Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Quản lý di sản hán nôm ở việt nam qua nghiên cứu trường hợp tại viện nghiên cứu hán nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 123 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

LÊ PHƯƠNG NGA

QUẢN LÝ DI SẢN HÁN NÔM Ở VIỆT NAM( QUA NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM)

Chuyên ngành: QUẢN LÝ VĂN HÓA
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG
Hà Nội, 2014


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Cương. Những nội
dung trình bày trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tơi, đảm
bảo tính trung thực và chưa từng được ai công bố dưới bất cứ hình
thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của người khác
đều được trích dẫn rõ ràng. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước


nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn

Lê Phương Nga


3

MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI SẢN HÁN NÔM VÀ
TỔNG QUAN VỀ VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM ............................. 12
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di sản Hán Nôm ...................................... 12
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài ............................................. 12
1.1.2. Các yếu tố của công tác quản lý nhà nước .................................. 18
1.2. Tổng quan về Viện Nghiên cứu Hán Nơm..................................... 22
1.2.1. Khái qt về lịch ử hình thành và phát triển của Viện Nghiên cứu
Hán Nôm .............................................................................................. 22
1.2.2. Khái quát về di sản Hán Nôm ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm ...... 26
Tiểu kết ................................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI SẢN HÁN NÔM TẠI VIỆN
NGHIÊN CỨU HÁN NÔM ....................................................................... 36
2.1. Bộ máy tổ chức và nhân sự của Viện Nghiên cứu Hán Nôm......... 36
2.1.1. Bộ máy tổ chức ........................................................................... 36
2.1.2. Nhân sự ...................................................................................... 37
2.2. Công tác quản lý di sản Hán Nôm .................................................. 38
2.2.1. Ban hành các văn bản pháp quy .................................................. 39
2.2.2. Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện công tác quản lý di sản

Hán Nôm .............................................................................................. 42
2.3. Công tác khai thác giá trị di sản Hán Nôm .................................... 61
2.4. Đánh giá ........................................................................................... 66
2.4.1. Ưu điểm...................................................................................... 66
2.4.2. Hạn chế....................................................................................... 67
2.4.3. Nguyên nhân............................................................................... 68
Tiểu kết ................................................................................................... 69


4

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ DI SẢN HÁN NÔM Ở VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM ... 71
3.1. Định hướng về quản lý di sản Hán Nôm ........................................ 71
3.1.1. Định hướng chung ...................................................................... 71
3.1.2.Định hướng cụ thể (đối với Viện Nghiên cứu Hán Nôm) ............. 74
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Di sản Hán Nôm tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ............................................................................. 76
3.2.1. Ban hành các văn bản dưới luật về quản lý di sản Hán Nôm ....... 76
3.2.2. Đào tạo nguồn nhân lực .............................................................. 81
3.2.3. Xây dựng cơ chế quản lý ............................................................ 83
3.2.4. Hoàn thiện cơ quan quản lý di sản văn hóa ................................. 83
3.2.5. Đẩy mạnh cơng tác sưu tầm, bảo quản ........................................ 96
3.2.6. Xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của Di sản
Hán Nôm .............................................................................................. 99
3.2.7. Khai thác, phát huy giá trị ......................................................... 102
Tiểu kết ................................................................................................. 105
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 110
PHỤ LỤC.................................................................................................. 113



5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đang đứng trước nhiều
thách thức: phải làm thế nào để Việt Nam có thể hội nhập với thế giới nhưng
không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc? Điều trước tiên cần phải khẳng định
rằng căn cứ để chứng minh và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống
tư liệu gốc. Tư liệu gốc gồm có hai loại: tư liệu hiện vật và tư liệu chữ viết.
Tư liệu hiện vật là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành như: khảo cổ học,
bảo tàng học, kiến trúc học, mỹ thuật học,… nên được gọi là tư liệu văn vật;
còn tư liệu chữ viết là đối tượng của ngành văn bản học, văn tự học, ngữ văn
học,… còn được gọi là tư liệu văn hiến. Cả hai loại tư liệu này đều góp phần
cho nghiên cứu về văn hóa truyền thống của Việt Nam. Trong đó, tư liệu văn
vật trước nay được khai thác rất hiệu quả. Trong khi đó tư liệu văn hiến, đến
nay mới chỉ được khai thác một cách lẻ tẻ, chưa có hệ thống và chưa có một
chương trình mục tiêu cụ thể và dài hơi.
Tư liệu văn hiến là một nguồn tài sản vô giá để nghiên cứu về toàn bộ
đời sống xã hội của Việt Nam trong quá khứ. Tư liệu văn hiến có thể chia ra
làm nhiều loại hình khác nhau. Trên cơ sở ngơn ngữ văn tự (chữ viết) ở Việt
Nam thì tư liệu này được phân thành tư liệu chữ Hán (ghi tiếng Hán cổ đại và
tiếng Hán Trung đại), tư liệu chữ Nôm (ghi tiếng Việt tiền cổ - tiếng Việt cổ
và tiếng Việt trung - cận đại), tư liệu chữ Phạn (ghi tiếng Phạn), tư liệu chữ
Thái cổ (ghi tiếng Thái cổ), tư liệu chữ La Tinh cổ (ghi tiếng La tinh, chủ yếu
trong các văn bản của công giáo), tư liệu chữ Pháp, tư liệu chữ quốc ngữ cổ,
tư liệu chữ Khmer cổ, tư liệu chữ Champa cổ... Nếu nhìn từ góc độ dân tộc,
thì chúng ta sẽ có các tác phẩm chữ Hán của một số dân tộc ở phía Bắc- nơi
chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán như Việt, Mường, Tày, Nùng,



