự sống còn của chất lượng nhà trường.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> do vậy từ những ngày đầu của năm học, cách thức và phương pháp dạy học như thế nào đã có ngay trong kế hoạch và có sự quyết tâm cao của tập thể giáo viên. Đặc biệt khi Bộ và Sở giáo dục tổ chức hội thảo chuyên đề “ Ứng dụng phương pháp BTNB” quản lý chuyên môn đã cùng với giáo viên cốt cán đã đi dự để tiếp cận với phương pháp mới này. Sau khi dự hội thảo người quản lý cần nghiên cứu thêm các tài liệu liên quan đến phương pháp này để có kế hoạch chỉ đạo việc thực hành và ứng dụng vào trong dạy học của giáo viên. Có như thế mới đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp nói chung của giáo viên. Dù tạo điều kiện về CSVC và nhận thức lý luận dạy học sâu sắc nhưng công tác kiểm tra của người quản lý phải thường xuyên để trách hình thức, hô hào gượng ép nặng nề. Vì vậy trong học kì 1 vừa qua giáo viên đã tích cực trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học nói chung và ứng dụng phương pháp BTNB nói riêng, có nhiều ý kiến hay, nhiều tiết dạy đã ứng dụng được các bước của phương pháp BTNB III. Những biện pháp cơ bản định hướng việc quản lý chỉ đạo việc ứng dụng phương pháp BTNB vào dạy các môn khoa học. 1. Trang bị nhận thức về phương pháp BTNB cho đội ngũ giáo viên Nhằm làm cho giáo viên nhận thức đúng đắn yêu cầu và sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học nói chung và vận dung linh hoạt các phương pháp dạy học trong đó có phương pháp BTNB trong tình hình hiện nay. Thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng và định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học. Xác định được đối tượng trực tiếp và điều kiện cần thiết để ứng dụng phương pháp BTNB. Trong việc bồi dưỡng nhận thức cho đội ngũ giáo viên cần chú ý hai khuynh hướng có thể xảy ra : + Tuyệt đối hóa việc đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến giáo viên cảm nhận sâu xa, quá sức mình. Từ đó mà họ cũng không muốn tiếp cận bởi họ thấy các.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> điều kiện về năng lực bản thân, CSVC của trường học, đối tượng học sinh khó cho họ thực hiện đổi mới cách dạy, ứng dụng phương pháp BTNB. + Bình thường hóa, xem thường dẫn đến nhận thức và thực hiện qua loa, bằng lòng với cách dạy, cách học cũ. Ở trường hợp này giáo viên dễ đối phó, ít tập trung vào nghiên cứu tài liệu, không chịu khó học hỏi kinh nghiệm, ngại thực hành theo phương pháp mới dẫn đến chất lượng thấp không theo kịp với yêu cầu giáo dục. Người quản lý phải tạo điều kiện, tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn đội ngũ bồi dưỡng và tự bồi dưỡng mình thông qua các tài liệu chỉ đạo chuyên môn của Bộ, Sở Phòng giáo dục. Song song việc tiến hành làm cho đội ngũ giáo viên nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học thì phải đồng thời xây dựng các điều kiện để tổ chức tốt các hoạt động dạy học, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học trong các giờ dạy. 2. Tổ chức thực hiện các điều kiện để ứng dụng phương pháp BTNB 2.1. Bồi dưỡng đội ngũ về tiềm năng kiến thức và lý luận về phương pháp BTNB Yếu tố quyết định thực hiện việc cải tiến đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng các phương pháp trong đó có phương pháp BTNB là năng lực đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Thực tiễn cho thấy rằng giáo viên non yếu về kiến thức, không nắm chắc quy trình, đặc trưng bộ môn, lý luận phương pháp dạy học thì không thể đòi hỏi gì ở họ việc cải tiến đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp. Hiện nay đội ngũ giáo viên trường tiểu học Đoàn Đức Thái có độ tuổi cao 45-50 chiếm tỉ lệ khá nhiều, tiềm năng kiến thức và lý luận phương pháp dạy học mai một dần. Giáo viên trẻ còn ít, năng nổ nhiệt tình song năng lực và kinh nghiệm còn hạn chế. Chính vì vậy việc tổ chức công tác tự bồi dưỡng, bồi dưỡng đội ngũ là yêu cầu cấp thiết đối với nhà trường. Nhất là năm học 2012 – 2013 yêu cầu giáo viên phải ứng dụng phương pháp BTNB, đây là phương pháp dạy học mới, nhiều giáo viên rất băn khoăn chưa hiểu tại sao lại gọi là.