Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.07 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, trước những đổi thay lớn lao của đời sống
quốc tế và sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu, địi
hỏi chúng ta phải có sự nhận thức lại đúng đắn các quan điểm của học thuyết
Mác - Lênin, trong đó có việc nhận thức lại một số vấn đề lý luận về Nhà
nước và pháp luật. Trong thời đại ngày nay, khi mà những tiến bộ, những
thành tựu của khoa học kỹ thuật đã làm cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân trở thành một tất yếu như Mác đã từng tiên đoán thì xu hướng chung của
các Nhà nước trên thế giới là xác định lại vai trị của mình trong xã hội, từ đó
Nhà nước hướng các hoạt động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự
phát triển tồn diện của con người. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của Nhà
nước đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học (chính
trị, pháp lý...), trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong các
chế độ Nhà nước khác nhau.
Từ thực trạng đó, đặt ra yêu cầu là vấn đề về Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần bổ sung
lý luận khoa học cho cơng cuộc củng cố và hồn thiện Nhà nước ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay. Vì vậy, việc tác giả chọn đề tài " Lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ thực tiễn" có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ


HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thơng qua đó, đảng của giai
cấp cơng nhân thực hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội; là một
tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết
quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chun chính vơ sản
được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực
hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Đó là một cơng cụ quản lý do chính đảng
của giai cấp cơng nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền
lực và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng thơng qua nó, giai cấp cơng nhân
và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối với tồn xã hội trong quá
trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức
quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua hai
chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã
hội.
1.2. Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha
hóa của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với
nhân dân lao động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập
chuyên chính vơ sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
3


chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời

kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nên chun chính cách mạng của giai
cấp vô sản .
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững công
cụ chuyên chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở
thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo
vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chun chính vơ sản, xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cịn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động
chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo
lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của
chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính
cách là một giai cấp. Đồng thời, trong thời kỳ q độ cũng cịn có các giai
cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp
này thường dao động, khơng thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực
tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết phục, lơi cuốn họ đi theo
mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đóng vai trị là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
đối với toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ,
vi phạm những giá trị dân chủ chun chính của nhân dân, địi hịi phải có
một thiết chế nhà nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước phải được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và
phát triển thành quả của dân chủ. Dân chủ cần phải có chun chính để giữ
4


lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân

được xử lý kịp thời... Các quyền đó phải được thể chế hóa trong hiến pháp,
pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Do đó, q trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu
gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình này
cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương khơng bài trừ và phủ
định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề
tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa
đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ
chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy,
để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng thì việc xây
dựng và khơng ngừng hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong
những cơng cụ chủ yếu của q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
1.3. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn đã cho thấy rõ, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà
nước bóc lột. Bản chất đó do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của
quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội quy định.
Trong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập
và củng cố dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - đó là kiểu
quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tác, tương trợ khơng có áp bức bóc lột. Giai
cấp vơ sản là người giữ địa vị thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị về
chính trị của giai cấp vơ sản đã thể hiện bản chất và mục đích khác hẳn với sự
thống trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột
5



là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột, để bảo
vệ lợi ích của chúng. Cịn sự thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản là sự
thống trị của đa số đối với giai cấp bóc lột, chỉ là thiểu số trong dân cư, nhằm
mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả người lao động. Mặt cơ bản nhất
trong sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp
vơ sản đối với tồn xã hội trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế
xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp vơ
sản. Bản chất và mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những
đặc điểm cơ bản sau đây:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ
quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao
động, nó khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là "nửa nhà nước".
Tất cả các nhà nước bóc lột đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó,
nghĩa là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao
động bị áp bức bóc lột … Phù hợp với bản chất đó, các nhà nước bóc lột đều
là bộ máy hành chính - quân sự quan liêu, một bộ máy bạo lực để thực hiện sự
đàn áp nhân dân lao động, bảo vệ sự thống trị của giai cấp bóc lột.
Khác với các nhà nước bóc lột, nhà nước xã hội chủ nghĩa không đơn
thuần chỉ là bộ máy hành chính – cưỡng chế mà nó cịn là một tổ chức quản lý
kinh tế xã hội. Hơn thế, bộmáy hành chính cưỡng chế của nhà nước xã hội
chủ nghĩa cũng đã có bản chất và đặc điểm khác: Đó là bộ máy do giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật
đổ và những phần tử phản động để bảo vệ thành quả cách mạng, giữvững an
ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế xã hội. Cho
nên, mặc dù trong thời kỳ quá độ sự trấn áp vẫn cịn là tất yếu, nhưng nó đã là
6