6

Dao… Cũng như vậy, các tư liệu chữ Nôm không chỉ dừng lại vỏn vẹn ở chữ
Nôm của người Việt mà cịn có Nơm Tày, Nơm Dao, Nơm Ngạn,… Trong
đó tài liệu chữ Hán cổ chiếm khối lượng lớn nhất, quãng 80%, sách chữ Nôm
của người Việt chiếm 15%. Các loại tư liệu văn hiến khác chiếm 5%.
Di sản Hán Nơm là kho văn hóa thành văn to lớn và phong phú nhất
của nước ta trước khi có các văn bản ghi bằng chữ La tinh. Chữ Hán và chữ
Nôm trở thành di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong đời sống xã hội Việt
Nam. Khi đóng vai trị là văn hóa vật thể, di sản Hán Nôm tồn tại trên nhiều
chất liệu như đá, gỗ, giấy, vải, gốm, sứ…hiện hữu trong các di tích ở khắp
vùng miền trên đất nước chúng ta và nó cũng chính là ngôn ngữ phô trần trên
những chất liệu và không gian đặc biệt nhằm điểm xuyết cho tác phẩm nghệ
thuật mang tính thẩm mỹ cao.
Di sản Hán Nơm đóng vai trị quan trọng trong q trình hình thành,
phát triển và bảo lưu văn hóa Việt, đồng thời thúc đẩy quá trình thuần thục
văn hóa trong sự biến chuyển nhận thức xã hội qua từng giai đoạn lịch sử.
Trong quá trình đó, kho tàng thư tịch và sử liệu Hán Nơm đóng vai trị khơng
nhỏ trong việc bảo lưu và truyền bá nền văn hóa dân tộc. Do đó, nghiên cứu
văn hóa dân tộc Việt Nam khơng thể khơng bàn luận đến các tư liệu Hán
Nơm. Có thể thấy, việc bảo vệ, lưu giữ, tôn vinh và truyền bá các tư liệu Hán
Nơm sẽ góp phần khơng nhỏ vào q trình bảo tồn di sản văn hóa dân tộc và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo đúng
Nghị quyết TW5 (khóa VIII) của Đảng.
Nhận thức được vai trò quan trọng của di sản văn hóa đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội cũng như gìn giữ bản sắc dân tộc trong q trình hội nhập,
từ khi bắt đầu cơng cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, biện pháp và kế hoạch cụ thể để bảo tồn, phát huy giá trị;



7

công tác quản lý di sản cũng được quan tâm hơn và có những biến chuyển đáng
kể theo hướng tích cực. Tuy nhiên, với tư cách là một bộ phận của di sản văn
hóa dân tộc, nhưng di sản Hán Nơm cịn chưa thực sự được đánh giá đúng giá
trị, trong cơng tác quản lý cũng cịn thể hiện nhiều sự bất cập như còn thiếu
định hướng và kế hoạch cụ thể cho việc quản lý loại hình di sản này.
Hướng tới mục tiêu đánh giá một cách khách quan về thực trạng quản
lý nhà nước đối với di sản Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và đưa ra
một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa này trong
thời kỳ hội nhập vì vậy tơi chọn đề tài “Quản lý di sản Hán Nôm ở Việt Nam
(Qua nghiên cứu trường hợp tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm )” làm đề tài luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Văn hóa của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý di sản văn hóa là sự định hướng tạo điều kiện tổ chức, điều hành
việc bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa làm cho các giá trị của di sản phát huy
theo chiều hướng tích cực. Việt Nam là một quốc gia văn hiến lâu đời, trong quá
trình dựng nước và giữ nước, các thế hệ tiền bối đã để lại cho chúng ta kho tàng
di sản văn hóa vơ cùng quý giá. Kho tàng di sản văn hóa đó được vật chất hóa,
cơ đọng lại ở các di tích lịch sử văn hóa với nhiều giá trị. Việc giữ gìn giá trị của
các di sản văn hóa truyền lại cho muôn đời sau là việc làm cần thiết. Để bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao
của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp và kho tàng di sản văn hóa thế giới. Nhằm
nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc cùng tham gia bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc, thì cần phải tăng cường hiệu quả của công
tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Để hiện thực hóa được việc này, Nhà
nước ta đã xây dựng và ban hành ngày một hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về