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> phương pháp BTNB, họ nói vui liệu bàn tay có nặn được nên bột. Vì thế nội dung bồi dưỡng cho giáo viên cần tập trung vào những vấn đề sau: + Nâng cao một bước về tiềm năng kiến thức của giáo viên ở các bộ môn thuộc chương trình tiểu học đặc biệt là môn TNXH lớp 1, 2, 3 và phân môn khoa học lớp 4, 5. Giúp cho giáo viên xác định được kiến thức và kỹ năng cơ bản trong từng tiết dạy, hiểu được ý đồ sách giáo khoa, sách thiết kế và bài soạn, sách hướng dẫn giảng dạy … + Nắm vững phương pháp dạy học ở tiểu học, quy trình và phương pháp đặc trưng của từng bộ môn, nhất là cách thức tổ chức hoạt động nhóm. Từ đó biết cách lựa chọn sử dụng linh hoạt hệ thống các phương pháp và hình thức dạy học cho phù hợp trong một tiết dạy, lấy quan điểm hướng tập trung vào học sinh. Để thực hiện có hiệu quả công tác bồi dưỡng đội ngũ, người quản lý cần phân tích đánh giá đúng năng lực của từng giáo viên so với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Trên cơ sở đó để định ra nội dung tự bồi dưỡng của từng giáo viên, bồi dưỡng của tổ khối chuyên môn và nhà trường một cách thiết thực. Giúp giáo viên nhận thức rõ tính ưu việt của phương pháp BTNB là chương trình cải cách nhằm phát triển sự hiểu biết cụ thể trong một môi trường mà đâu đâu cũng cần phải đối chất giữa lý thuyết và thực hành. Chương trình cũng nhằm làm cho HS ham thích KH. Cuối cùng chương trình nhằm trang bị cho HS những điều cơ bản nhất về văn hoá KH, nó là chiếc chìa khoá không thể thiếu được để hiểu biết thế giới hiện đại. Giúp giáo viên hiểu rõ mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh. 2.2. Đảm bảo đầy đủ các phương tiện dạy và học Để giáo viên cỏ thể tự tin, thoải mái và hứng thú ứng dụng phương pháp BTNB vào dạy các môn TNXH và khoa học nhà trường đã tạo mọi điều kiện để giáo viên tiếp xúc với những tài liệu, mạng Internet và những trang Wed để mở.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> rộng thêm kiển thức về phương pháp BTNB đã được hướng dẫn qua các chuyên đề, hội thảo và lên lớp thực hành nhằm bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ. Tổ chức lên lớp các tiết thực nghiệm, sau đó rút kinh nghiệm để giáo viên có dịp bày tỏ những quan điểm và định hướng việc ứng dụng phương pháp này một cách có hiệu quả. Đặc biệt giáo viên cốt cán đã trực tiếp lên lớp và nhiệt tình trong việc giúp đỡ những giáo viên khác được phân công thực hành lên lớp. Chính vì thế trong thời gian gần đây giáo viên đã tự chủ động tìm kiếm cách thức đổi mới phương pháp dạy học nói chung và ứng dụng phương pháp BTNB nói riêng, qua đó nhận thức về phương pháp BTNB nâng lên rất nhiều, không còn phải xa lạ với khái niệm phương pháp BTNB nữa. Sách giáo khoa, các phương tiện phục vụ cho dạy và học góp phần quan trọng giúp cho giáo viên ứng dụng thành công phương pháp này. Xét điều kiện này ở các lớp trong trường thấy rằng có một số học sinh còn thiếu dụng cụ học tập theo yêu cầu của bộ môn. Quản lý chuyên môn dự giờ và tiến hành điều tra, khảo sát để nắm chắc tình hình về sách, dụng cụ, phương tiện phục vụ cho dạy và học, động viên phụ huynh mua sắm đầy đủ sách giáo khoa, dụng cụ học tập cho học sinh nhất là vở thực hành thí nghiệm và màu vẽ. Nhà trường phải có kế hoạch để trang bị đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng, phương tiện thiết bị dạy học như các đồ dùng thí nghiệm, giấy, bút …., giáo viên cũng nhiệt tình linh hoạt, sáng tạo trong việc chuẩn bị đồ dùng phù hợp với tiết dạy. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt của thư viện, mua đủ các loại thiết bị, các loại tạp chí, báo tài liệu tham khảo đẻ làm phong phú thêm đời sống tinh thần của giáo viên và học sinh. c/ Xây dựng môi trường học tập của học sinh Đổi mới phương pháp dạy học đặt ra cấp thiết đối với hiệu trưởng là xây dựng môi trường học tập của học sinh từ phía gia đình. Giáo dục đã dặt ra từ lâu và đặc biệt gần đây luật giáo dục đã được quy định rõ ở điều 82: “Cha mẹ hoặc người.