Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quản lý hoạt động dich vụ karaoke trên địa bàn thị xã cửa lò tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.75 MB, 84 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ KARAOKE TRÊN ĐỊA
BÀN THỊ XÃ CỬA LỊ, TỈNH NGHỆ AN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Phan Văn Tú
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Lành

Lớp

: QLVH 10A

Hà Nội – 2013

1


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm
ơn sâu sắc đến thầy Phan Văn Tú đã giúp đỡ, hướng dẫn tận tình, chu đáo
trong suốt q trình viết khóa luận.
Qua đây, tơi xin gửi lời cảm ơn các cô, chú công tác tại Phịng Văn hóa
– thơng tin, Phịng thống kê Cửa Lị đã cung cấp những tài liệu q giá giúp
tơi hồn thành bài khóa luận này. Tuy nhiên do cịn hạn chế về kiến thức và


trình độ chun mơn nên chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót. Rất mong
được các thầy cơ đóng góp ý kiến cho tơi để bài khóa luận được hồn thiện
hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Nguyễn Thị Lành

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Nếu có gì sai
trái tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Sinh viên

Nguyễn Thị Lành

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
VĂN HÓA VÀ DỊCH VỤ KARAOKE ....................................................... 9
1.1 Khái niệm quản lý .................................................................................... 9

1.2 Quản lý hoạt động văn hóa ..................................................................... 10
1.2.1 Khái niệm quản lý hoạt động văn hóa .................................................. 10
1.2.2 Tính ngun tắc trong quản lý hoạt động văn hóa................................ 12
1.3 Quản lý hoạt động karaoke. .................................................................... 20
1.3.1 Hoạt động karaoke một sinh hoạt văn hóa hiện đại. ............................ 20
1.3.2 Chính sách của Nhà nước đối với việc quản lý hoạt động Karaoke .........
..................................................................................................................... 22
Chƣơng 2: THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
KARAOKE TẠI THỊ XÃ CỬA LÒ, TỈNH NGHỆ AN. .......................... 26
2.1. Tổng quan đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ
An ................................................................................................................ 26
2.1.1 Vị trí địa lý và đặc điểm dân cư. .......................................................... 26
2.1.2 Kinh tế nghề nghiệp và cơ sở hạ tầng .................................................. 28
2.1.3 Đời sống văn hóa – xã hội. .................................................................. 30
2.2 Thực tiễn công tác quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở thị xã
Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. ................................................................................. 34
2.2.1 Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Phịng văn hóa thơng tin thị xã
Cửa Lị. ........................................................................................................ 34

4


2.2.2 Thực tiễn hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke................................. 37
2.2.3 Thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh karaoke ................................. 43
2.3 Đánh giá công tác quản lý hoạt động dịch vụ karaoke đối vơi việc phát
triển du lịch tại địa bàn thị xã Cửa Lò........................................................... 49
Chƣơng 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
KARAOKE TẠI ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LỊ ......................................... 51
3.1 Tiêu chuẩn hóa cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và đội ngũ nhân viên
phục vụ ........................................................................................................ 51

3.1.1 Tiêu chuẩn hóa phịng karaoke. ........................................................... 51
3.1.2 Tiêu chuẩn hóa về âm thanh trong phịng Karaoke .............................. 52
3.1.3 Tiêu chuẩn hóa đội ngũ nhân viên phục vụ .......................................... 52
3.2 Thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy và thủ tục cấp giấy phép. ......... 53
3.3 Tăng cường và nâng cao hiệu quả trong công tác thanh, kiểm tra hoạt
động kinh doanh karaoke. ............................................................................ 58
3.4 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức
về hoạt động karaoke.................................................................................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 64
PHỤ LỤC

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII)
đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc coi trọng chính sách đầu tư
văn hóa, đầu tư cho con người; khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân
tham gia sáng tạo văn hóa, hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn là thể
hiện vai trò của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện
nay.
Từ khi có Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997, Nghị định 73/1999/NĐ-CP
ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao đã mở đường cho cơ hội
phát huy nguồn nội lực trong nhân dân cùng tham gia phát triển văn hóa theo
mơ hình xã hội hóa.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa đó, thị xã Cửa Lị đã có bước phát triển
rõ rệt của khu vực ngồi công lập; bước đầu huy động được tiềm năng và
nguồn lực xã hội; mở rộng quy mơ, đa dạng hóa các loại hình, tăng cường cơ
sở vật chất, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Nghị định 73/1999/NĐCP ra đời đã tạo ra hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh với nhiều ưu đãi ở mức
cao, nên đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Riêng tại
thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, đã nhanh chóng phát triển nhiều mơ hình hoạt
động văn hóa như: Các câu lạc bộ, đội nhóm văn hóa văn nghệ... do tư nhân
bỏ vốn đầu tư; hoạt động vũ trường; cửa hàng kinh doanh băng đĩa hình,
nhạc; tụ điểm hát cho nhau nghe; sân khấu ca nhạc ngoài trời; tụ điểm vui
chơi giải trí dành cho thiếu nhi; siêu thị sách... Đặc biệt, loại hình kinh doanh
karaoke phát triển khá mạnh do các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở đầu tư ở
mức độ vừa và nhỏ; đã góp phần làm phong phú, đa dạng hơn hoạt động văn
hóa; thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng đến tham gia sinh hoạt vui chơi
trong thời gian rỗi.
Những năm đầu triển khai, một mặt đã phát huy được tính tích cực, góp
phần khơng nhỏ cùng các thiết chế văn hóa của Nhà nước (Nhà văn hóa, câu

6


lạc bộ, thư viện, bảo tàng…) nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho
nhân dân, được sự đồng tình của xã hội; khẳng định chủ trương của Đảng và
Nhà nước là đúng đắn. Mặt khác, những năm gần đây, cùng với quá trình hội
nhập, một bộ phận các chủ cơ sở karaoke vì “hám lợi” đã cạnh tranh không
lành mạnh, đưa “chiêu bài” sử dụng tiếp viên nữ với nhiều phương thức “câu
khách” làm cho hoạt động karaoke biến dạng một cách rõ nét. Các ngành
nghề dịch vụ thương mại nhạy cảm khác như: nhà hàng, quán ăn, cà phê, quán
bia rượu…len lỏi, hoạt động song hành với karaoke; từ đó đã xuất hiện nhiều
tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và thuần
phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, gây nhiều dư luận xã hội và báo chí đã