lĩnh vực văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng.


8

Di sản Hán Nôm là một bộ phận quan trọng trong hệ thống di sản văn
hóa quý giá của dân tộc Việt Nam và nhân loại. Tài liệu Hán Nôm là mối dây
liên kết không chỉ thắt chặt mối quan hệ giữa q khứ và hiện tại, mà cịn gìn
giữ cho thế hệ tương lai một chiều dài lịch sử đậm đà bản sắc dân tộc. Những
năm qua đã có nhiều tài liệu về công tác quản lý di sản văn hóa, trong đó có
nhắc đến một phần nhỏ cơng tác quản lý di sản Hán Nôm như: Nguyễn Quốc
Hùng (2006), Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa - thiên nhiên thế
giới phục vụ phát triển ở nước ta, Di sản văn hóa; Nguyễn Quốc Hùng
(2007), Một vài biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản làng truyền
thống đồng bằng Bắc Bộ, Di sản văn hóa; Nguyễn Quốc Hùng (2001),
UNESCO và những giải pháp bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, Nghiên cứu
Đông Nam Á; Nguyễn Thế Hùng (2007), Phát huy giá trị di tích phục vụ sự
nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Di sản văn hóa; Phạm Quang
Nghị (2000), Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Vi Hồng Nhân (2006), Bảo tồn, phát huy lễ hội dân gian là
góp phần bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc, Văn hóa các dân tộc; Nguyễn
Hữu Thức, Phan Ngọc & Đỗ Minh Thuý (2004), Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc thành tựu và kinh
nghiệm, Nxb VHTT, Hà Nội; Nguyễn Hữu Tồn (2007), Di sản văn hóa Một nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội, Di sản văn hóa; Viện
nghiên cứu Hán Nơm (2000), Chương trình, mục tiêu quốc gia bảo tồn các di
sản văn hoá tiêu biểu và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Cho đến thời điểm hiện nay, quản lý và nghiên cứu tư liệu Hán Nơm từ
góc độ văn hóa là một hướng nghiên cứu khơng phải là mới, nhưng gần như
bị bỏ quãng do hủy bỏ chữ viết tạo nên đứt gãy văn hóa.

Thực ra, để có thể khẳng định rõ hơn tầm quan trọng và ý nghĩa của hệ


9

thống di sản Hán Nơm thì thế hệ đầu tiên trong nghiên cứu văn hóa Việt Nam
- những người “đặt gạch” cho chuyên ngành này ở Việt Nam lại chính là
những học giả khai thác một cách có hiệu quả nhất những tư liệu Hán Nôm
đối với nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước tiên phải kể đến những
cơng trình của Nguyễn Văn Hun, của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn,
Phạm Trọng Điểm,…Tuy vậy, những bài viết chuyên về công tác quản lý di
sản Hán Nôm hiện nay cịn q ít, khiến cho giá trị và vai trị thực sự của kho
di sản này chưa được coi trọng đúng mức. Vì thế mà việc tổ chức các hoạt
động sưu tầm, nghiên cứu, bảo quản, phát huy, khai thác giá trị của di sản
Hán Nôm chưa cao, chưa thực sự hiệu quả.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như trên của tư liệu Hán Nôm, nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, tập trung
về công tác quản lý nhà nước đối với di sản Hán Nơm. Chủ yếu các cơng
trình, đề tài có liên quan chỉ mới đề cập tới quản lý nhà nước đối với di sản
văn hóa một cách khái lược hoặc chỉ đề cập tới một phần rất nhỏ đối với công
tác quản lý di sản Hán Nôm mà thơi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý di sản Hán Nôm và tổng quan về di sản
Hán Nôm ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm khảo sát thực trạng và đánh giá hiệu
quả công tác quản lý nhà nước đối với loại hình di sản Hán Nơm tại Viện
Nghiên cứu Hán Nơm, từ đó luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý di sản Hán Nôm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm

vụ cơ bản sau:


10

Một là: Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý di sản Hán Nôm và tổng quan
về Viện Nghiên cứu Hán Nơm.
Hai là: Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý di sản Hán
Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Ba là: Đề xuất một số định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với di sản Hán Nôm hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý di sản Hán
Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu nghiên cứu hoạt động quản lý này tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm nhằm làm rõ hơn những điểm mạnh và hạn chế trong thời gian
từ năm 2010 đến 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp từ sách báo, tạp chí, báo cáo, hội
thảo, tổng hợp văn bản.
- Phương pháp khảo sát thực tế.
- Phương pháp phỏng vấn các nhà quản lý thuộc lĩnh vực di sản văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn bản học, quản lý văn hóa,
xã hội học, lịch sử, bảo tàng...
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là một cơng trình nghiên cứu có hệ thống về quản lý nhà
nước đối với di sản Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm trên cơ sở khoa



11

học và thực tiễn tìm ra các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với di
sản Hán Nôm trong thời kỳ hội nhập.
- Dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác quản lý di sản Hán Nôm
và đề xuất một mơ hình cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với di
sản Hán Nôm ở Việt Nam nói chung và ở Viện Nghiên cứu Hán Nơm nói
riêng nhằm tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và hiệu quả của công tác
chuyên môn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được chia thành 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý di sản Hán Nôm và Tổng quan
về Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Chương 2: Thực trạng quản lý di sản Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm
Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý di sản
Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm


12

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI SẢN HÁN NÔM
VÀ TỔNG QUAN VỀ VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di sản Hán Nôm
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm quản lý di sản văn hóa
Khái niệm quản lý

“Trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện một dạng lao động mang
tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các hoạt động theo những
yêu cầu nhất định, dạng lao động đó được gọi là quản lý” [51, tr.5].
Có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ quản lý. Có người cho
quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hồn thành cơng việc thơng qua sự nỗ
lực của người khác. Cũng có người cho quản lý là một hoạt động thiết yếu
nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của
nhóm. Có tác giả lại quan niệm một cách đơn giản hơn, coi quản lý là sự có
trách nhiệm về một cái gì đó,…
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động
của xã hội. Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực
hiện những mục tiêu mà họ khơng thể đạt được với tư cách là
những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý cũng hình thành như
một yếu tố cần thiết để phối hợp với những nỗ lực cá nhân hướng
tới những mục tiêu chung [21, tr.18].
Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất từ cộng sản nguyên
thủy cho đến nền văn minh hiện đại, trong đó quản lý ln là một thuộc tính
tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với xã hội mọi giai đoạn phát triển của nó.


13

Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội, đó là hoạt động tập
thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao động con người buộc
phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều đó đỏi hỏi phải có sự
tổ chức, phải có sự phân cơng và hợp tác trong lao động, phải có sự quản lý.
Nếu xét quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa: Quản lý là
sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản
lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý văn hóa và quản lý di sản văn hóa:

Di sản văn hố và thiên nhiên là những tài sản có giá trị vật chất và tinh
thần do con người, thiên nhiên tạo ra chứa đựng các giá trị về lịch sử, văn
hoá, khoa học và thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc.
Di sản văn hoá tồn tại dưới dạng vật thể và phi vật thể. Di sản vật
thể gồm di tích, di vật và mơi trường cảnh quan xung quanh di tích
đó. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu
truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
lưu giữ lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian,
lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ cơng truyền thống, tri
thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục
truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác [40, tr.2-3].
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị, vị trí rất
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chính vì vậy cần được bảo tồn và phát huy.
Quản lý văn hóa là q trình xây dựng đường lối, chính sách và tỏ
chức hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của văn hóa Việt


14

Nam đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu cho văn
hóa dân tộc.
Quản lý di sản văn hóa là q trình theo dõi định hướng và điều tiết quá
trình tồn tại và phát triển các di sản văn hóa trên một địa bàn cụ thể nhằm bảo
tồn và phát huy tốt nhất các giá trị của chúng. Đây là lợi ích to lớn nhiều mặt,
lâu dài trong cộng đồng dân cư, chủ nhân của các di sản đó [21,tr 22].
Xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tế, cơng tác quản lý di sản văn