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> giám hộ có trách nhiệm, nuôi dưỡng, chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường”. Mọi người trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hóa tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ của con em. Đồng thời cùng với nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên do mặt bằng dân trí, nhận thức về giáo dục, đời sống kinh tế của nhiều gia đình ở những mức độ khác nhau dẫn đến việc quan tâm đầu tư giúp đỡ con em học tập của mỗi gia đình khác biệt nhau. Mặc dù trong những năm gần đây do sự cố gắng của nhà trường đã làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục nên vai trò của gia đình đối với giáo dục có sự chuyển biến đáng mừng. Nếu như gia đình không lo đủ sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh, không đảm bảo thời gian và động viên tự học của học sinh ở nhà, quan hệ gia đình và nhà trường không được duy trì thường xuyên, học sinh đến lớp không thực hiện các yêu cầu của giáo viên như : ôn kiến thức cũ, chuẩn bị bài mới, làm bài tập thực hành thì giáo viên không thể cải tiến đổi mới phương pháp dạy học được nhất là việc ứng dụng phương pháp BTNB. Qua đó khẳng định rằng nâng cao trách nhiệm phụ huynh , xây dựng môi trường học tập của học sinh từ phía gia đình là một trong những điều kiện quan trọng giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học. 3. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn để triển khai ứng dụng phương pháp BTNB Hiện nay việc lựa chọn phương pháp dạy học hợp lý cho tiết dạy là vấn đề đang gặp khó khăn của giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học không phủ nhận các kinh nghiệm vận dụng phương pháp cổ truyền hiện nay như đàm thoại, thuyết trình, trực quan, nêu vấn đề, luyện tập thực hành... Điều cơ bản là giáo viên phải biết lựa chọn, biết cách vận dụng và mức độ sử dụng để tiết dạy có hiệu quả cao. Nhất là năm học này yêu cầu giáo viên ứng dụng phương pháp BTNB. Vì vậy khi lựa chọn bất kỳ một phương pháp nào cũng cần xem xét đến toàn bộ các yếu tố gắn liền một cách trực tiếp, cụ thể, có mối quan hệ biện chứng :.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> + Nội dung bài học + Trình độ đối tượng tiếp nhận nội dung chương trình, khả năng tiếp nhận và truyền đạt nội dung đó của người thầy. Có như thế mới tìm ra phương pháp dạy, phương pháp học có khả năng chiếm lĩnh tối ưu bài học làm cho kết quả dạy học đáp ứng được mục đích đặt ra. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học cần phải định hướng theo những yêu cầu sau : + Đảm bảo mối liên hệ thống nhất mục đích, yêu cầu và kết quả dạy học trong từng bài học. + Đảm bảo mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy học - Thầy : Tổ chức hướng dẫn giúp đỡ kết luận vấn đề. - Trò : Chủ động tự giác, tích cực tự lính hội kiến thức. Vận dụng có hiệu quả, có nghệ thuật các công cụ, phương tiện dạy học. Cần quan tâm đến sự phân hoá trình độ học sinh để trách đồng loạt cào bằng mà phải được thể hiện ở sổ theo dõi học tập, sổ chủ nhiệm.... Loại bỏ phương pháp dạy học thông báo một chiều áp đặt, chuyển sang các phương pháp phát huy tính tích cực hoạt động chiếm lĩnh tri thức của học sinh, có sự hướng dẫn giúp đỡ từng bước của thầy. Trong quá trình chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, người quản lý phải chỉ đạo giáo viên đổi mới tất cả các khâu của quá trình dạy học trong đó có việc ứng dụng linh hoạt các phương pháp. Nhưng muốn thực hiện được vấn đề đó đòi hỏi người quản quản lý phải biết cách tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để mang lại hiệu quả ứng dụng trong giảng dạy. Chính vì thế trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tôi hạn chế các phần chuyên đề lý thuyết mà chủ yếu đi sâu vào lên lớp thực hành các tiết dạy. Người ta thường nói: “ Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một kần thực hành.” Thông qua việc thực hành và dự giờ các tiết lên lớp giáo viên sẽ nắm và hiểu rõ lí thuyết hơn. Do vậy trong học kỳ I vừa qua tôi đã tổ chức lên lớp thức hành được 4 tiết lên lớp thực hành dạy TNXH và.