lên tiếng cảnh báo; làm đau đầu các cơ quan quản lý trên lĩnh vực hoạt động
này. Hơn nữa, do chưa có một kế hoạch cụ thể để định hướng cho việc phát
triển, tạo điều kiện cho công tác quản lý nên các điểm kinh doanh phát triển
một cách tự phát, hoạt động lộn xộn và phân bổ rải rác gây khó khăn trong
cơng tác quản lý. Một số phường, xã tập trung có nhiều điểm hoạt động
nhưng khơng có đủ khả năng quản lý, bên cạnh đó nhiều cơ sở vẫn tồn tại
những biểu hiện tiêu cực đã làm ảnh hưởng đến mơi trường văn hóa tác động
xấu đến đạo đức, lối sống của toàn xã hội.
Là một sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa, sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất thị xã Cửa Lò đầy tiềm năng du lịch. Trước báo động thực trạng
hoạt động karaoke luôn diễn biến phức tạp. Tôi quyết định chọn đề tài: “Quản
lý hoạt động dịch vụ Karaoke trên địa bàn thị xã Cửa Lị, tỉnh Nghệ An”để
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn hóa – chuyên ngành Quản lý Văn
hóa. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình đưa karaoke trở thành mơ
hình văn hóa lành mạnh, ứng dụng thiết thực vào cuộc sống; kiến nghị một số
giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong hoạt
động kinh doanh karaoke; góp phần cùng thị xã Cửa Lò và cả nước thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Khóa luận đi sâu tìm hiểu phân tích hoạt động dịch vụ karaoke, những
vấn đề đặt ra với tư cách là sản phẩm văn hóa tinh thần;
- Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra của
hoạt động dịch vụ karaoke ở các quán karaoke, nhà hàng karaoke, các tụ điểm
karaoke trên địa bàn thị xã Cửa Lò đối với việc phát triển du lịch.
7


3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài khơng đi sâu tìm hiểu nguồn gốc đặc trưng sự hình thành và phát
triển của hoạt động karaoke, mà phân tích để đi đến:

- Khẳng định karaoke là một sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần;
- Tìm hiểu những u cầu khách quan và giá trị xã hội của hoạt động
karaoke;
- Tìm hiểu thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke;
- Đề ra phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động
kinh doanh dịch vụ Karaoke.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp tổng hợp.
4. Đóng góp của đề tài.
- Các giải pháp được đề xuất cho nghiên cứu của khóa luận thể góp phần
ứng dụng vào thực tiễn quản lý hoạt động dịch vụ karaoke tại địa bàn thị xã
Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
5. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
khóa luận được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý hoạt động văn hóa và dịch vụ
karaoke;
Chương 2: Thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh karaoke ở thị xã Cửa Lò,
tỉnh Nghệ An;
Chương 3: Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke
ở thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.

8


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ
DỊCH VỤ KARAOKE
1.1 Khái niệm quản lý
Trong đời sống xã hội bao gồm nhiều phương diện nhu cầu, địi hỏi có
nhiều lĩnh vực hoạt động của con người để đáp ứng những nhu cầu đó: hoạt
động trên lĩnh vực kinh tế, hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, hoạt động trên lĩnh
vực chính trị, hoạt động trên lĩnh vực xã hội, hoạt động trên lĩnh vực khoa
học, văn hóa, giáo duc,…Mác nói: Mọi lĩnh vực hoạt động này đều đặt dưới
sự chỉ huy của một cơ chế quản lý xã hội toàn bộ, đều đặt dưới sự chỉ huy của
một cơ chế quản lý xã hội toàn bộ đều phải có một sự chỉ đạo để điều hịa
những hoạt động của cá nhân…, của các thiết chế trong xã hội,…Một nhạc sỹ
độc tấu thì có thể tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có
một nhạc trưởng.
Khái niệm “quản lý” và “lãnh đạo” rất gần gũi nhau, trong ngơn từ
thơng thường có khi cịn đồng nhất nhau. Tuy vậy, nên có sự phân biệt để
thấy rõ vai trò và chức năng của chúng . Lãnh đạo – là hình thức quản lý cao
nhất, chung nhất, là sự quản lý ở cấp chiến lược. Nó là sự chỉ huy chiến lược
các hoạt động trong xã hội theo một đường hướng chính trị, tư tưởng của
Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, thể hiện qua những đường lối, nghị quyết
của Đảng cầm quyền, cụ thể ở nước ta là Đảng Cộng sản Việt Nam. Cịn quản
lý, đó là sự điều khiển chiến thuật các hoạt động trong xã hội bằng thể chế
pháp luật, chính sách, bộ máy quản lý nhà nước, ban hành căn cứ theo đường
lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trong quản lý chiến thuật này có sự quản lý
của Chính phủ nói chung và sự quản lý của từng Ngành, từng Bộ nói riêng.
Khái niệm quản lý còn liên quan với khái niệm điều khiển. Cho nên khi
nói tới quản lý, thường phải phân chia ra thành hai dạng quản lý cơ bản: quản
lý trong tự nhiên, trong ký thuật, quản lý trong xã hội. Quản lý trong tự nhiên
là điều khiển giới tự nhiên, điều khiển loài vật…Quản lý trong kỹ thuật là
điều khiển máy, có thể người điều khiển máy và cũng có thể máy tự động
điều khiển máy. Cịn quản lý trong xã hội là điều khiển toàn bộ các hoạt động

của xã hội, đó là sự quản lý bằng người điều khiển người, có khi có thể người
9


sử dụng máy móc để điều khiển người. Ở đây chủ thể điều khiển là con
người, mà khách thể chịu điều khiển cũng là con người với nhiều dạng nhiều
lĩnh vực hoạt động của nó.
Quản lý là một sự điều tiết cao, mang tính xã hội. Nó ln là một hoạt
động có hướng đích giữa chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý, khiến các
hoạt động trong xã hội phải tự giác tuân thủ đi đúng theo những đường hướng
mà Đảng và Nhà nước lãnh đạo vạch ra. Nó là một q trình tác động giữa
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý, thông qua những biện pháp, phương
pháp, phương tiện quản lý, nhằm hồn thiện hóa hoặc làm thay đổi tình trạng
hiện hữu. Nói đến quản lý là nói đến là nói đến cả một quá trình chứ khơng
phải chỉ nói đến như một hành động tức thời hay chỉ như một hành động ngăn
chặn. Cho nên, cũng có thể nói rằng, quản lý là một quá trình: đi từ chỗ nắm
được, nắm đúng cái hiện có – thấy được, thấy đúng cái cần có - biết tìm mọi
biện pháp khả thi và tối ưu để đưa từ cái hiện có lên tới cái cần có. Những
biện pháp khả thi và tối ưu này có thể diễn ra ở nhiều mức độ, hình thức khác
nhau: xóa bỏ, điều chỉnh, hoàn thiện, làm mới,…với những mức độ can thiệp
tồn triệt, nhiều, ít, khơng can thiệp của Nhà nước, hoặc sự tự quản của nhân
dân theo đúng quy định quản lý của Nhà nước.
1.2 Quản lý hoạt động văn hóa
1.2.1 Khái niệm quản lý hoạt động văn hóa
Quản lý hoạt động văn hóa là một phần, một mặt trong quản lý văn hóa.
Sở dĩ chia nhỏ khái niệm quản lý văn hóa ra vì tính đa nghĩa của thuật ngữ
văn hóa. Khái niệm n hóa rất đa nghĩa, dễ co giãn khi sử dụng. Đã có trên
ba trăm định nghĩa về văn hóa mà vẫn chưa nói hết được ý nghĩa của văn hóa.
d rico Mayor ví Văn hóa như một vũ trụ chất lỏng trong một vũ trụ chất
rắn. Cịn giáo sư Phan Ngọc cho rằng, khơng có các vật gì gọi là văn hóa cả,

và ngược lại bất k vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại. Rõ ràng, văn hóa
mang tính trừu tượng, một hiện tượng vơ hình, một đối tượng phi vật thể.
Trong khoa học, người ta có thể tiếp cận với văn hóa, hoặc riêng r
hoặc tổng hợp, cả trên ba bình diện: văn hóa với tính cách một nền văn hóa;
văn hóa với tính cách những cái/thuộc tính văn hóa; và văn hóa với tính cách