sự trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số bóc lột. "Cơ quan đặc
biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là "nhà nước" vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là
nhà nước quá độ, mà khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa. Sự trấn áp
ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân
dân, khiến cho sự cần thiết phải có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu
mất dần".
Tuy nhiên, do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp việc củng cố
và tăng cường sức mạnh của bộ máy hành chính - cưỡng chế của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng không thể coi nhẹ, nhất là trong giai đoạn
đầu sau khi cách mạng thành công, cũng như trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình vận động và phát triển, cùng với những thắng
lợi trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, vai trị làm chủ của nhân dân lao
động ngày càng được phát huy, các phần tử bóc lột và phản cách mạng được
cải tạo trở thành những người lao động chân chính … thì bộ máy hành chính
cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng được xây dựng một
cách tinh giản hơn và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ được thực
hiện trên cơ sở kết hợp cùng với các biện pháp giáo dục, thuyết phục và các
biện pháp kinh tế. Mặt khác, để thực hiện thắng lợi chuyên chính vơ sản, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc xây dựng và củng cố bộ máy
hành chính cưỡng chế đặc biệt phải chú ý củng cố và tăng cường bộ máy quản
lý kinh tế - xã hội. Bởi vì theo V.I. Lênin “chun chính vơ sản khơng phải chỉ
là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở
kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó là
giai cấp vơ sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với
chủ nghĩa tư bản; đây là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điều
bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản".

7



Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và
mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ
đại nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó địi
hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và
những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức
có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó việc
tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất. Nước ta từ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp, đồng thời lại phải trải qua hàng
chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân,
phong kiến còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm mọi cách phá
hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập của nhân dân ta. Vì vậy, việc cải
tạo và xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội lại càng khó khăn phức tạp
hơn.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh phải xây dựng nhà nước
vững mạnh: "Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân”.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Các nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, nhằm duy trì sự áp bức, bóc lột và thống trị giai cấp. Vì
vậy, trong các nhà nước bóc lột khơng thể có chế độ dân chủ thực sự được.
Chỉ trong chủ nghĩa xã hội mới có cơ sở để đảm bảo cho nền dân chủ thực sự
được phát triển. Nhà nước chính là cơng cụ để thực hiện nền dân chủ đó.
Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, là người sáng lập ra nhà nước và mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Với ý nghĩa đó, nhà nước xã hội chủ
nghĩa chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân (nhân dân lao động) và chế
8



độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính gắn liền với bản chất của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: "Nhà nước ta là "Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân;
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân".
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ
nhà nước chứ khơng phải là vơ chính phủ. V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Cũng như mọi
nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng
bức đối với người ta. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức
thừa nhận quyền bình đẳng giữa những cơng dân, thừa nhận cho mọi người có
quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu của nhà nước và quản lý nhà
nước". Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện Việt Nam, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta đều khẳng định: Thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của tầng. lớp nhân
dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà
nước phải bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước, thực
sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ
quan quyền lực nhà nước, có quyền, có khả năng và điều kiện thực tế để thực
hiện việc kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan nhà nước, bãi
miễn những đại biểu do mình bầu ra nhưng khơng cịn xứng đáng nữa. Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đó là phương châm mở rộng dân chủ tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý nhà nước của
mình. Nhà nước phải thi hành các biện pháp kiên quyết để xóa bỏ tệ quan
liêu, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử phạm pháp, thực hiện dân chủ hóa
và bảo đảm cơng bằng xã hội.


9


- Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trị tích cực và sáng tạo, là cơng cụ
để xây dựng một xã hội nhân đạo, cơng bằng và bình đẳng
Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản sau khi trở thành giai cấp
thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, khơng có mục đích dùng nhà
nước đề duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới, xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp.
Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực giai cấp vô sản thực hiện
sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội để thiết lập những nguyên
tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân
dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Xuất phát từ mục đích và cách tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn
tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn phù hợp với các quy
luật vận động khách quan của xã hội, và vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ
ln giữ vai trị chủ động sáng tạo, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển cao thì tính chất xã hội của nó
càng mở rộng. Đến một giai đoạn nhất định của lịch sử, khi những điều kiện
xã hội đã thay đổi, cơ sở tồn tại của nhà nước khơng cịn nữa thì nhà nước xã
hội chủ nghĩa sẽ "tự tiêu vong", nhường chỗ cho sự phát triển của một tổ chức
tự quản mạnh mẽ, dựa hoàn toàn trên cơ sở của quyền lực nhân dân rộng rãi
và hòa nhập với xã hội.
1.4. Đặc trưng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền
lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính giai cấp,
nhưng vì lợi ích của tất cá những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân

10


dân; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc
trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chun chính vơ sản.
V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản khơng phải là bạo lực đối với bọn
bóc lột, và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ
chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nên dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là ngày
càng hồn thiện các hình thức đại diện của nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm
lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà
nước khơng cịn ngun nghĩa", là "nửa nhà nước". Sau khi những cơ sở kinh
tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng khơng cịn,
nhà nước "tự tiêu vong". Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vơ
sản.
Nhiệm vụ
Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh
vực bằng pháp luật.
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có
hiệu quả cơng việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng
những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự


11


nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước,
giữ vững an ninh xã hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực, trấn áp
cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều cho rằng, với bản chất của nhà nước vô
sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn
bản, chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của một cuộc
cách mạng xã hội do giai cấp cơng nhân lãnh đạo nhằm đi tới giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển toàn diện con người, C.Mác
và Ph.Ăngghen đều cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà
nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Trong giai đoạn tiếp theo, phải sử dụng
quyền lực nhà nước "để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất".
Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin
khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội
mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng
hơn cả việc đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ
chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế: cải thiện không
ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, quản lý văn hóa - xã hội,
xây dựng nên văn hóa xã hội chủ nghĩa. thực hiện giáo dục - đào tạo con
người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân... Ngồi ra, nhà nước
xã hội chủ nghĩa cịn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan


12


hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ
xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã làm rõ
nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước vơ sản
là phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản phẩm, cùng cố kỷ luật lao
động mới và nâng cao năng suất lao động.
Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây dựng được
quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được
đông đảo những người lao động có khả năng vận dụng những thành tựu của
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người
tiểu sản xuất hàng hóa thơng qua những tổ chức thích hợp.

1.5. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể
hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng
của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này,
chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của
quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng
thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.
Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà
nước bao giờ cũng là cơng cụ chun chính của một giai cấp nhất định. Mọi
nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp nào có thể có để
bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Cịn chức năng xã hội của nhà nước là
cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt
động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc
13



chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động
để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý
của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà
quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề
chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo
quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức
năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương
thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trị thống trị giai cấp của nó.
Nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở
khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị
chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó cịn thực hiện chức năng xã hội của
nó”(1).
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú
trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó.
Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản khơng phải chỉ là
bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ
bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ
chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Ơng viết: “Lần đầu tiên chun chính vơ sản, tức là thời kỳ quá độ
tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho
số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2).
Như vậy, có thể nói, bản thân chun chính vơ sản, theo quan điểm mácxít, tự
nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền
dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất - đó là nền dân chủ bao

14


quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được
nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở
rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự
phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn...”(3) đã
được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội khơng cịn các giai cấp đối kháng,
nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế
và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như
mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa
muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt
chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân
dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối
các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ
sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững
địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp
sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có
nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội ln có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện
giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của
mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; cịn chức
năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là
nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở

chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư
15


cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính
trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai
cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm
vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ
những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội.
Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được xác định là mục đích chứ khơng phải là phương tiện để nhà nước ấy
đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao
động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện
một cách thực sự trong thực tế.

16


CHƯƠNG II: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Một số thành tựu đạt được
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh
em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nơng thơn. Hiện nay, Việt Nam có 95%
người lớn biết đọc, biết viết. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là
so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những
chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển,

lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống
nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội
ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Những kết quả, thành
tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy
thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc
tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần
nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước
được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những
thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình
17


nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng
ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ
tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh tồn diện,
đồng bộ cơng cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới"

(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).
2.1.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng cịn
khơng ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới
trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền
vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh
nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước cịn hạn chế; mơi trường bị ô
nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường cịn nhiều bất cập.
Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình
tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm
sóc y tế và nhiều dịch vụ cơng ích khác cịn khơng ít hạn chế; văn hố, đạo
đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức
tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng chính trị
và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong
khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại ln tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống

18


phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" nhằm xóa bỏ
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Đường lối của Đảng về việc xây dựng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội
chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các
nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số
lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều

kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành
tựu, tích cực, sẽ ln có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một
cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất
gay go, gian khổ, địi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo
mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một q trình khơng ngừng
củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó
ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ
thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng
tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao;
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện
Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh
công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch
vụ cơng ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hố cho nhân dân. Tồn
Đảng, tồn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
19


suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa
các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách
mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hồn tồn khơng hề đơn giản, dễ dàng. Đây

là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự
giác, liên tục, hướng đích lâu dài, khơng thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc
xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải
phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân
dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối
của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng u cầu, nguyện vọng của mình.
Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của
đất nước và dân tộc mình, mà cịn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ
thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới tồn cầu hố như hiện nay, sự
phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc khơng thể biệt lập, đứng bên ngồi
những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó.
Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng
trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa
20


học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi
và thực hiện. Nó sẽ cịn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách
mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu,
bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành
tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta

luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của
thời đại, khơng rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống./.

21


PHẦN III: KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn,
phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự
nghiên cứu rất cơng phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc,
khoa học. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc
nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi:
Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Quá trình xây dựng Nhà nước Xã hội Chủ Nghãi Việt Nam đang phải
đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải ln
đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự
tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh
đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng u cầu, lợi ích của Nhân dân.
Do đó, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các
Cơ quan hành chính Nhà nước là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối
với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

22


23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1994), Triết học, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồng Văn Hảo (1999), "Tìm hiểu vai trị của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường", Luật học, (3), tr. 18-24.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 – 26

24



×