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> khoa học có ứng dụng phương pháp BTNB với các loại bài phong phú là quan sát và thí nghiệm. Trước khi lên lớp giáo viên được bàn bạc cách thức dạy, chuẩn bị cho tiết dạy như thế nào. Sau khi dự giờ giáo viên được thảo luận để đánh giá việc ứng dụng các bước lên lớp của phương pháp BTNB có đúng không, việc ứng dụng phương pháp BTNB mang lại hiệu quả gì cho giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Từ đó giáo viên thấy được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học. Tùy theo năng lực của từng giáo viên để yêu cầu mức độ ứng dụng phương pháp này như thế nào cho phù hợp. Như vậy một vấn đề đặt ra là người quản lý phải phân tích, đánh giá năng lực của từng giáo viên từ đó mới định hướng được sự đổi mới cho mỗi giáo viên vì năng lực, kiến thức của môic người ở mức độ khác nhau. Tóm lại : Như vậy việc ứng dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học phải được xác định là một quá trình lâu dài, phải kiên trì, trách nôn nóng, bảo thủ, phải kế thừa các mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống và vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học mới ở tiểu học. Tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể cũng như sự cố gắng của địa phương, của từng giáo viên và từng lớp. 4. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo triểnkhai ứng dụng phương pháp BTNB Quá trình chỉ đạo ứng dụng phương pháp BTNB một yêu cầu bắt buộc đối với người quản lý chuyên môn là phải có kế hoạch, mục tiêu cụ thể, tránh sự chỉ đạo chung chung đến đâu hay đó. Kế hoạch phải cụ thể hoá các giải pháp và các mục tiêu quản lý việc tổ chức thực hiện ứng dụng phương pháp BTNB trong nhà trường. Yêu cầu mỗi giáo viên, tổ, khối phải có kế hoạch về việc thực hành ứng dụng phương pháp này trong dạy học. Kế hoạch chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phải đảm bảo :.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> + Phân tích làm rõ thực trạng của đội ngũ về năng lực sư phạm, điều kiện phục vụ cho dạy và học, làm làm thước đo để đánh giá việc đổi mới phương pháp nói chung trong dạy học hiện nay. + Xây dựng cách tổ chức học tập, tổ chức lên lớp chuyên đề theo khối, tổ chuyên môn. + Hệ thống các giải pháp đánh giá chỉ đạo của nhà trường thật cụ thể, rõ ràng. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch phải có sự kiểm tra giám sát của quản lý chuyên môn để cỏ thể điều chỉnh kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch. IV. Những kết quả đạt được 1. Những kết quả bước đầu về phong trào - Đưa việc , ứng dụng PPBTNB nói riêng, ứng dụng CNTT và đổi mới phương pháp dạy học nói chung vào nhiệm vụ chỉ đạo chuyên môn thành một nội dung dánh giá xếp loại thi đua của nhà trường. - Xây dựng được các phong trào ở nhà trường, lớp học, trong giáo viên đã có ý thức cải tiến phương pháp dạy học, ứng dụng PPBTNB coi đó là xương sống của việc nâng cao trình độ chuyên môn. - Đẩy mạnh phong trào tự học, tự bồi dưỡng, đúc rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn. 2. Kết quả về chất lượng Với những biện pháp chỉ đạo việc ứng dụng PPBTNB đã nêu trên, trong học kì I vừa qua đội ngũ giáo viên nhà trường đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, số lượng giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng, học sinh giỏi ngày càng tăng. Kết quả việc ứng dụng của giáo viên như sau: STT 1 2. Họ và tên Phạm Thị Hải hà Đinh Thị Lan. Tên bài dạy Lá cây Tính chất của nước. Kết quả Giỏi Giỏi. Ghi chú.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 3 4. Chu Thị Thu Hương Nguyễn Thị Phượng. Ánh sáng Quả. Giỏi Giỏi. Kết quả tham gia học tập của học sinh: Kết quả STT 1 2 3 4. Lớp. Số HS. 3A3 25 4A1 29 4A2 25 3A2 20 Đánh giá chung: Thông. Tích cực. Chủ động. Sáng tạo. Giao tiếp,. học tập hợp tác 20/25 15/25 15/25 15/25 20/29 20/29 20/29 20/29 20/25 15/25 15/25 15/25 20/20 15/20 15/20 15/20 qua các tiết lên lớp 100% giáo viên đã ứng dụng. thành thạo các bước lên lớp của PPBTNB, giáo viên nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị cu đáo ca nội dung và hình thức, dự kiến các tình huống có thể xảy ra trong giờ học để chủ động xử lí. Giáo viên đã thực sự là nhà trung gian giữa "thế giới" khoa học (Các kiến thức và thực hành) với HS. Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mô hình giải thích hợp lí, đảm bảo sự đoán trước và giải quyết các xung đột nhận thức. HS thực sự được sống trong một thế giới khoa học, được gần gũi với thiên nhiên, được quan sát một hiện tượng của thế giới thực tại và gần gũi với chúng về đề tài mà từ đó chúng sẽ hình thành các nghi vấn. HS tự tìm tòi, suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể của thực nghiệm, HS được trao đổi và lập luận trong quá trình hoạt động, chúng chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình ( hiểu biết về lá cây, quả, biết làm những thí nghiêm ), cọ sát những quan điểm của nhau và hình thành những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng bằng ghi chép, biết phát biểu. V. Một số bài học kinh nghiệm 1. Tác động chuyển hoá nhận thức trong giáo viên về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, về cơ chế khoa học của phương pháp BTNB..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 2. Tổ chức chỉ đạo việc ứng dụng PPBTNB bằng cách người quản lý phải nghiên cứu thực trạng về mối tương quan giữa năng lực sử dụng các phương pháp dạy học của từng giáo viên. 3. Phải biết phân tích nguyên nhân tồn tại cách ứng dụng PPBTNB để lên chương trình kế hoạch chỉ đạo cụ thể. 4. Tổ chức hội thảo, toạ đàm trao đổi trong tập thể sư phạm, lên lớp thự nghiêm chuyên đề để thống nhất chương trình kế hoạch hành động. 5. Phải chỉ đạo điểm, nhân đại trà theo dõi phối hợp điều chỉnh, uốn nắn, đánh giá sơ bộ trong từng tháng. 6. Kiểm tra đánh giá kết quả, tổng kết rút ra các bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện ứng dụng PPBTNB. 7. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ về lí thuyết và các bước lên lớp của phương pháp này. Khi lên lớp giáo viên phải có sự chuẩn bị lĩ về nội dung và phương tiện dạy học. 8. Học sinh thực sự phái là trung tâm của quá trình dạy học, giáo viên chỉ là người định hướng, chỉ dẫn. Học sinh phải chủ động trong hợp tác, giao tiếp trong quả trình học.. PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Từ những kết quả nghiên cứu nêu trên tôi xin rút ra một số kết luận sau: * Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nghiên cứu: Đẩy mạnh công tác quản lý chỉ đạo đổi mới phương pháp nói chung và ứng dungkj thành thạo các phương pháp dạy học trong đó có ứng dụng PPBTNB là một.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> việc làm quan trọng và cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục. Từ đó phát huy được vai trò và trách nhiệm của người giáo viên tiểu học trong việc hình thành các lĩ năng cho học sinh trong đó có kĩ năng giao tiếp, hợp tác nhóm. Hoạt động học trong giờ dạy có ứng dụng PPBTNB tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh được tham gia hoạt động, giao lưu học hỏi củng tri thức đã học, phát triển tư duy, phát triển nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, rèn luyện ý thức, năng lực làm chủ tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, rèn luyện ý thức kỉ luật, rèn luyện các chuẩn mực và thói quen giao tiếp. Nhà trường, nơi đào tạo những con người mới kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, do đó hơn ai hết phải chăm lo đến việc giáo dục đào tạo học sinh bằng nhiều con đường giáo dục, trong đó con đường giáo dục trong tập thể, bằng tập thể với nhiều nội dung và hình thức phong phú trong cả chương trình nội khoá cũng như ngoài giờ lên lớp mới đáp ứng được nội dung đào tạo. Muốn vậy nhà trường cần quan tâm đến đổi mới phương pháp để hiệu quả giáo dục toàn diện của nhà trường sẽ tốt hơn. Sự nghiệp giáo dục chiếm một vị trí rất lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát trỉên đất nước. Điều này không chỉ được khẳng định trong giới hạn nước ta mà còn là xu thế chung của nhân loại. Trong thời đại khoa học thông tin phát triển như vũ bão, đội ngũ người tài được coi là nhân tố quan trọng tác động đến sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Nhà quản lý giáo dục phải thấy được điều đó nhằm đổi mới sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy việc chỉ đạo bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học trong giáo viên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, thiết thực của người quản lý trường học. Người quản lý phải quán triệt sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về công tác chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học. Đây là bước đi đáp ứng được nhu cầu của đông đảo giáo viên. Giáo viên nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học và xem đây là một nhiệm vụ cần làm thường.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> xuyên, liên tục và là nhiệm vụ cấp bách để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, góp phần đáp ứng cho nhu cầu chất lượng hiện nay. Muốn chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, người quản lý phải bồi dưỡng cho giáo viên vững vàng về tư tưởng chính trị, mạnh về chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng mẫu mực về đạo đức tác phong để thực sự là người giáo viên nhân dân. Trong phạm vi đề tài này tôi mới đề cập đến việc chỉ đạo có ứng dụng PPBTNB dạy học các môn khoa học , tự nhiên xã hội, chưa đi sâu vào tất cả các môn học được. * Khuyến nghị: - Với ban giám hiệu: tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị để 100% giáo viên có thể ứng dụng PPBTNB. - Với giáo viên: Ngoài việc dạy học theo đúng chương trình cần tích cực nghiên cứu bài dạy, mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp cũng như ứng dụng PPBTNB, giao lưu học hỏi lẫn nhau. - Với học sinh: cần mạnh dạn, năng động, sáng tạo hơn khi vận dụng kiến thức và giao tiếp. Tôi hy vọng những giải pháp trong bài viết này sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện học sinh của ngành giáo dục trong thời kì mới. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của đồng chí, đồng nghiệp để tôi có thêm kinh nghiệm trong công tác quản lí, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. Cát Hải, ngày 05 tháng 01 năm 2013 NGƯỜI VIẾT. Phạm Hải Anh.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> MỤC LỤC IIIIIIIVVVI-. PHẦN THỨ NHẤT: TÊN ĐỀ TÀI Lý do chon đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng và khách thể nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghiên cứu. 2 2, 3 3 3, 4 4 4 4.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> IIIIIIIV-. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG ĐỀ TÀI Chương I- Cơ sở lý luận và thực tiến của biện pháp về quản lí chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy học ở trường Tiểu học Đoàn Đức Thái Cơ sở lí luận Cơ sở thực tiễn Những biện pháp cơ bản định hướng việc quản lí chỉ đạo giáo viên ứng dụng PPBTNB vào dạy các môn khoa học Một số bài học rút kinh nghiệm PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 5 5 5 7 10 20 20,21. PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC HỘI ĐỒNG KHOA HỌC I/ HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐOÀN ĐỨC THÁI Điểm trung bình : ........... điểm. Xếp loại : ......... Cát Hải, ngày ..... tháng ...... năm 2013 T/M HĐKH.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> II/ HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CỤM TIỂU HỌC KHU ĐÔN LƯƠNG Điểm trung bình : ........... điểm. Xếp loại : ......... Cát Hải, ngày ..... tháng ...... năm 2013 T/M HĐKH. III/ HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC HUỴỆN CÁT HẢI Điểm trung bình : ........... điểm. Xếp loại : ......... Cát Hải, ngày ...tháng .... năm 2013 T/M HĐKH.

<span class='text_page_counter'>(26)</span>

<span class='text_page_counter'>(27)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×