10


những hoạt động văn hóa. Ở đây, chúng ta tập trung vào lĩnh vực quản lý hoạt
động văn hóa. Có như vậy mới thuận tiện cho thực thao quản lý, cũng như
cho việc hoạch định chính sách quản lý. Khơng nên lẫn lộn giữa "hoạt động
văn hóa" với "nền văn hóa" và "cái/tính văn hóa". Hoạt động văn hóa là
những quá trình thực hành của cá nhân và các thiết chế xã hội trong việc sản
xuất, bảo quản, phân phối giao lưu và tiêu dùng những giá trị văn hóa tinh
thần, nhằm giao lưu những tư tưởng, ý nghĩa và những tác phẩm văn hóa của
con người sinh ra và cũng chính là để hồn thiện chất lượng sống của con
người trong xã hội.
Để thuận tiện cho việc hoạch định chính sách quản lý và qui trình thực
thao quản lý, cần sử dụng có tính khoa học khái niệm “quản lý hoạt động văn
hóa” - quản lý những hoạt động của các cá nhân, các thiết chế xã hội trên lĩnh
vực sản xuất, bảo quản, giao lưu phân phối và tiêu thụ những giá trị văn hóa
tinh thần. Nội dung của quản lý hoạt động văn hóa như vậy phải bao gồm cả
hai mặt có liên quan chặt ch nhau:
- Quản lý hoạt động của các cơ quan, các thiết chế văn hóa, kể cả chun
nghiệp và khơng chun nghiệp, kể cả thuộc thành phần Nhà nước và các
thành phần không phải nhà nước, từ các hoạt động sáng tạo, sản xuất đến các
hoạt động bảo tồn và phân phối các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc và
thế giới.
- Quản lý các hoạt động giao lưu văn hóa của con người trong xã hội, nhằm

tác động đến sự phát triển đời sống tinh thần của xã hội và cá nhân, đến sự
hình thành dư luận xã hội và đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người.
Quản lý văn hóa một cách khoa học là phải tiến hành đồng bộ trong
mối liên hệ hữu cơ của cả hai mặt nói trên. Mục tiêu chung quy là phải xuất
phát từ khát vọng tinh thần tối đa của con người, cả từ việc thỏa mãn đến việc
hình thành nhu cầu tinh thần của con người. Chính qua sự phát triển đời sống
tinh thần như thế s dẫn tới nâng cao chất lượng nhận thức, sáng tạo, định
hướng giá trị, thẩm mĩ và giao lưu của con người, từ đó dẫn tới hoàn thiện các
hoạt động sản xuất, các quan hệ xã hội và toàn bộ lối sống của xã hội và con
người.

11


Bởi trong thế giới tinh thần của con người cho thấy rõ có 5 tiềm năng
chủ đạo, đó là: tiềm năng nhận thức; tiềm năng sáng tạo; tiềm năng định
hướng giá trị; tiềm năng giao tiếp (giao lưu xã hội); tiềm năng thẩm mĩ.
Những tiềm năng ấy được bộc lộ và hình thành trong hoạt động, đồng thời
chúng cũng tương ứng với 5 loại hoạt động văn hóa tinh thần của mỗi con
người. Trong trường hợp nào đó, hoạt động của họ có thể chỉ mới phát triển
được một số tiềm năng nhất định hoặc bị hạn chế. Cho nên nhiệm vụ của hoạt
động quản lý văn hóa, vì mục đích phát triển tồn diện đời sống tinh thần của
cá nhân, là phải lo quản lý làm sao để phát triển đồng bộ tất cả mọi tiềm năng
kể trên. Sự phát triển đồng bộ mọi tiềm năng ấy của cá nhân s cho ph p tạo
ra một "mơ hình tơi" lý tưởng, nghĩa là tạo ra một biểu tượng toàn v n về bản
thân mình đem thể hiện vào những vai trò xã hội của cá nhân (trong tập thể
lao động, trong gia đình, trong giao lưu giờ rỗi,v.v..). Cái mạch tác động của
văn hóa tác động tới con người diễn ra như vậy đúng là cực mạnh. Nhiệm vụ
của quản lý hoạt động văn hóa một cách khoa học là phải làm sao điều khiển
tốt quá trình diễn biến mạch tác động này để đem lại hiệu quả cao nhất - phát

triển nhân cách toàn diện, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
t về phương diện thao tác thực hành, trong quản lý hoạt động văn
hóa, người ta còn phân biệt hai dạng quản lý khác nhau, đó là quản lý Nhà
nước và quản lý sự nghiệp đối với các hoạt động văn hóa. Quản lý Nhà nước
thuộc chức trách của Nhà nước (Chính phủ, y ban nhân dân, Bộ, Sở, Phịng)
thơng qua những giải pháp về pháp luật, thể chế, chính sách, kế hoạch Nhà
nước, v.v...Quản lý sự nghiệp văn hóa là quản lý về phương diện chun mơn
theo từng chun ngành hoạt động văn hóa. Phương diện quản lý này thuộc
chức trách của từng hệ thống thiết chế văn hóa chuyên ngành, mà đứng đầu là
hệ thống các thiết chế văn hóa Nhà nước theo hệ thống quốc gia hành chính.
Thơng qua việc xây dựng những quy chế hoạt động và những biện pháp tổ
chức, chỉ đạo, hướng dẫn phương pháp chuyên môn, mỗi hệ thống thiết chế
văn hóa chuyên ngành Nhà nước có nhiệm vụ quản lý toàn bộ sự nghiệp hoạt
động của các thiết chế văn hóa thuộc cấp hệ thống mình và trên từng địa bàn
lãnh thổ.
1.2.2 Tính ngu ên t c trong quản lý hoạt động văn hóa
Trong quản lý hoạt động văn hóa cũng phải tuân thủ những nguyên tắc
giống như nhiều lĩnh vực khác, nhưng đồng thời cũng có những n t đặc thù
12


riêng của nó. Có thể nêu ra sau đây một số vấn đề có tính ngun tắc trong
việc quản lý hoạt động văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện của nước ta.
- Trong quản lý hoạt động văn hóa cần giữ vững định hướng chính trị do
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra trong từng thời k lịch sử. Cũng có thể
gọi đây là nguyên tắc tính Đảng trong quản lý văn hóa.
Định hướng chính trị mà Đảng vạch ra cho văn hóa thường được trình
bày trong các văn kiện Đại hội Đảng, và được cụ thể hóa trong các Nghị
quyết chuyên đề về văn hóa của Ban chấp hành Trung ương Đảng thuộc từng