hóa ở Việt Nam cần đảm bảo 5 nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Phải có trọng tâm, trọng điểm.
- Không phá vỡ không gian, không làm biến đổi cảnh quan thiên tạo,
nhân tạo vốn có.
- Bảo vệ mơi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn.
- Khai thác phải luôn đi đôi với công tác bảo tồn.
- Xuất phát từ thực tế, bám sát thực tế.
Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất bao trùm lên mọi mặt hoạt
động của công tác quản lý di sản văn hóa. Thực tế ln biến đổi và phát triển
khơng ngừng, điều đó khiến cho cơng tác quản lý cũng phải linh hoạt, phù
hợp với tình hình thực tế. Trong quản lý di sản, việc bám sát thực tế vận động
và phát triển chính là những động thái tích cực đem sự sống cho di sản, “thổi
hồn vào di sản: chứ không tách rời di sản khỏi cuộc sống vốn có của nó.
Nguyên tắc bám sát thực tế, xuất phát từ thực tế, nhưng luôn phải vượt
lên trên, mở đường, định hướng cho thực tế phát triển đúng hướng chứ
không chạy theo sự biến đổi của thực tế một cách thụ động. Có thể khẳng
định rằng: cơng tác quản lý di sản văn hóa vừa là khoa học vừa là một hoạt
động nghệ thuật.


15

1.1.1.2. Khái niệm quản lý di sản Hán Nôm
Di sản Hán Nơm là một trong những di sản văn hóa, gồm những thư
tịch và liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nơm, là kho văn hố thành
văn to lớn và phong phú nhất của nước ta trước khi có các văn bản
ghi bằng chữ La-tinh. Bảo tồn lâu dài và khai thác có hiệu quả kho
di sản văn hố này là để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong
thời đại ngày nay [55, tr.10].

Do tính chất đặc thù của loại hình di sản này, thì di sản Hán Nơm vừa
là di sản văn hóa vật thể, vừa là di sản văn hóa phi vật thể, trong đó:
Các tư liệu Hán Nơm được khắc trên bia đá, chuông, khánh đồng, lá
cọ… được gọi là di sản văn hóa vật thể vì:
Di sản văn hóa vật thể được hiểu là những sản phẩm có thể sờ thấy
được Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu
dưới dạng vật thể có hình, có khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng
lượng, đường nét, màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và
thời gian xác định. Di sản văn hóa vật thể được tạo ra từ bàn tay
khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. Văn hóa vật thể
được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngồi bản thân con
người. Di sản văn hóa vật thể luôn chịu sự thách thức của quy luật
bảo mòn của thời gian trong sự tác động của con người thời đại sau.
Di sản văn hóa vật thể ln đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc
thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc. Hiện nay, vấn đề bảo tồn
những di sản văn hóa vật thể lâu đời địi hỏi cơng nghệ kỹ thuật cao
mới có thể phục ngun lại như cũ [40, tr.2].
Ý nghĩa, nội dung bao hàm trong các tư liệu Hán Nôm được gọi là di
sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể là dạng thức tồn tại của


16

văn hóa khơng phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối trong khơng gian
và thời gian mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi
ứng xử của con người và thơng qua các hoạt động sống của con người trong
sản xuất, giao tiếp xã hội mà thể hiện ra. Từ đó người ta có thể nhận biệt được
sự tồn tại của văn hóa phi vật thể. Đặc trưng rõ nhất của văn hóa phi vật thể
chỉ bộc lộ ra qua các hành vi và hoạt động của con người. Văn hóa phi vật thể
được lưu giữ trong thế giới tinh thần của con người và thơng qua các hình thức

diễn xướng, nó được bộc lộ sinh động trong tư cách một hiện tượng văn hóa.
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức
thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là các công cụ,
đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các
cộng đồng, các nhóm và một số trường hợ là các cá nhân, cơng
nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế
hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng
đồng và nhóm khơng ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và
mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ,
đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục,
qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và
tính sáng tạo của con người [40, tr.2].
Cũng giống như di sản văn hóa vật thể, các hiện tượng văn hóa phi vật
thể cũng có thể bị mai một, biến dạng, hoặc mất đi vĩnh viến bởi thử thách
của thời gian, bởi sự vô ý thức của con người. Trong thực tế, người ta thường
có xu hướng thêm bớt hoặc lãng quên trong quá trình lưu giữ những giá trị
phi vật thể. Cho nên, văn hóa phi vật thể vừa có tính bền vững lại vừa mang
tính mong manh, dễ bị tổn thương. Hơn nữa, văn hóa phi vật thể cịn có nguy
cơ biến dạng rất cao bởi tính dị bản của nó do sự can thiệp của các nhóm xã
hội qua các thời đại.