nhiệm k Đại hội. Chẳng hạn, thuộc Đại hội V, Ban bí thư Trung ương Đảng
đã ban hành Nghị quyết số 36 NQ/TW ngày 4/02/1981 chỉ rõ nội dung cương
lĩnh cách mạng văn hóa như một bộ phận của cương lĩnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Thuộc Đại hội VI, Bộ Chính trị lại ban hành Nghị quyết số 05 NQ/TW ngày 28/11/1987 về việc đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản
lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo đưa văn học,
nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới. Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành 3 Nghị quyết chuyên đề
về văn hóa, văn nghệ giáo dục, khoa học cơng nghệ và mơi trường. Riêng về
lĩnh vực văn hóa tinh thần, Nghị quyết 04 NQ/HNTW ngày 14/01/1993 đã
vạch rõ định hướng cụ thể cho một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những
năm trước mắt.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V, Đại hội VIII tập trung bàn
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Nội dung chung trong định hướng chính trị của Đảng đối với văn hóa
qua những k đại hội nói trên đều ln qn xuyến nhằm vào những mục tiêu
căn bản là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy
vạch tách ra như vậy, nhưng thực chất những mục tiêu này ln gắn bó hữu
cơ với nhau như một chỉnh thể trong hoạt động văn hóa xã hội.
Định hướng xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay phải là một nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong định hướng này, thông qua
nhiều văn kiện chỉ đạo khác nhau, Đảng đã vạch ra phương hướng cụ thể cho

13


nhiều lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục. Chẳng hạn: phương hướng nâng
cao trình độ dân trí và hình thành đội ngũ trí thức; phương hướng cho việc
xây dựng tư tưởng, lối sống, gia đình văn hóa; phương hướng cho việc phát
triển văn hóa, nghệ thuật; phương hướng cho việc bảo tồn và phát huy di sản

văn hóa dân tộc; phương hướng cho việc phát triển văn hóa sắc tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; phương hướng cho việc xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở; phương hướng cho việc trân trọng văn hóa tơn giáo trong chủ
nghĩa xã hội;.v.v..
Trong việc xây dựng lối sống hiện nay, cũng đã vạch ra những định
hướng khá rõ: Đó là một lối sống theo đạo lý vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì
nguyên tắc ứng xử “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; đó là
lối sống đặt giá trị lao động lên hàng đầu, kể cả lao động chân tay và lao động
trí óc; đó là lối sống dân chủ, công bằng và nhân ái; và nữa, đó cũng phải là
lối sống văn minh, sống theo pháp luật, sống có khoa học. Cịn về phương
hướng xây dựng con người mới hiện nay, như trong cương lĩnh Đại hội VII đã
vạch ra, thì “đó là con người có ý thức làm chủ, có ý thức trách nhiệm cơng
dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa;
giầu lịng u nước và tinh thần quốc tế chân chính”. Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước từ Đại hội VII, Đại hội VIII cũng đã xác định Gia đình là mơi
trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, cho nên đã chỉ
hướng cho việc xây dựng gia đình phải là “gia đình no ấm, hịa thuận, tiến
bộ”, và đòi hỏi mọi người trong xã hội phải nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia
đình, địi hỏi các hoạt động văn hóa phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc giữ vững định hướng chính trị của
Đảng, trong quản lý hoạt động văn hóa địi hỏi phải thực thi tốt mấy biện
pháp cơ bản. Một là, phải tăng cường những hoạt động nghiên cứu và học tập
những đường lối về vấn đề văn hóa của Đảng, cũng như học thuyết Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đồng thời nghiên cứu, học tập
thấm nhuần cơ sở văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Trước hết, cần
giáo dục bồi dưỡng đầy đủ những vấn đề này cho cán bộ làm cơng tác văn
hóa và quản lý hoạt động văn hóa. Sau nữa, cần tăng cường tuyên truyền giáo
dục cho quần chúng nhân dân. Hai là, cần thiết nâng cao trình độ lãnh đạo
hoạt động văn hóa của các cấp ủy Đảng, từ trình dộ nhận thức về khoa học

14


văn hóa, quan điểm, nguyên tắc, phương hướng văn hóa của Đảng, cho đến
phương pháp lãnh đạo, quản lý chỉ đạo đối với các hoạt động văn hóa. Ba là,
cần tăng cường vai trò của tổ chức Đảng trong mọi cơ quan văn hóa và mọi
hoạt động văn hóa. Ln luôn chú ý việc củng cố các tổ chức Đảng trong lĩnh
vực văn hóa, xây dựng và kiện tồn các cơ quan chuyên môn làm tham mưu
giúp cấp ủy lãnh đạo văn hóa từ Trung ương đến cơ sở.
- Mọi hoạt động văn hóa trong xã hội đều phải đặt dưới sự quản lý của Nhà
nước, kết hợp với quyền làm chủ của nhân dân. Có thể gọi đây là nguyên tắc
tính Nhà nước và tính nhân dân trong quản lý hoạt động văn hóa. Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ vốn là một cơ chế quản lý hợp
qui luật trong điều kiện xây dựng xã hội đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nó phải được đảm bảo thực hiện đầy đủ trên mọi lĩnh vực quản lý xã hội,
trong đó có quản lý hoạt động văn hóa.
Trên thế giới có thể cịn có nhiều nước, nhất là các nước theo chủ nghĩa
tư bản ở phương Tây, không quan tâm lắm đến lĩnh vực quản lý hoạt động
văn hóa. Họ khơng đặt ra những vấn đề về nguyên tắc trong quản lý hoạt
động văn hóa, cũng khơng xây dựng thành hệ lý thuyết và phương pháp quản
lý hoạt động văn hóa.
Nhưng trong điều kiện của xã hội đi theo con đường chủ nghĩa xã hội,
như ở nước ta, do trách nhiệm là Nhà nước phải chăm lo cả đời sống vật chất
và đời sống tinh thần của nhân dân, cho nên Nhà nước phải đảm trách quản lý
lĩnh vực hoạt động văn hóa. Vì nhiệm vụ phải giáo dục nhân dân, đồng thời
phải đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
không thể không bao quản mọi hoạt động của mọi thiết chế văn hóa và mọi
phong trào văn hóa của nhân dân.
Trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với văn hóa được thể hiện cụ
thể trên nhiều phương diện thực hành-xã hội: Nhà nước phải ban hành nhiều

thể chế pháp luật, nhiều chính sách/chế độ,.v.v.. để đảm bảo cho lĩnh vực hoạt
động văn hóa. Nhà nước phải chăm lo xây dựng qui hoạch phát triển văn hóa;
vạch ra những nhiệm vụ tiến hành từng thời đoạn, xây dựng thành chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước. Nhà nước cũng có trách nhiệm bảo đảm nguồn lực vật chất,
tài chính, nhân lực và nhiều điều kiện, biện pháp khác cho sự phát triển văn
hóa và đáp ứng hợp lý nhu cầu văn hóa của nhân dân. Để trực tiếp quản lý
15


hoạt động văn hóa, Nhà nước phải thiết lập ra những bộ máy quản lý chuyên
ngành văn hóa có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, và lan tỏa theo mạng
lưới các Bộ, các ngành liên quan, như Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Tổng
cơng đồn, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,.v.v..
Hình thức tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với văn hóa khơng
phải ở nước nào cũng giống nước nào, và khơng phải có một hình thức tổ
chức bộ máy cố định mãi trong mọi thời đoạn lịch sử. Nó có thể thay đổi, tách
ra nhập vào, xen gh p, đổi tên, lập hay không lập một ngành quản lý chuyên
biệt riêng cho “văn hóa”,v.v.. Nhưng điều quan trọng và căn bản trong điều
kiện nào cũng khơng thể khơng có một bộ máy quản lý của Nhà nước, dù
dưới hình thức tổ chức thế nào, bộ máy quản lý này ln ln mang thuộc
tính phải thực hiện được hai u cầu có tính ngun tắc. Đó là: 1) Thực hiện
đầy đủ những nhiệm vụ của chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực
hoạt động văn hóa trên tồn xã hội; 2) Phân định, phân quyền hợp lý giữa
quản lý theo hệ thống dọc của ngành và quản lý theo hệ thống ngang của
chính quyền địa phương trên từng địa bàn xã hội và lãnh thổ.
Sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động văn hóa khơng đồng nghĩa
với quan niệm “Nhà nước hóa” các hoạt động văn hóa. Một bên là chức trách
của Nhà nước điều khiển mọi hoạt động văn hóa, cịn một bên được coi như là
sự bao cấp của Nhà nước đối với mọi hoạt động văn hóa. Không nhất thiết sự
điều khiển phải đồng nhất với sự bao cấp. Cho nên, từ đây, đặt ra hai vấn đề

quan trọng cho quản lý của Nhà nước đối với hoạt động văn hóa trong xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, sự quản lý Nhà nước phải đi đơi, kết hợp và phát huy có hiệu
lực sự tự quản của nhân dân đối với hoạt động văn hóa. Có thể coi đây là một
cơ chế quản lý vẫn thường nói là “Nhà nước quản lý kết hợp với quyền làm
chủ tập thể của nhân dân”. Khi xã hội có trình độ dân chủ hóa cao, trình độ
giác ngộ và dân trí của nhân dân ngày càng cao, thì sự quản lý trở thành sự tự
quản lý mỗi ngày mỗi thêm cao. Thuận theo cơ chế quản lý này, trong mọi
lĩnh vực hoạt động văn hóa, bên cạnh bộ máy quản lý của Nhà nước, còn cần
thiết lập ra nhiều hình thức tổ chức tự quản khác nhau. Ví như, những hội
đồng văn hóa, hội đồng phối hợp xây dựng văn hóa, đại hội văn hóa nhân dân,
hội đồng bảo trợ văn hóa,.v.v.. Hoặc bên cạnh những pháp luật quy chế hoạt
động văn hóa của Nhà nước ban hành, còn nên xây dựng thêm những quy
16


ước, “hương ước”, “quy ước nếp sống văn hóa”, cam kết v.v… của nhân dân
về hoạt động văn hóa.
Hai là, trong quản lý hoạt động văn hóa và điều kiện phát triển xã hội
hiện nay, cần thiết áp dụng cả chế độ bao cấp và “chế độ xóa bao cấp”. Tuy
tất cả mọi hoạt động văn hóa trong xã hội đều chịu sự quản lý của Nhà nước,
nhưng không nhất thiết Nhà nước phải bao cấp hết cho hoạt động của mọi loại
thiết chế văn hóa và mọi phong trào văn hóa quần chúng, cũng như của mọi
thành phần tổ chức hoạt động văn hóa. Nhà nước s phải có sự phân loại các
hoạt động văn hóa trong xã hội để quy định hợp lý chế độ bao cấp nhiều, bao
cấp ít, hay khơng bao cấp.
Khi đưa ngun tắc này vào cuộc sống hoạt động văn hóa, người ta
thường biểu thị bằng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Nhưng thấy cần thiết phải nhận thức đầy đủ và vận dụng phát triển hơn nữa
phương châm này. Không nên chỉ để hiểu phiến diện thiên về phía sự đóng

góp kinh tế của nhân dân cho hoạt động văn hóa. Phương châm này hiện nay
cần được nâng lên và gắn bó chung trong bối cảnh đất nước có chủ trương xã
hội hóa, phát triển nhiều thành phần hoạt động văn hóa. Ở đây, tính nhân dân
trong quản lý hoạt động văn hóa đã gắn bó chặt ch với tính xã hội hóa.
Thuận theo chủ trương xã hội hóa, mọi người dân cũng như mọi chủ
thể xã hội khác nhau đều được quyền hoạt động văn hóa và có nhiệm vụ giữ
gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, tính nhân dân đã gần gũi với tính
nhiều chủ thể nhân dân khác nhau cũng làm (hoạt động) văn hóa. Nó cũng
cho thấy rõ việc quản lý hoạt động văn hóa trong xã hội là chỉ thuộc quyền
duy nhất của Nhà nước, cịn hoạt động văn hóa trong xã hội là thuộc quyền
của nhiều chủ thể xã hội, nhân dân. Có những thiết chế, cơ quan do Nhà nước
lập ra để làm (hoạt đơng) văn hóa - “quốc lập”. Có những thiết chế, đơn vị do
các hội nghề nghiệp, tơn giáo, các nhóm nhân dân,.v.v.. lập ra để làm (hoạt
động) văn hóa - “dân lập”. Các chủ thể xã hội ấy cùng làm (hoạt động) văn
hóa và đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả quốc lập, dân lập hay tập thể lập.
Khi chủ thể nào đứng ra để làm (hoạt động) văn hóa thì chủ thể ấy phải lo
đảm đương hết cả mọi phương diện, từ bộ máy quản trị và nhân lực chun
mơn, từ kinh phí cho đến việc xây dựng chương trình hoạt động chun mơn.
Nhà nước không thể bao cho tất cả mọi chủ thể làm (hoạt động) văn hóa.
Nhưng tất cả mọi chủ thể làm (hoạt động) văn hóa đều phải đặt dưới sự quản
17


lý chung của Nhà nước và sự điều động của Nhà nước. Trong điều kiện nước
ta hiện nay chủ thể Nhà nước làm (hoạt động) văn hóa - “quốc lập” - cần phải
đóng vai trị chủ đạo, cho nên Nhà nước phải lo bao tất cả về mặt kinh tế, cịn
đối với các chủ thể làm (hoạt động) văn hóa khác, Nhà nước chỉ có thể giúp
đỡ tài trợ chừng nào đó.
Tóm lại, cần phân biệt rạch rịi giữa quản lý và hoạt động văn hóa.
Quản lý là thuộc quyền chỉ của Nhà nước, cịn hoạt động văn hóa (làm) là