17

Trên cơ sở đồng thuận với quan niệm của UNESCO, Luật di sản văn
hóa được phân loại như sau:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu
truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ,
lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học,

nghệ thuật khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian,
lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống,
tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục
truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa
vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia [36, tr.9].
Giá trị đặc biệt của bảo vật quốc gia được thể hiện bằng các tiêu chí sau:
- Là vật chứng của một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự
nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất.
- Là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng - nhân văn, giá trị
thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong
cách, một thời đại.
- Là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn
cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Được Thủ tướng chính phủ quyết định cơng nhận sau khi có ý kiến
thẩm định của Hội đồng di sản văn hóa Quốc gia.
Như vậy, Di sản văn hóa phi vật thể ln sống trong tâm trí con người,
được con người nắm giữ các tri thức về nó để trình diễn các kỹ năng
thực hành biểu hiện giá trị của nó. Di sản văn hóa phi vật thể ln đồng
hành cùng con người, gắn với ký ức của con người theo dòng lịch sử.


18

Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại trong tri giác, được nhận biết thông
qua các giác quan của con người, trong sự thừa nhận của một cộng
đồng xã hội kéo dài theo thời gian lịch sử xã hội [40, tr.3].
Vì di sản Hán Nơm cũng chính là một phần của di sản văn hóa, nên
trong q trình triển khai đề tài, học viên đã dựa vào các nội dung quản lý nhà

nước về di sản văn hóa được quy định trong Luật Di sản văn hóa để làm căn
cứ và mở rộng hơn đối với các loại hình di sản văn hóa, di tích gắn liền di sản
Hán Nôm.
1.1.2. Các yếu tố của công tác quản lý nhà nước
1.1.2.1. Chủ thể, khách thể quản lý
* Chủ thể quản lý: Là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể
luôn là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý
bằng các cơng cụ với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc
nhất đnh. Đối tượng quản lý tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản
lý. Tùy theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia ra thành các dạng
quản lý khác nhau. Đối với công tác quản lý di sản Hán Nôm ở Viện nghiên
cứu Hán Nơm thì chủ thể quản lý ở đây chính là các nhà lãnh đạo, cán bộ
quản lý của Viện, của đơn vị chủ quản.
* Khách thể quản lý: Chịu sự tác động hay sự điều chỉnh của chủ thể
quản lý, đó là hành vi của con người, các quá trình xã hội. Là cán bộ nghiên
cứu, những người trực tiếp tham gia vào công tác sưu tầm, thu thập, thống kê,
khai thác tư liệu Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
1.1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước
Nội dung của quản lý nhà nước về di sản văn hóa được quy định tại
điều 54 của luật Di sản văn hóa bao gồm:


19

1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển sự nghiệp và phát huy giá trị di sản văn hóa;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về di sản văn hóa;
3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa;

4. Tổ chức, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa;
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa;
6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa;
7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa;
8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa [40, tr.3-5].
Điều 55 quy định:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
2. Bộ Văn hóa - Thơng tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm
quản lý nhà nước về di sản văn hóa theo phân cơng của Chính phủ.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hóa - Thơng tin để
thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.


20

4. Ủy ban Nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của
mình thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo
phân cấp của Chính phủ.
Nguồn lực cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
được huy động từ: Ngân sách nhà nước; Các khoản thu từ hoạt động sử dụng
và phát huy giá trị di sản văn hóa; Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài.

Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho các hoạt động bảo vệ và phát
huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia, bảo vật quốc gia, di
tích lịch sử cách mạng và di sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu.
1.1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước
Là cái đích phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý
định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các động tác cũng như lựa
chọn các phương pháp quản lý thích hợp. Quản lý ra đời chính là nhằm đến hiệu
quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc. Ở đây mục tiêu quản lý đối
với di sản Hán Nơm là nhằm bảo tồn và gìn giữ di sản văn hóa trên lĩnh vực văn
tự Hán Nơm để từ đó phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Việt Nam.
1.1.2.4. Phương thức quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa được tiến hành bằng các phương
thức sau:
1. Ban hành văn bản dưới luật để tạo hành lang cho quản lý
Di sản Hán Nôm là một phần của di sản văn hóa Việt Nam. Trong
những năm qua, cơng tác quản lý di sản nói chung và cơng tác quản lý di sản
Hán Nơm nói riêng cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên,


21

trong thời gian gần đây, công tác quản lý loại hình di sản này đã ngày càng
thể hiện sự thiếu đồng bộ từ địa phương đến trung ương khiến cho hiệu quả
quản lý chưa đạt được kết quả như mong muốn; cơng tác thu thập, giữ gìn,
bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm chưa được đẩy mạnh. Để tăng cường
công tác quản lý và nâng cao chất lượng các hoạt động bảo quản, phục chế di
sản văn hóa, thì cần có các văn bản dưới luật như: các chỉ thị đối với Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh thành; Các cơ quan, đơn vị chức năng có
liên quan.