thuộc quyền của nhiều chủ thể xã hội - nhân dân. Khi nói tính nhân dân trong
quản lý hoạt động văn hóa, nên đem phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm” gắn với chủ trương xã hội hóa và tư tưởng “sự quản lý của Nhà
nước đi đôi với sự tự quản của nhân dân”. Không nên hiểu theo cách chia ra
làm “hai bên”, một bên là Nhà nước, một bên là nhân dân, để rồi “hai bên”
cùng chung nhau làm. Cũng không nên hiểu phương châm này thiên về phía
bao cấp kinh tế cho hoạt động văn hóa, hoặc nhân dân đóng góp tiền để chủ
thể Nhà nước (thiết chế văn hóa quốc lập) làm (hoạt động) văn hóa.
- Trong cơng tác quản lý cần biết trân trọng những n t đặc thù của hoạt động
văn hóa. Khơng nên vận dụng mọi phương thức quản lý hoạt động văn hóa
hồn tồn giống như quản lý các lĩnh vực hoạt động khác.
Chính V.I.Lênin cũng đã có lần nói: “Sự nghiệp văn học ít thích hợp
nhất với sự cào bằng máy móc, đối với sự san bằng, đối với việc số đơng
thống trị số ít. Đương nhiên trong sự nghiệp đó tuyệt đối phải đảm bảo phạm
vi hết sức rộng rãi cho sáng tạo cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư
tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”. Lênin khơng thích,
khơng tán thành thơ Maiacốpski, khơng thích, khơng tán thành các khuynh
hướng hội họa mới, hiện đại, trừu tượng… Nhưng đối với Lênin, những điều
đó khơng biến thành những điều kiêng kỵ, cấm đốn.
Cái đặc thù của hoạt động văn hóa tập trung xuất phát từ tính đặc thù
của sự sáng tạo những giá trị văn hóa tinh thần, kể từ những tác phẩm văn
hóa, khn mẫu văn hóa, đến những chương trình văn hóa. Sự sáng tạo giá trị
văn hóa là một q trình sản xuất tinh thần đặc biệt, khơng tn thủ hồn tồn
máy móc theo như qui trình cơng nghệ sản xuất những dạng sản phẩm vật
chất. (Ở đây cần phân biệt sự khác nhau giữa việc sản xuất văn hóa với tính
cách sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa với việc sản xuất mang tính cách
18


tăng bản những sản phẩm văn hóa ấy). Qui trình sản xuất những sản phẩm

văn hóa có khi chỉ do một cá nhân thực hiện, có khi do cả một tập thể thực
hiện. Có trường hợp người sáng tạo tác phẩm vừa phải làm luôn nhiệm vụ
người tăng bản tác phẩm. Hơn nữa, kết quả của hoạt động văn hóa còn tùy
thuộc đáng kể vào tài năng, năng khiếu của người sáng tạo và khó mà lượng
giá được. Giá trị sử dụng hay hiệu quả tác động của sản phẩm văn hóa sáng
tạo cũng khó có thể đánh giá và lượng giá được trong thời gian và không gian.
Người ta chưa tìm ra phương thức để tính tốn cụ thể hiệu quả của sự sáng tạo
văn hóa, kể cả mặt lợi và mặt hại (nếu có). Chỉ biết rằng hiệu quả tác động
của nó là hiệu quả tinh thần, theo cấp số nhân, đồng thời cũng có cả hiệu quả
vật chất tức thời chừng nào đó.
Từ những n t đặc thù nói trên đặt ra cho quản lý hoạt động văn hóa
những yêu cầu cần thiết. Một mặt, cần có thái độ trân trọng, ưu ái và khoan
dung đối với hoạt động văn hóa, kể cả với cá nhân người làm văn hóa và các
phong trào văn hóa. Nên chủ yếu dùng các biện pháp khích lệ, động viên,
khuyến giáo, hơn là nặng nề về những biện pháp cảnh cáo, gị p, cưỡng chế,
cấm đốn. Lại cần có sự thơng cảm, hoạt động trên lĩnh vực văn hóa khơng dễ
dàng, nó như một mặt trận, một “trận đồ bát quái”. Động cơ của hoạt động
văn hóa là sự say mê tinh thần, chứ không phải sự say mê vật chất; chưa kể là
còn chịu thiệt thòi về mặt vật chất so với nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Mặt
khác, trong chỉ đạo thực hành xã hội đối với kế hoạch phát triển hoạt động
văn hóa, khơng nên có sự cào bằng máy móc, tính tốn hoạch tốn cung - cầu
máy móc, hoặc áp dụng qui trình cơng nghệ máy móc. Cịn việc đầu tư cho
hoạt động văn hóa, khơng nên có thái độ gượng gạo, ban ơn, xuất phát từ
quan hệ thiện cảm hay không thiện cảm. Không nên rập khn máy móc cơng
thức đầu tư cho hoạt động văn hóa như đầu tư cho các lĩnh vực khác.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động văn hóa
trong chương này s giúp chúng ta có hiểu biết về mặt lý luận, nắm vững các
khái niệm về quản lý, quản lý văn hóa, quản lý hoạt động văn hóa. Từ đó tạo
cơ sở để đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn quản lý hoạt động văn hóa tại huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ở chương tiếp theo.


19


1.3 Quản lý hoạt động karaoke.
1.3.1 Hoạt động karaoke một sinh hoạt văn hóa hiện đại.
Karaoke bắt nguồn từ sự kết hợp của chữ KARA có nghĩa là “khơng”
(cũng như trong mơn karate có nghĩa là tay khơng với chữ OKE (viết tắt của
chữ Okesutora) có nghĩa là dàn nhạc. Karaoke cấu tạo bởi 2 phần: phần nhạc
nền được ghi âm trước được phối đồng bộ (cùng xung) với phần chữ (lời bài
hát); phần xướng dành cho người biểu diễn (hát) trực tiếp cầm micro biểu
diễn theo nhạc và chữ chạy trên màn hình (tivi).
Thơng qua cách giải thích trên, nguồn gốc của karaoke có xuất xứ từ
Nhật Bản; khi nói đến nước Nhật khơng thể khơng nói đến các quán Bar; chơi
đàn Ghita hoặc chơi đàn Piano truyền thống, vốn là địa bàn giải trí chủ yếu
của các doanh nhân Nhật từ nhiều năm trở về trước. Trong các quán Bar, khán
giả được mời hoặc tình nguyện hát với nhạc đệm của Piano. Từ đó, karaoke
bắt đầu hình thành tại thành phố Kore của nước Nhật vào những năm 1970;
Kore là một thành phố cảng vùng Kansai, vốn đã là nơi mở cửa thương mại
quốc tế vào đầu năm 1868 thời k Meiji như một cánh cửa cho Nhật Bản phát
triển. Kore nổi tiếng và vinh hạnh là thành phố đứng đầu về thời trang và sự
sáng tạo về lĩnh vực kinh doanh với nhiều sản phẩm mới lạ như: tắm hơi, siêu
thị, thời trang, karaoke...
Karaoke ra đời sau câu chuyện kể rằng ở một quán nọ tại thành phố
Kore, nhạc cơng vì một lý do nào đó khơng có mặt tại buổi diễn, ơng chủ
quan Bar quyết định bật băng ghi nhạc cho mọi người hát và từ khởi nguồn
đơn giản đó karaoke đã ra đời và nhanh chóng trở thành phổ biến. “Hộp”
karaoke đầu tiên xuất hiện vào những năm 1984 trên cánh đồng lúa tại Miền
quê Okayama phía Tây Kansai. Nó được làm từ những toa xe chở hành khách
đã được cải tiến lại. Từ đó các hộp karaoke được xây dựng trên những vùng