2. Xây dựng chính sách và chỉ đạo thực hiện chiến lược bảo tồn di sản
văn hóa.
Nhà nước cần sớm nghiên cứu và ban hành một cơ chế tổng hợp, có
hiệu quả nhằm khai thác, bảo quản, phục chế tốt hơn loại hình di sản Hán
Nơm như: cơ chế phân công, phân cấp quản lý; cơ chế định mứ và các quy
chuẩn về bảo vệ di sản; cơ chế chính sách thu hút nhân tài, các nhà nghiên
cứu, các chuyên gia khoa học trong và ngoài nước đến làm việc và đóng góp
cho cơng cuộc bảo tồn di sản văn hóa nói chung và di sản Hán Nơm nói riêng.
3. Tổ chức hoạt động tuyên truyền, giáp dục pháp luật về di sản văn hóa
Trước yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ mới, từ
năm 2005, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 23-11 hàng năm là Ngày Di sản
Văn hóa Việt Nam nhằm “phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của
những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam”.
Việt Nam được thế giới biết đến như một quốc gia Di sản với nhiều di
sản vật thể, phi vật thể được UNESCO cơng nhận. Cùng đó, chúng ta có
nhiều Di sản cấp quốc gia, nhiều hơn nữa Di sản cấp tỉnh/thành phố kể cả
những di sản chưa được công nhận nhưng đã khẳng định được sức sống trong
cộng đồng.


22

Khơng chỉ có những di sản văn hóa đã được thế giới cơng nhận mà hiện
nay Việt Nam có hơn 4 vạn di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Những di tích lịch sử - văn hóa có giá trị lớn thể hiện vai trị vơ cùng quan
trọng của tư liệu Hán Nôm phải kể đến như: Mộc bản Triều Nguyễn, Bia Tiến
sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Mộc bản Kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc
Giang)...đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới.
Nói tóm lại, những di sản văn hóa khơng chỉ là viên ngọc quý của dân
tộc mà còn là tài sản chung của nhân loại. Những vẻ đẹp của các di sản không

thể lâu bền và vĩnh cửu. Chúng ta cần có những phương thức quản lý phù hợp,
hiệu quả và thiết thực để không chỉ riêng đối với các di sản được vinh danh mà
còn tất cả các di sản trên tồn quốc - những di sản vơ giá của Việt Nam trường
tồn cùng thời gian và có thật nhiều di sản Việt Nam nối dài danh sách di sản văn
hóa thế giới và hơn hết là khẳng định sức sống trong cộng đồng.
1.2. Tổng quan về Viện Nghiên cứu Hán Nơm
1.2.1. Khái qt về lịch sử hình thành và phát triển của Viện Nghiên
cứu Hán Nôm
1.2.1.1. Lịch sử hình thành
Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ thực tế, năm 1970 Ban Hán Nôm
thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam) được thành lập. Ban đã quy tụ nhiều nhà hoạt
động cách mạng lão thành và có kiến thức Hán Nôm uyên bác, như:
Phạm Thiều, Thạch Can, Cao Xuân Huy, Hoa Bằng, Đào Phương
Bình, Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Đổng Chi, v.v., cùng các cộng tác viên
như Trần Duy Vôn, Lê Duy Chưởng, Nguyễn Hữu Chế, Nguyễn
Văn Lãng, Lê Xuân Hoà, v.v.. Ban đã tổ chức nghiên cứu và phiên
dịch các tài liệu Hán Nôm trong 9 năm (1970 - 1979) [55, tr.5].


23

Ngày 13 tháng 9 năm 1979, Viện Nghiên cứu Hán Nôm được thành lập
trên cơ sở Ban Hán Nôm, theo quyết định số 326/CP của Hội đồng Chính phủ và
được tái khẳng định thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia
trong Nghị định số 23/CP ngày 22 tháng 5 năm1993 của Chính phủ. Đây là một
cơ quan duy nhất ở Việt Nam vừa là Trung tâm bảo tồn các nguyên bản chữ Hán
và chữ Nôm, vừa là Trung tâm khai thác các tư liệu chữ Hán và chữ Nôm.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một tổ chức thuộc thuộc Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam là nơi bảo quản, lưu trữ và nghiên

cứu các di sản Hán Nôm gồm những thư tịch và tư liệu Hán Nôm.
Tiền thân của Viện Nghiên cứu Hán Nôm là Ban Hán Nôm thuộc Ủy
ban khoa học xã hội Việt Nam theo Quyết định số 46/QĐ ngày
11/3/1970 do Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Khánh Tồn ký. Sau đó Ban
Hán Nôm chuyển thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Ủy ban
khoa học xã hội Việt Nam theo Quyết định 326/CP ngày 13/9/1979
do phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị ký và Viện Nghiên cứu Hán Nôm
được tái khẳng định thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
Quốc gia theo Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 do Thủ tướng Võ
Văn Kiệt ký [55, tr.20].
Hiện nay, đây là một cơ quan duy nhất ở Việt Nam vừa là Trung tâm
bảo tồn các nguyên bản chữ Hán và chữ Nôm, vừa là Trung tâm khai thác các
tư liệu chữ Hán và chữ Nôm.
Dưới sự lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của các thế hệ lãnh đạo Viện, thì quá
trình phát triển của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được đánh dấu bằng những
thành tích đáng kể hồn thành nhiệm vụ được giao.
1.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ.
Ngày 3 tháng 2 năm 1988, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay
là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã có quyết định số


24

63/KHXH-QĐ về chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện
Nghiên cứu Hán Nơm. Trong đó tại Điều 2 của quyết định này đã
quy định rõ chức năng của Viện, còn tại Điều 3 là quy định cụ thể về
các nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm [55, tr.26].
Viện có hai chức năng cơ bản:
1. Thống nhất quản lý, giữ gìn các văn bản và tư liệu chữ Hán, chữ
Nôm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

2. Nghiên cứu, khai thác kho tàng di sản thành văn đó.
Nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Hán Nơm:
Xuất phát từ chức năng và yêu cầu Bảo tồn lâu dài và khai thác có hiệu
quả kho di sản Hán Nơm để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại ngày nay thì
Viện nghiên cứu Hán Nôm đã được thành lập với các nhiệm vụ chính, cụ thể:
1. Về bảo tồn, nghiên cứu khai thác các tư liệu Hán Nôm và đào tạo cán
bộ nghiên cứu Hán Nôm được xác định:
- Bảo tồn và giám định các nguyên bản chữ Hán chữ Nôm, sao các bản
gốc thành nhiều bản để sử dụng hoặc cung cấp cho các thư viện và các cơ
quan có nhu cầu;
- Tổ chức biên dịch (gồm cả chú giải) và chính thức cơng bố các tư liệu
chữ Hán chữ Nơm, duyệt lại các bản dịch Hán Nôm đã được công bố;
- Nghiên cứu văn bản học, biên soạn những sách công cụ cần thiết cho
công tác biên dịch và nghiên cứu tư liệu chữ Hán chữ Nôm;
- Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu chữ Hán, chữ Nôm.
2. Về công tác sưu tầm và bảo quản tư liệu chữ Hán và chữ Nôm, Viện
được Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam giao các nhiệm vụ cụ thể sau đây:


25

- Tiến hành điều tra, thu thập các văn bản Hán Nôm và các tư liệu liên
quan ở Việt Nam và ở nước ngoài, nhằm thống nhất quản lý thư tịch và tài
liệu Hán Nôm trong phạm vi cả nước.
- Hệ thống hố và gìn giữ các văn bản chữ Hán, chữ Nơm và các tư liệu
liên quan hiện cịn và sưu tầm được, đảm bảo kỹ thuật bảo tàng và kỹ thuật
thư viện, nhằm lưu giữ và cho nhân bản để phục vụ cho công tác nghiên cứu
trước mắt và lâu dài.
3. Về công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm, Viện được giao

nhiện vụ đào tạo nghiên cứu sinh và cao học trong nước:
- Năm 1993, Viện được giao nhiệm vụ là cơ sở đào tạo nghiên cứu
sinh, chuyên ngành Hán Nôm theo quyết định số 1511/QĐ-SĐH ngày 16
tháng 7 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Năm 1994, Viện được giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ, chuyên ngành
Hán Nôm theo quyết định số 3853/GD-ĐT ngày 13 tháng 12 năm 1994 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo.
Trong những năm qua, với sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ,
công nhân viên của Viện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã triển khai hoạt động
trên các mặt công tác và thu được những thành tựu nhất định, đáp ứng những
yêu cầu mà Nhà nước giao cho.
1.2.1.3. Cơ cấu tổ chức, hoạt động.
Theo quyết định số 63/KHXH-QĐ ngày 3 tháng 2 năm 1988 của Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam về chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ
chức của Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
Tại Điều 4 quy định Lãnh đạo Viện có một Viện trưởng. Giúp việc
cho Viện trưởng có từ một đến hai Phó viện trưởng. Viện trưởng,
Phó viện trưởng do Chủ nhiệm ủy ban ra quyết định bổ nhiệm theo
đúng quy chế, thủ tục phân cấp cán bộ.


×