đất trống khắp nơi trên đất Nhật. Và trong khu thành thị, phòng hát karaoke
được chia làm nhiều ngăn (phòng) và được cách âm phát triển ngày càng
nhiều hơn.
Cũng có thơng tin cho rằng, xuất xứ của karaoke từ một người tên là
Daisuke Inoue; năm 31 tuổi khi còn là người chơi đàn Keyboard trong một
câu lạc bộ, ông đã phát minh ra máy hát karaoke đã gây cơn sốt khắp thế giới.
Động cơ sáng chế ra chiếc máy này, theo Inoue là do ơng lười vì cứ phải đệm
20


đàn cho khách hàng câu lạc bộ hát hết bài này sang bài khác, trong khi Inoue
không biết đọc nhạc (dù đã chơi trống từ năm 16 tuổi). L ra Daisuke Inoue
đã thành tỉ phú nếu ba thập niên trước ông kịp thời xin cấp bằng sáng chế cho
phát minh karaoke. Nay, con người đã tạo ra một công nghiệp mà chỉ trên đất
Nhật thôi, doanh thu đã lên tới 7,5 tỉ USD/năm, đang hy vọng đặt dấu ấn của
mình cho cái mà ông gọi là cuộc "cách mạng sạch". Nhà phát minh karaoke
thành thật thú nhận: "Chơi đàn cho khách hàng chẳng có gì khó. Nhưng căng
nhất là tháng nào phải học thuộc lòng nhiều bài mới trong khi tôi không đọc
nhạc được". Ý tưởng làm máy hát karaoke nảy ra năm 1971, khi một khách
hàng mời Inoue đi theo đàn cho ông ta hát trong một cuộc du ngoạn cuối tuần
của công ty; Inoue không thể bỏ việc tại câu lạc bộ. Vì nể khách, Inoue làm
ra một đọan băng có nhạc nền sẵn cho ơng này. Cuối năm đó, ở tuổi 31, Inoue
làm ra chiếc máy hát karaoke đầu tiên mang tên Juke 8. Nhưng Inoue chỉ
kiếm được tiền ba năm sau nhờ bán các máy karaoke hát bằng băng video qua
các thiết bị của những công ty Daiichikosho, nay là công ty karaoke hàng đầu
thế giới. Doanh thu của Inoue đã giảm đi 12 năm, sau khi các máy hát bằng
đĩa Laser xuất hiện, và cuối cùng Inoue phải biến công ty từ sản xuất máy
karaoke thành một công ty thương mại. Inoue được trao giải Nobel năm 2004
với lời bình là ơng "đã tạo ra một thiết bị giúp con người biết chịu đựng lẫn
nhau".

Nền công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với tốc độ đơ thị hóa cao đã làm
cho mơi trường bị ơ nhiễm; khơng gian nghỉ ngơi ngồi trời bị hạn chế, chính
vì vậy sự phát triển các hoạt động giải trí trong nhà như các quán Bar, vũ
trường, phòng hát karaoke… là cần thiết. Sự vượt trội của Video âm nhạc như
một hình thái kinh doanh của ngành cơng nghiệp âm nhạc mang phong cách
dân gian - hiện đại là điều kiện tiên phong cho sự phát triển của karaoke.
Karaoke thật sự bùng phát khi công nghệ đĩa Laser và đĩa Compact cho ph p
những bài hát thể hiện trên màn hình tivi, trong khi âm nhạc nổi lên và xác
định vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các cơng ty âm nhạc, việc
thương mại hóa kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho sự quảng cáo
các bài hát âm nhạc Pop và các ngôi sao mới.
Karaoke trong tiến trình phát triển đã có sự tiến hóa nhất định. Từ
những ngày đầu ghi trên băng đĩa; karaoke được chuyển sang đĩa CD
(Compact disc), cuối cùng kết hợp với Video, đồ họa nhạc với lời bài hát hiện
21


trên màn hình nhắc cho những người khơng nhớ lời nhạc. Một ngành công
nghiệp đã được mở ra xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được
chuyển dụng để nâng cao trình diễn. Những dàn máy tại gia đình, các thư viện
phần mềm được hồn thiện, các micro cho khách và những chiếc hộp có sẵn;
chúng đang sẵn sàng “vào cuộc hát karaoke”. Các phòng thu đã mở cửa cho
khách khi có yêu cầu đến để thu âm giọng hát của mình; đồng thời các cuộc
thi hát karaoke được tổ chức ở nhiều nơi. Karaoke ngày càng được biết đến
khơng chỉ ở Nhật mà cịn lan rộng ở nhiều quốc gia khác như: Mỹ, Nga,
Trung Quốc... tất cả các quốc gia đã tiếp thu nó như một giá trị văn hóa và
đưa vào hoạt động trong cuộc sống hàng ngày, được xem là món ăn tinh thần
của từng dân tộc. Việt Nam cũng đã sớm tiếp thu giá trị văn hóa này, đến nay
phát triển trên phạm vi tồn quốc. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là
nền văn hóa mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh

hoa văn hóa nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc
và quốc tế. Chính vì thế, karaoke được tiếp nhận, ứng dụng trong đời sống và
được xem như món ăn tinh thần của người Việt. Năm 1980 karaoke được du
nhập vào Việt Nam; con đường du nhập karaoke vào Việt Nam đang có nhiều
tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu. Có nhiều người cho rằng, những thương
nhân người Nhật khi vào Việt Nam làm việc, trong thời gian thư rỗi họ đã hát
karaoke; sau đó người Việt chúng ta đã học hỏi và karaoke được xuất hiện ở
Việt Nam. Nhưng có một số ý kiến khác lại cho rằng không phải karaoke
được truyền từ người Nhật mà từ khách du lịch trên thế giới, họ đến Việt Nam
để tham quan, du lịch và chính họ đã tổ chức hoạt động này nhằm để giải trí
trong nhà, nhất là ban đêm. Còn nhiều ý kiến khác nữa về karaoke, nhưng một
điều mà chúng ta phải cơng nhận, đó chính là sự học hỏi và tiếp thu văn hóa
của nhân loại và ứng dụng vào cuộc sống; điều đó “khẳng định karaoke là
một sinh hoạt văn hóa hiện đại”.
1.3.2 Chính sách của Nhà nƣớc đối với việc quản lý hoạt động Karaoke.
Song song với sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa
có chiều hướng “đi chệch”; tình hình quản lý các hoạt động văn hóa có biểu
hiện bng lỏng, thiếu kiên quyết. Hệ thống các văn bản pháp quy của nhà
nước về quản hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa nói chung, karaoke nói
riêng ra đời nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trên lĩnh vực hoạt động này như:

22


Chỉ thị: Chỉ thị số 09/2000/CT-TTg ngày 20/4/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tiến hành kiểm tra hoạt động dịch vụ văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hóa; Chỉ thị 17/2005/CT-TTg ngày 25/5/2005 của Thủ
tướng chính phủ về việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar,
nhà hàng, karaoke, vũ trường (bãi bỏ Chỉ thị 814/TTg). Chỉ thị này nêu rõ về
việc tạm ngừng việc cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh quán bar,

nhà hàng karaoke, vũ trường; tạm ngừng cấp mới Giấy phép kinh doanh
karaoke, vũ trường trên phạm vi cả nước để các cấp, các ngành tiến hành rà
sốt, đánh giá tình hình hoạt động của các cơ sở hiện có, từ đó xây dựng quy
hoạch và tăng cường các biện pháp quản lý các loại hình dịch vụ này; đồng
thời Bộ Cơng an chủ trì, phối hợp với các Bộ: Văn hố - Thơng tin, Lao động
- Thương binh và ã hội, Y tế, Thương mại; Tổng cục Du lịch, Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Bộ, ngành có liên quan,
tổ chức đợt kiểm tra trên phạm vi cả nước, tập trung vào các địa bàn trọng
điểm, kiên quyết truy qu t, ngăn chặn và triệt phá các tệ nạn xã hội trong hoạt
động của quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường và các nghề kinh doanh nhạy
cảm dễ phát sinh tệ nạn xã hội.
Nghị định: Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 của Chính
phủ quy định về xử phạt hành chính trong các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn
hóa. Tại mục 3 Điều 18, 19, 20, 21, 22, 23 của Nghị định này nêu rõ về mức
xử phạt hành chính trong quán karaoke, như: phạt 500.000 đồng đến
1.000.000 đồng đối với hành vi cho người say rượu, bia vào phòng karaoke,
phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các phòng hát
karaoke không bảo đảm đủ ánh sáng theo quy định, phạt tiền từ 3.000.000
đồng đến 5.000.000 đồng đói với hành vi sử dụng 4-5 nhân vên phục vụ trong
một phòng karaoke.
Quy chế, quy định: Quy chế lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình,
băng đĩa nhạc, bán cho thuê xuất bản phẩm; hoạt động văn hóa và dịch vụ văn
hóa nơi công cộng; quảng cáo, viết đặt biển hiệu (Ban hành kèm theo Nghị
định số: 87/CP ngày 12/12/1995 của Chính phủ). Nghị định 87 nêu rõ về việc
quán Karaoke, vũ trường không được hoạt động trong khoảng thời gian từ 24
giờ đến 5 giờ sáng, trường hợp vũ trường cần hoạt động sau 24 giờ để phục
vụ khách nước ngoài, phải được phép của Sở Văn hố - Thơng tin sở tại,
nhưng cũng không được quá 2 giờ sáng; Âm lượng lọt ra ngồi phịng khán
giả, phịng khiêu vũ, karaokê khơng được vượt quá quy định của Nhà nước về


23


tiêu chuẩn "Mức ồn tối đa cho ph p" - (TCVN số 5949-1995): từ 6h đến dưới
18h không quá 60 đề-xi-ben; từ 18h đến dưới 22h không quá 55 đề-xi-ben; từ
22h đến 24h không quá 50 đề-xi-ben. Quy chế “Hoạt động văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng (Ban hành kèm theo Nghị định số
103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ). Văn bản này nêu rõ các
điều kiện kinh doanh karaoke: phịng có diện tích từ 20m2 trở lên, cửa phịng
karaoke là cửa khơng màu; văn bản này còn quy định về thẩm quyền và thủ
tục cấp giấy phép knh doanh karaoke, trách nhiệm của chủ cơ sở kinh doanh
karaoke, quy định về hoạt động karaoke khơng có mục đích kinh doanh, quy
định cấm trong hoạt động karaoke.
Trên cơ sở các quy định của Chính phủ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch tiếp tục ra các thơng tư hướng dẫn thực hiện quy định về hoạt động kinh
doanh dịch vụ văn hóa: Thơng tư số 35/2002/TT-BVHTT ngày 20/12/2002
hướng dẫn bổ sung một số quy định về hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa
nơi cơng cộng tại quy chế ban hành kèm theo nghị định 87/CP ngày
12/12/1995 của chính phủ, văn bản này nêu rõ về điều kiện cấp ph p và điều
kiện hoạt động dịch vụ karaoke. Thơng tư 69/2006/TT-BVHTT ngày
28/8/2006 của Bộ Văn hóa thông tin, hướng dẫn thực hiện một số quy định về
kinh doanh vũ trường, karaoke, trò chơi điện tử quy định tại Quy chế hoạt
động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng ban hành kèm theo
Nghị định 11/2006NĐCP. Thông tư số 54/2006/TT-BVHTT ngày 24/5/2006
của Bộ văn hóa thơng tin hướng dẫn quy hoạch nhà hàng karaoke, vũ trường.
Văn bản này đã chỉ ra một cách khá cụ thể những "địa chỉ cấm" đối với loại
hình kinh doanh này. Các nhà hàng karaoke, vũ trường không được đặt tại các
khu phố cổ, khu nhà chung cư, các đường phố, quảng trường - nơi tổ chức các
hoạt động chính trị, xã hội có quy mơ lớn ở địa phương; Thơng tư số
156/2012/TT-BTC của Bộ tài chính quy đình về mức thu, chế độ thu, quản lý

và sử dụng lệ phí cấp giấy phép kinh doanh karaoke, lệ phí cấp giấy phép
kinh doanh vũ trường. Văn bản này chỉ ra mức thu lệ phí cấp giấy phép kinh
doanh Karaoke và lệ phí cấp giấy ph p kinh doanh vũ trường.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan đòi hỏi chính phủ, Sở văn hóa
thể thao và du lịch cùng các ban ngành chức năng nhanh chóng bổ sung, hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp quy và các quy định điều chỉnh kinh doanh hoạt
động văn hóa.

24


Hệ thống các văn bản pháp quy trên là cơ sở pháp lý để cán bộ quản lý
thực hiện tốt chức năng của mình. Các văn bản trên đã tỏ rõ hiệu lực pháp lý
cao trong thực tiễn, tạo thành hành lang pháp lý vững chắc cho người quản lý.
Đơn vị kinh doanh karaoke, cán bộ quản lý có căn cứ để quản lý, cịn đối
tượng quản lý có pháp luật bảo vệ, đồng thời tạo thói quen và kinh doanh theo
đúng pháp luật.
Công tác quản lý hoạt động văn hóa đã, đang và s đạt được những kết
quả đáng chú ý trình độ quản lý được nâng cao; hệ thống văn bản pháp quy
ngày càng hoàn thiện và phù hợp đáp ứng yêu cầu và thực tế hoạt động dịch
vụ văn hóa hiện nay.

25


×